Phong trào giải phóng dân tộc trong giai đoạn từ tháng 9/1939 đến tháng 3/1945

Tóm tắt Phong trào giải phóng dân tộc trong giai đoạn từ tháng 9/1939 đến tháng 3/1945: ...ỳ (23/ 11/ 1940) * Nguyên nhân Tháng 11/1940, quân phiệt Xiêm đã khiêu khích và gây xung đột dọc đường biên giới Lào và Campuchia. Thực dân Pháp đã đưa binh lính người Việt và người Cao Miên sang làm bia đỡ đạn chết thay cho chúng. Sự việc này làm cho nhân dân Nam kỳ rất bất bình. Trước ...) cho chúng, bắt dân ta phải nhổ lúa để trồng đay và thầu dầu 3.1.2. Những hoạt động bóc lột tàn nhẫn của thực dân Pháp Để đáp ứng những yêu cầu của Nhật và đảm bảo được quyền lợi như trước đây, thực dân Pháp đã sử dụng nhiều thủ đoạn tàn nhẫn để bóc lột nhân dân ta: + Thi hành chính sách ...hủ: Phần lớn bị sa sút nghiêm trọng và phá sản hàng loạt. Tóm lại: dưới hai tầng áp bức Pháp - Nhật, đời sống của đại đa số người dân Việt Nam lâm vào cảnh cùng bần, điêu đứng, lòng căm thù giặc của họ sôi sục, nếu được lãnh đạo, chắc chắn họ sẽ sẵn sàng đứng lên tiêu diệt kẻ thù. 4. Hội ngh...

pdf15 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 215 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Phong trào giải phóng dân tộc trong giai đoạn từ tháng 9/1939 đến tháng 3/1945, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phong trào giải phóng dân tộc trong giai đoạn từ 
tháng 9/1939 đến tháng 3/1945 
1. Chiến tranh thế giới II bùng nổ và sự chuyển hướng chiến lược của Đảng 
1.1. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và chính sách của thực dân Pháp 
Ngày 01/9/1939, Đức tấn công Ba Lan mở đầu cho cuộc chiến tranh thế giới thứ 
hai. 
Ngày 3/9/1939, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức, Pháp chính thức lâm chiến. Ngay 
sau khi chiến tranh bùng nổ, Mặt trận nhân dân Pháp tan vỡ, Đảng cộng sản Pháp 
bị đặt ngoài vòng pháp luật. 
Ở Đông Dương, chính quyền thực dân Pháp ra lệnh cấm tuyên truyền cộng sản, 
giải tán các tổ chức chính trị và đóng cửa các tờ báo tiến bộ, tiến hành khám xét và 
bắt giam hàng nghìn đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương. Đồng thời, chúng 
còn vơ vét, bóc lột nhân dân Đông Dương và ra lệnh tổng động viên nhằm bắt 
thanh niên Việt Nam đưa sang Pháp tham gia chiến tranh. 
Những chính sách đó đã làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân 
Pháp lên cao và đòi hỏi Đảng ta phải thay đổi sách lược đấu tranh cho phù hợp. 
1.2. Hội nghị TW 6 (11/1939) và chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng 
Trước sự thay đổi của tình hình thế giới và trong nước trong giai đọan chiến tranh 
mới bùng nổ, Trung ương Đảng đã nhanh chóng ra chỉ thị rút vào hoạt động bí mật 
và tạm đình chỉ các cuộc biểu tình để bảo toàn lực lượng. 
Ngày 6/11/1939, Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng do Tổng 
Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì đã diễn ra tại Bà Điểm – Hóc Môn. 
Hội nghị nhận định: Chế độ cai trị ở Đông Dương sẽ trở thành chế độ phát xít tàn 
bạo, các tầng lớp, giai cấp trong xã hội Đông Dương đều bị chính sách của chính 
quyền thực dân làm điêu đứng, mâu thuẫn giữa mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam 
với chính quyền thực dân sẽ trở nên gay gắt, đẩy tinh thần chống đế quốc, giải 
phóng dân tộc lên cao. 
