Phương pháp dạy học từ vựng tiếng Anh ở Việt Nam hiện nay

Tóm tắt Phương pháp dạy học từ vựng tiếng Anh ở Việt Nam hiện nay: ...ết phải nắm vững một ngoại ngữ, từ đó xem nhẹ việc học từ vựng nói riêng, ngoại ngữ nói chung. Việc học tập thụ động khiến học sinh chưa tận dụng được các ưu thế hiện nay (như truyền hình cáp, mạng internet) để nâng cao khả năng sử dụng tiếng Anh của mình.(1) Thứ hai, nhiều học sinh Vi... điểm theo yêu cầu. Tại Huế, chỉ 1/5 giáo viên trong số 500 giáo viên tiểu học và trung học cơ sở đạt được trình độ tiếng Anh B2. Tại Thủ đô Hà Nội, chỉ có 18% giáo viên tiếng Anh đạt được trình độ B2. Tại một tỉnh khác, tỷ lệ giáo viên vượt qua kỳ thi này là 1/700(3). Thứ năm, nội dun...này chiếm rất nhỏ quỹ thời gian học tập của học sinh nhưng lại giúp các em chủ động hơn trong việc học ngoại ngữ nói chung, học từ vựng nói riêng và tăng khả năng áp dụng những kiến thức đã học vào những hoàn cảnh cụ thể. Việc áp dụng dạy phương pháp học ngoại ngữ tích hợp vào trong cá...

pdf6 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 94 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Phương pháp dạy học từ vựng tiếng Anh ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phương pháp dạy học từ vựng tiếng Anh... 
 97 
Phương pháp dạy học từ vựng tiếng Anh 
ở Việt Nam hiện nay 
Nguyễn Đức Long * 
Tóm tắt: Dạy học từ vựng là một trong những hoạt động cơ bản nhất, thiết yếu nhất 
của quá trình học ngoại ngữ. Để học từ vựng hiệu quả, người học cần áp dụng tất cả 
những gì có thể (phương pháp, phương tiện, môi trường học, động cơ học...) nhằm đạt 
mục tiêu học tập. Nếu áp dụng phương pháp học từ vựng phù hợp, học viên có thể đạt 
được những kết quả tốt. Tuy nhiên, không phải phương pháp học từ vựng nào cũng 
hiệu quả tốt với tất cả mọi người học. Người học cần phải lựa chọn phương pháp phù 
hợp nhất với mình. 
Từ khóa: Tiếng Anh; phương pháp dạy học; từ vựng; Việt Nam. 
1. Mở đầu 
Trong việc dạy học ngoại ngữ ở Việt 
Nam hiện nay, thời lượng lẫn khối lượng 
kiến thức dành cho học ngoại ngữ chiếm 
khá nhiều, nhưng kết quả học tập của học 
sinh vẫn chưa cao. Sự hạn chế trong 
phương pháp dạy học từ vựng là một trong 
những yếu tố then chốt khiến người học rất 
khó đạt được những kết quả cao. Có nhiều 
cấp độ khác nhau trong việc nhớ, sử dụng 
từ vựng, trong đó khả năng ghi nhớ từ chỉ là 
một trong những phần cơ bản nhất. Bài viết 
này trình bày thực trạng dạy học từ vựng 
tiếng Anh trong nhà trường ở Việt Nam, đề 
xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng 
dạy học từ vựng tiếng Anh nói riêng, dạy 
học ngoại ngữ nói chung. 
2. Thực trạng dạy học từ vựng tiếng 
Anh ở Việt Nam hiện nay 
Ở Việt Nam, phương pháp dạy và học 
ngoại ngữ nói chung và tiếng Anh nói riêng 
ở các cấp học, kể cả ở cấp đại học, cao đẳng 
hiện nay vẫn chủ yếu nặng về ngữ pháp. Hệ 
quả là nhiều học sinh học hết phổ thông vẫn 
không nói được tiếng Anh (hoặc nói không 
ai hiểu). Một trong những nguyên nhân 
quan trọng của tình trạng này là phương 
pháp dạy học và thi ngoại ngữ còn tồn tại 
nhiều vấn đề.(*) 
Trong việc học ngoại ngữ, số lượng từ 
một người nhớ được chưa quan trọng bằng 
việc họ sử dụng được vốn từ của mình. 