Hội nghị xác định nhiệm vụ, mục tiêu đấu tranh trước mắt là: đánh đổ đế quốc tay 
sai, giải phóng các dân tộc Đông Dương làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. 
Hội nghị chủ trương: 
+ Tạm gác lại khẩu hiệu cách mạng ruộng đất, thay vào đó là khẩu hiệu chống địa 
tô cao, tịch thu ruộng đất của thực dân đế quốc và địa chủ tay sai chia cho dân cày 
nghèo. 
+ Thay khẩu hiệu “Thành lập chính quyền Xô Viết công nông” bằng khẩu hiệu 
“Chính phủ cộng hòa dân chủ”. 
+ Đưa ra chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương 
thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương. 
Về phương pháp đấu tranh: Đảng chuyển từ đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ sang 
đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp nửa hợp pháp 
sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp. 
 Hội nghị còn khẳng định: chiến tranh đế quốc và họa phát xít sẽ làm cho nhân dân 
phẫn uất và cách mạng sẽ bùng nổ. 
1.3. Ý nghĩa lịch sử 
Hội nghị đã đánh dấu sự mở đầu cho việc thay đổi chủ trương chiến lược của 
Đảng: giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, tăng cường mặt trận dân tộc thống 
nhất. 
Thể hiện sự nhạy bén và sáng tạo của Đảng trong việc nắm bắt tình hình, kịp thời 
tập hợp sức mạnh toàn dân tộc, mở đường đi tới thắng lợi của cuộc cách mạng 
tháng Tám năm 1945. 
2. Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kỳ mới 
2.1. Tình cảnh của thực dân Pháp ở Đông Dương sau năm đầu tiên của cuộc chiến 
tranh thế giới thứ hai 
Tháng 6/1940, Chính phủ Pháp đầu hàng phát xít Đức => Thực dân Pháp ở Đông 
Dương bị yếu thế. 
Ở Viễn Đông, phát xít Nhật tiến sát biên giới Việt – Trung và giúp Xiêm gây xung 
đột ở biên giới Lào và Campuchia, uy hiếp thực dân Pháp ở Đông Dương. Đồng 
thời ở trong nước, phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương đang đe doạ 
trực tiếp đến thực dân Pháp. 
Thực dân Pháp phải đối mặt cùng một lúc hai nguy cơ: bị tiêu diệt bởi lực lượng 
cách mạng Đông Dương và bị phát xít Nhật hất cẳng. 
 Để đối phó, chúng đã một mặt thỏa hiệp với phát xít Nhật: 6/1940, Nhật buộc 
Pháp đóng cửa biên giới Việt – Trung; tháng 8/1940, Pháp kí hiệp ước chấp nhận 
cho Nhật nhiều đặc quyền ở Đông Dương; tháng 9/1940, cho Nhật dùng 3 sân bay 
ở Bắc Kì (Gia Lâm, Cát Bi và Phủ Lạng Thương) và sử dụng các con đường ở Bắc 
kì để chuyển quân vào Trung Quốc. 
Mặt khác chúng đã thực hiện chính sách bắt lính, đàn áp, khủng bố cách mạng, 
tăng cường áp bức, bóc lột nhân dân Đông Dương để tạo sức mạnh đối phó với 
phát xít Nhật. 
=> Nhân dân ta sống trong cảnh bần cùng, ngột ngạt, đẩy tinh thần cách mạng lên 
cao và đã làm bùng nổ một số cuộc khởi nghĩa. 
2.2. Những cuộc đấu tranh đầu tiên 
2.2.1. Khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940) 
* Nguyên nhân 
- Ngày 22/9/1940, Nhật đánh vào Lạng Sơn, Pháp thua và rút lui qua Châu Bắc 
Sơn. Nhân cơ hội đó, Đảng bộ địa phương đã lãnh đạo nhân dân Bắc Sơn khởi 
nghĩa. 