Năm 2006, khi tập đoàn Intel đầu tư khoảng 
một tỷ USD Mỹ vào Việt Nam, một trong 
những ưu tiên của tập đoàn là trình độ tiếng 
Anh của đội ngũ nhân sự cho tập đoàn phải 
đạt chuấn để có thể làm việc trong môi 
trường quốc tế; tuy nhiên, phần lớn sinh 
viên mới ra trường đáp ứng được yêu cầu 
về trình độ lại không thể vượt qua được yêu 
cầu về ngoại ngữ, điều đó khiến tập đoàn 
phải quyết định đầu tư rất nhiều công sức, 
thời gian và tiền bạc cho thế hệ nhân sự đầu 
tiên. Đáng buồn, đây không phải là trường 
hợp cá biệt. Tình trạng phổ biến của giáo 
dục Việt Nam là đào tạo ra nhiều thế hệ học 
viên không sử dụng được ngoại ngữ. Mức 
độ sử dụng ngoại ngữ của một người được 
xét ở nhiều cấp độ khác nhau, dựa trên 
(*) Thạc sĩ, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. 
ĐT: 0977561601. Email: Duclong0067@yahoo.com. 
TRIẾT - LUẬT - TÂM LÝ - XÃ HỘI HỌC 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 
 98 
nhiều tiêu chí trong đó có việc họ sử dụng 
từ vựng để đáp ứng yêu cầu sử dụng ngôn 
ngữ. Nếu một người có thể có vốn từ vựng 
2.000 từ, họ hoàn toàn có thể giao tiếp ở 
mức cơ bản với người bản ngữ. Nếu họ có 
từ 3.000 từ trở lên, họ có thể sử dụng ngoại 
ngữ một cách thành thạo. Vấn đề quan 
trọng hiện nay của giáo dục Việt Nam đối 
với việc học ngoại ngữ là có tỷ lệ lớn người 
không sử dụng được những từ đã học để 
phục vụ cho công việc, cho giao tiếp. 
Khái niệm mức độ thấu hiểu từ vựng 
thường gây sự không thống nhất giữa các 
nhà nghiên cứu khác nhau. Liệu một người 
nhớ được một từ (recall a word) và nói lên 
được nghĩa tương ứng của nó đối với ngôn 
ngữ thứ nhất, chúng ta có thể kết luận là 
người này đã hoàn toàn nắm bắt, thấu hiểu 
được từ đó không? Còn những cấp độ nào 
khác mà người này cần đạt được? Theo 
Nation, người học có thể được coi là thấu 
hiểu được một từ nếu có thể đưa ra được 
nghĩa tương ứng của từ đó bằng tiếng mẹ 
đẻ; phát âm được từ đó một cách chuẩn xác; 
nhận diện được từ đó; viết lại được từ đó; 
sử dụng được từ đó trong những văn cảnh 
khác nhau, thấu hiểu các biến thể phái sinh 
(nếu có) của từ(1). 
Nếu chiếu theo quy chuẩn này, người 
học Việt Nam thường hay được đánh giá ở 
mức độ có thể nêu lên được nghĩa của từ 
(cấp độ một), còn những yếu tố sau ít được 
chú ý hơn. Người học Việt Nam thường có 
thể nhớ được khá nhiều từ vựng, nhưng 
cách sử dụng chúng lại khá hạn chế. Việc 
lựa chọn và vận dụng, phối hợp các tri thức 
và kĩ năng riêng lẻ để làm chủ được vốn từ 
vựng, lĩnh hội các kiến thức và phát triển 
năng lực, kĩ năng là cần thiết. Sau một thời 
gian khá dài được học tiếng Anh ở trường 
phổ thông, trường đại học nhiều học viên 
Việt Nam vẫn không thể sử dụng được 
ngoại ngữ, có lượng từ vựng rất hạn chế, 
khả năng sử dụng từ đạt tỷ lệ rất thấp xét 
trên nhiều tiêu chí khác nhau. Đây là những 
rào cản thật sự cho việc cải cách giáo dục 
nói riêng, công cuộc hội nhập quốc tế của 
Việt Nam nói chung. 