* Diễn biến và kết quả 
Nhân dân Bắc Sơn đã tước khí giới tàn quân Pháp để tự vũ trang, giải tán chính 
quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng. 
Sau đó, được sự thỏa hiệp của Nhật, thực dân Pháp đã quay trở lại đàn áp cuộc 
khởi nghĩa rất tàn khốc. 
Đảng bộ ở Bắc Sơn đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh quyết liệt chống khủng bố, xây 
dựng căn cứ quân sự và thành lập đội du kích Bắc Sơn để kháng chiến. 
Ngày 20/10/1940, thực dân Pháp đánh úp lực lượng cách mạng ở căn cứ Vũ Lăng 
làm nghĩa quân tan vỡ. Đội du kích Bắc Sơn phải rút vào vùng rừng núi để củng 
cố lực lượng. 
* Ý nghĩa 
Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng đã để lại nhiều bài học về khởi nghĩa vũ trang 
cho Đảng. Đặc biệt, trong cuộc khởi nghĩa, đội du kích Bắc Sơn được thành lập – 
Đây là lực lượng vũ trang cách mạng đầu tiên của ta. 
2.1.2. Khởi nghĩa Nam kỳ (23/ 11/ 1940) 
* Nguyên nhân 
Tháng 11/1940, quân phiệt Xiêm đã khiêu khích và gây xung đột dọc đường biên 
giới Lào và Campuchia. Thực dân Pháp đã đưa binh lính người Việt và người Cao 
Miên sang làm bia đỡ đạn chết thay cho chúng. Sự việc này làm cho nhân dân 
Nam kỳ rất bất bình. 
Trước hoàn cảnh đó, Đảng bộ Nam kỳ đã quyết định chuẩn bị phát động khởi 
nghĩa và cử đại diện ra xin chỉ thị của Trung ương. Trung ương quyết định đình 
chỉ cuộc khởi nghĩa. 
* Diễn biến và kết quả 
Người mang chỉ thị của Trung ương về đến Sài Gòn thì bị địch bắt. Do đó, Xứ ủy 
không biết và phát hành lệnh khởi nghĩa vào đêm 22 rạng ngày 23/11/1940. 
Nắm được kế hoạch của ta, thực dân Pháp đã ra “thiết quân luật”, ra lệnh giới 
nghiêm và bủa lưới săn lùng các chiến sĩ cách mạng. 
Theo kế hoạch đã định, đêm 22 rạng sáng 23/11/1940, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra ở 
hầu khắp các tỉnh Nam kỳ, triệt hạ nhiều đồn bốt giặc, lập được chính quyền ở 
nhiều vùng thuộc Mỹ Tho, Gia Định, Bạc Liêu. Trong cuộc khởi nghĩa, lá cờ đỏ 
sao vàng lần đầu tiên xuất hiện. 
Pháp đàn áp cuộc khởi nghĩa vô cũng tàn khốc, lực lượng cách mạng Nam kỳ bị 
thiệt hại nặng nề, một số cán bộ ưu tú của Đảng như: Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn 
Thị Minh Khai... bị địch sát hại. Lực lượng còn lại phải rút về Đồng Tháp Mười và 
U Minh để củng cố lực lượng. 
2.2.3. Cuộc binh biến Đô Lương (13/1/1941) 
* Nguyên nhân 
Pháp bắt binh lính người Việt ở Nghệ An sang Lào đánh nhau với quân Xiêm. 
Trước sự tác động mạnh mẽ của các cuộc khởi nghĩa trong năm 1940, những binh 
lính người Việt trong quân đội Pháp ở đây đã bí mật chuẩn bị nổi dậy chống lại 
quân đội Pháp. 
* Diễn biến và kết quả 
Ngày 13/01/1941, Đội Cung (Nguyễn Văn Cung) đã chỉ huy binh lính ở đồn Chợ 
Rạng nổi dậy. Tối hôm đó, họ đánh chiếm đồn Đô Lương rồi kéo về Vinh định 
phối hợp với binh lính ở đây chiếm thành. 
Thực dân Pháp đã kịp thời đối phó, ngày 11/02/1941, Đội Cung bị bắt, cuộc binh 
biến thất bại. 
Ngày 24/4/1941, Đội Cung cùng 10 đồng chí của ông bị bắt và xử tử. 
2.2.4. Ý nghĩa và bài học của ba sự kiện trên 
Ba cuộc khởi nghĩa trên thất bại là do kẻ thù còn quá mạnh, lực lượng cách mạng 
chưa được tổ chức và chuẩn bị đầy đủ. 
Tuy vậy, ba cuộc khởi nghĩa vẫn có ý nghĩa to lớn: 
Nêu cao tinh thần anh dũng, bất khuất của dân tộc Việt Nam. 
Đó là tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh 
bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương. 
Để lại cho Đảng những bài học kinh nghiệm quý báu về chuẩn bị lực lượng và xác 
định thời cơ cách mạng, phục vụ cho việc lãnh đạo cuộc khởi nghĩa tháng Tám sau 
này. 
3. Tình hình Đông Dương sau khi Nhật nhảy vào 
3.1. Pháp câu kết với phát xít Nhật để bóc lột nhân dân Đông Dương 
Trong thế bị suy yếu, thực dân Pháp đã chấp nhận nhượng bộ phát xít Nhật để duy 
trì quyền lợi của mình. Đồng thời Nhật cũng muốn tạm thời sử dụng bộ máy thống 
trị của Pháp để bóc lột nhân dân Đông Dương: 
Ngày 23/7/1941, Pháp kí với Nhật hiệp ước phòng thủ chung Đông Dương, cho 
Nhật có quyền đóng quân trên toàn cõi Đông Dương. 
Ngày 29/7/1941, Pháp đồng ý cho Nhật sử dụng tất cả các sân bay và cửa biển của 
Đông Dương vào mục đích quân sự. 
Ngày 7/12/1941, Nhật lại buộc Pháp kí hiệp ước cam kết cung cấp lương thực, bố 
trí doanh trại...cho quân Nhật. 
Pháp chấp nhận “mở cửa” cho các công ty của Nhật tự do đầu tư vào Đông Dương. 
3.1.1. Những thủ đoạn bóc lột của Nhật 
Sau khi buộc Pháp phải nhượng bộ, các công ty tư bản của Nhật bắt đầu đẩy mạnh 
đầu tư vào Đông Dương để khai thác nguồn tài nguyên và thị trường Đông Dương. 
Mặt khác, Nhật gián tiếp bóc lột nhân dân ta bằng cách buộc Pháp phải cung cấp 
các nhu yếu phẩm (gạo, ngô,...) cho chúng, bắt dân ta phải nhổ lúa để trồng đay và 
thầu dầu 
3.1.2. Những hoạt động bóc lột tàn nhẫn của thực dân Pháp 
Để đáp ứng những yêu cầu của Nhật và đảm bảo được quyền lợi như trước đây, 
thực dân Pháp đã sử dụng nhiều thủ đoạn tàn nhẫn để bóc lột nhân dân ta: 
+ Thi hành chính sách “kinh tế chỉ huy”. Tăng mức thuế cũ, đặt thêm thuế mới 
đồng thời sa thải công nhân, viên chức, giảm tiền lương, tăng giờ làm, kiểm soát 
gắt gao sản xuất và phân phối, ấn định giá cả. 
+ Tiến hành thu mua thực phẩm mà chủ yếu là lúa gạo theo lối cưỡng bức với giá 
rẻ mạt, làm cho lương thực, thực phẩm thiếu thốn trầm trọng. 
Chính sách vơ vét bóc lột của Pháp - Nhật đã đẩy dân ta tới cảnh cùng cực. Hậu 
quả là cuối năm 1944, đầu năm 1945, hơn 2 triệu đồng bào ta ở miền Bắc bị chết 
đói. 
3.2. Nhật – Pháp ra sức chuẩn bị để hất cẳng nhau 
3.2.1. Những thủ đoạn chính trị lừa bịp của Nhật 
Việc duy trì bộ máy thống trị của thực dân Pháp ở Đông Dương chỉ là một giải 
pháp tình thế nhằm che giấu bộ mặt xâm lược của phát xít Nhật. Đồng thời lợi 
dụng thực dân Pháp để đàn áp và bóc lột nhân dân Đông Dương. 
Để thực hiện âm mưu thống trị Đông Dương lâu dài, phát xít Nhật đã tìm cách xây 
dựng lực lượng tay sai của mình để đi đến thành lập chính quyền tay sai nhằm thay 
thế và loại bỏ thực dân Pháp: 
+ Ra sức tuyên truyền tư tưởng Đại Đông Á, thuyết “Đồng văn đồng chủng”, 
tuyên truyền văn hoá và sức mạnh vô địch của Nhật và hứa hẹn trao trả độc lập 
cho Việt Nam. 
+ Bí mật tập hợp những phần tử bất mãn với Pháp như Trần Trọng Kim, Nguyễn 
Xuân Chữ để lập ra hàng loạt các đảng phái thân Nhật: Đại Việt dân chính, Đại 
Việt quốc xã, Việt Nam ái quốc... 
+ Nhật thành lập “Việt Nam phục quốc đồng minh hội” để tập hợp các tổ chức, 
đảng phái thân Nhật, chuẩn bị thành lập một chính phủ bù nhìn và “trao trả độc 
lập” cho Việt Nam, gạt Pháp ra khỏi Đông Dương. 
3.2.2. Những thủ đoạn lừa bịp của Pháp 
Trong tình thế lực lượng bị suy yếu, thực dân Pháp một mặt phải cam chịu khuất 
phục Nhật, phải thực hiện các yêu sách của Nhật, nhưng mặt khác chúng lại ngấm 
ngầm chuẩn bị lực lượng chờ cơ hội lật lại tình thế: 
Thứ nhất, tiếp tục khủng bố, đàn áp cách mạng để giữ vững quyền thống trị. 
Thứ hai, tiến hành nhiều chính sách lừa bịp để nhân dân ta lầm tưởng chúng là bạn 
chứ không phải là thù: 
- Cho một số người Việt thuộc giới thượng lưu nắm giữ một số chức vụ quan trọng 
để ràng buộc họ với Pháp. 
- Mở thêm một vài trường cao đẳng (khoa học, kiến trúc, nông lâm), lập Đông 
Dương học xá cho một số sinh viên lưu trú nhằm dụ dỗ, lôi kéo thanh niên. 
- Tạo điều kiện, hỗ trợ các nhóm thân Pháp đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền, lôi 
kéo quần chúng ủng hộ chủ trương “Pháp - Việt phục hưng”, để chống lại phát xít 
Nhật... 
- Khuấy động một phong trào thanh niên giả tạo nhằm lôi kéo thanh niên xa rời 
nhiệm vụ cứu nước. 
Tháng 3/1945, quân đội Nhật ở Thái Bình Dương lâm vào tình trạng nguy cấp, 
Nhật đã đảo chính Pháp (9/3/1945) và độc chiếm Đông Dương. 
3.3. Tình cảnh nhân dân Việt Nam dưới hai tầng áp bức Pháp - Nhật 
Chính sách áp bức, bóc lột nặng nề của Pháp và Nhật, đã đẩy các tầng lớp nhân 
dân nói chung, đặc biệt là nông dân, lâm vào cảnh khốn cùng: 
Giai cấp nông dân: Do bị cưỡng bức thu mua lương thực, phải nhổ lúa trồng đay, 
sưu cao thuế nặng..., nên đời sống cơ cực. Phần lớn họ là nạn nhân của trận đói 
làm 2 triệu người chết cuối năm 1944 đầu 1945. 
Giai cấp công nhân: Thường xuyên bị cúp phạt, giảm lương, tăng giờ làm..., trong 
khi đó giá cả sinh hoạt lại tăng cao làm cho cuộc sống của họ rất khó khăn. 
Các tầng lớp tiểu tư sản: Cuộc sống bấp bênh, không có lối thoát. 
Giai cấp tư sản và địa chủ: Phần lớn bị sa sút nghiêm trọng và phá sản hàng loạt. 
Tóm lại: dưới hai tầng áp bức Pháp - Nhật, đời sống của đại đa số người dân Việt 
Nam lâm vào cảnh cùng bần, điêu đứng, lòng căm thù giặc của họ sôi sục, nếu 
được lãnh đạo, chắc chắn họ sẽ sẵn sàng đứng lên tiêu diệt kẻ thù. 
4. Hội nghị TW 8 và quá trình chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền 
(5/1941 – 9/3/1945) 
4.1. Hội nghị Trung ương 8 
4.1.1. Bối cảnh 
Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai ngày một lan rộng. 
Thực dân Pháp đầu hàng và liên kết với phát xít Nhật thống trị nhân dân Đông 
Dương làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân Đông Dương với bọn Nhật – Pháp và 
đồng thời mâu thuẫn giữa Nhật và Pháp ngày càng gay gắt. 
 4.1.2. Hội nghị Trung ương 8 (10 - 19/5/1941) 
Ngày 28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc đã trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng 
Việt Nam. Sau khi nghiên cứu sự biến đổi của tình hình trong nước và quốc tế, 
Người đã triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 tại Pác Bó (Cao Bằng) từ 
ngày 10 đến 19/5/1941. 
Hội nghị khẳng định chủ trương đúng đắn của Hội nghị Trung ương 6 và Hội nghị 
Trung ương 7 và nhận định: mâu thuẫn đòi hỏi phải giải quyết cấp bách đó là mâu 
thuẫn giữa dân tộc ta với bọn đế quốc – phát xít Pháp - Nhật; “Cuộc cách mạng 
Đông Dương trong giai đoạn hiện tại là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc” 
và đưa ra chủ trương: phải giải phóng Đông Dương ra khỏi ách thống trị của Pháp 
- Nhật. 
Hội nghi quyết định: 
+ Tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “Đánh đổ địa chủ, phong kiến, chia ruộng đất cho 
dân cày” và thay vào đó là các khẩu hiệu “Tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc, 
Việt gian chia cho dân cày nghèo, giảm tô, giảm tức”... 
+ Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho Việt Nam: Việt Nam độc lập 
đồng minh - Việt Minh, bao gồm các tổ chức quần chúng lấy tên là Hội cứu quốc... 
+ Chuẩn bị mọi điều kiện để tiến tới khởi nghĩa vũ trang. 
4.1.3. Ý nghĩa 
Hội nghị Trung ương 8 đã hoàn chỉnh sự chuyển hướng chiến lược và sách lược đề 
ra từ Hội nghị Trung ương 6 (11/1939): 
+ Giương cao hơn nữa và đặt ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. 
+ Giải quyết vấn đề dân tộc trong từng nước Đông Dương. 
+ Chủ trương tiến tới khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. 
4.2. Quá trình chuẩn bị lực lượng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền 
4.2.1. Tập hợp quần chúng và xây dựng lực lượng chính trị 
Ngày 19/5/1941, Mặt trận Việt Minh chính thức thành lập bao gồm các Hội cứu 
quốc: Nông dân cứu quốc, Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ lão 
cứu quốc...để tập hợp quần chúng nhân dân. 
Năm 1943, Đảng đã ra Đề cương văn hoá Việt Nam. 
Cuối năm 1944, lập Hội Văn hoá cứu quốc và Đảng dân chủ Việt Nam nằm trong 
lực lượng Việt Minh nhằm tập hợp lực lượng học sinh, sinh viên, tri thức, tư sản 
dân tộc; tăng cường công tác địch vận 
Ngoài ra Đảng còn ra nhiều ấn phẩm báo chí để tuyên truyền, vận động quần 
chúng tham gia cách mạng. 
* Kết quả: 
+ Năm 1942, khắp 9 Châu của Cao Bằng đều có Hội cứu quốc, Ủy Ban Việt Minh 
tỉnh Cao Bằng và sau đó là Ủy Ban lâm thời Cao - Bắc - Lạng được thành lập. 
 + Năm 1943, Ủy Ban Việt Minh Cao - Bắc - Lạng đã lập ra 19 đội quân xung 
phong Nam tiến để liên lạc với căn cứ Vũ Nhai và phát triển lực lượng xuống các 
tỉnh miền xuôi. 
4.2.2. Xây dựng lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng 
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, một bộ phận lực lượng vũ trang đã chuyển thành các đội 
du kích hoạt động ở vùng căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai. Đến năm 1941, những đội 
du kích này đã thống nhất thành Cứu quốc quân. 
Sau tháng 2/1942, Cứu quốc quân phân tán thành nhiều bộ phận để gây dựng cơ sở 
ở Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn. Ngày 15/9/1941, đội cứu quốc quân 2 ra 
đời. 
Về xây dựng căn cứ địa cách mạng, tại Hội nghị Trung ương 7 (11/1940) Đảng đã 
chọn Bắc Sơn – Vũ Nhai làm căn cứ địa; sau khi Bác về nước, Cao Bằng được 
chọn làm căn cứ địa thứ hai của Đảng. 
Đến năm 1943, chủ nghĩa phát xít bắt đầu lâm vào tình thế khó khăn, Đảng ta đã 
chủ trương đẩy mạnh công tác chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. 
Hoạt động chuẩn bị diễn ra sôi nổi ở khắp nơi từ nông thôn đến thành thị trên cả 
nước. Đặc biệt là ở các tỉnh miền núi phía Bắc: ở căn cứ Bắc Sơn – Vũ Nhai, cứu 
quốc quân hoạt động mạnh; ở Cao Bằng, năm 1943 ban Việt Minh Cao - Bắc Lạng 
đã lập ra 19 ban xung phong Nam tiến để liên lạc với căn cứ Bắc Sơn 
Ngày 07/5/1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp “sửa soạn khởi nghĩa” 
và kêu gọi nhân dân “sắm sửa vũ khí đuổi kẻ thù chung”; không khí chuẩn bị khởi 
nghĩa sôi sục trong khu căn cứ: 
 Tháng 11/1944, ở Vũ Nhai nổ ra khởi nghĩa, nhưng bị tổn thất nặng nề do thời cơ 
chưa thuận lợi, buộc phải chuyển sang chiến tranh du kích. 
Ở Cao - Bắc - Lạng cũng chuẩn bị phát động khởi nghĩa, nhưng Bác đã kịp thời 
hoãn lại để chờ thời cơ. 
Ngày 22/12/1944, đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập. 
Ngay sau khi thành lập, đội đã liên tiếp giành thắng lợi: Phay Khắt (25/12/1944), 
Nà Ngần (26/12/1944), mở rộng ảnh hưởng khắp chiến khu Cao - Bắc - Lạng. 
Đồng thời, đội Cứu quốc quân cũng phát động chiến tranh du kích và giành được 
nhiều thắng lợi ở Chiêm Hoá, Vĩnh Yên, Phú Thọ. 
Như vậy, từ Hội nghị Trung ương 8 đến cuối năm 1944 đầu 1945, Đảng đã xây 
dựng và tập hợp được một lực lượng chính trị hùng hậu dưới sự lãnh đạo của Mặt 
trận Việt Minh, và một lực lượng vũ trang đang trưởng thành nhanh chóng cùng 
một vùng căn cứ cách mạng vững chắc, sẵn sàng cho việc tiến tới một cuộc đấu 
tranh chính trị kết hợp với vũ trang giành chính quyền khi thời cơ đến. 

File đính kèm:

  • pdfphong_trao_giai_phong_dan_toc_trong_giai_doan_tu_thang_91939.pdf