Kết quả học tập từ vựng tiếng Anh của 
học sinh Việt Nam còn nhiều hạn chế. Điều 
đó có cả nguyên nhân chủ quan lẫn nguyên 
nhân khách quan như sau: 
Thứ nhất, nhiều học sinh Việt Nam vẫn 
còn tâm lý học tập thụ động, chưa tự ý thức 
được sự cần thiết phải nắm vững một ngoại 
ngữ, từ đó xem nhẹ việc học từ vựng nói 
riêng, ngoại ngữ nói chung. Việc học tập 
thụ động khiến học sinh chưa tận dụng 
được các ưu thế hiện nay (như truyền hình 
cáp, mạng internet) để nâng cao khả năng 
sử dụng tiếng Anh của mình.(1) 
Thứ hai, nhiều học sinh Việt Nam chưa 
đánh giá đúng tầm quan trọng của tiếng Anh 
nói riêng, ngoại ngữ nói chung, chưa dành 
đủ thời lượng cần thiết cho việc học ngoại 
ngữ nói chung, học từ vựng nói riêng. Thông 
thường, để làm chủ được từ vựng nói riêng, 
kiến thức bài giảng nói chung thì mỗi học 
viên cần hiểu 30% lượng kiến thức trước khi 
lên lớp, 50% lượng kiến thức ở trên lớp, và 
20% sau giờ học. Theo Nation, học sinh cần 
nhớ được từ đã học theo lũy thừa của 5: sau 
5 giây, sau 25 giây, sau 125 giây,... Ví dụ, 
nếu trong vòng 5 giây sau khi biết từ vựng 
mới mà người học chưa nhớ được thì xác 
suất họ có thể nhớ được từ đó sau này là rất 
thấp; tiếp theo là giai đoạn 25 giây, nếu họ 
chưa nhớ được từ trong giai đoạn này thì tất 
cả sẽ phải bắt đầu lại từ đầu. Giai đoạn 5 
giây và 25 giây có vai trò rất quan trọng đối 
với việc nhớ từ, nhiều kết quả nghiên cứu 
(1) Nation (2000), Vocabulary Learning, Oxford University 
Press. 
Phương pháp dạy học từ vựng tiếng Anh... 
 99 
chỉ ra rằng người học có thể làm chủ được từ 
mới trong giai đoạn này sẽ có nhiều cơ hội 
nhớ được nó trong thời gian tiếp theo. 
Thứ ba, nhiều học sinh Việt Nam chưa 
được hướng dẫn đầy đủ, cụ thể, hợp lý về 
phương pháp học ngoại ngữ, chưa biết vận 
dụng phương pháp học ngoại ngữ hợp lý. 
Phương pháp học ngoại ngữ có thể coi như 
là một lối đi tắt: ai chọn đúng lối đi, người 
đó sẽ tốn ít công sức và đạt kết quả cao 
hơn. Để chọn phương pháp học từ vựng cho 
kỳ thi vào đại học, học sinh sẽ phải sử dụng 
những phương pháp khác với trường hợp 
học từ vựng để đi du lịch nước ngoài trong 
thời gian 1 tuần. Việc lựa chọn phương 
pháp như thế nào thì còn phụ thuộc vào 
từng người, khả năng đánh giá phân tích để 
đưa ra được giải pháp hợp lý, và để có được 
điều này, học sinh cần được hướng dẫn 
phương pháp học ngoại ngữ nói chung, 
phương pháp học từ vựng nói riêng. 
Thứ tư, phương pháp giảng dạy ngoại 
ngữ nói chung, dạy từ vựng của nhiều giáo 
viên hiện nay còn bất cập(2). Giáo viên được 
Bộ Giáo dục và Đào tạo yêu cầu thay đổi 
cách dạy trong những lần thay đổi sách giáo 
khoa khiến người học và người dạy phải 
thích ứng nhau. Tuy nhiên, dạy học ngoại 
ngữ cần nhất quán, lâu dài hơn. Có khá 
nhiều kỹ thuật dạy từ vựng khác nhau, như 
“show me how” (cho tôi biết nào), “show 
don’t tell” (cho xem, không giải thích), 
visual (giáo cụ trực quan), translation (dịch 
trực tiếp nghĩa của từ sang tiếng mẹ đẻ). 
Theo quy định, giáo viên phải căn cứ vào 
những tình huống học tập cụ thể để có thể 
đưa ra những phương pháp dạy học phù 
hợp. Nhưng bất ngờ là, phương pháp được 
nhiều người sử dụng nhất, sử dụng liên tục, 
và hầu như cũng chỉ sử dụng nó, lại là 
phương pháp dịch trực tiếp sang tiếng mẹ 
đẻ (tiếng Việt). Phương pháp dạy đơn điệu, 
nhàm chán sẽ khó lòng khơi dậy được sự 
hào hứng học tập của học sinh. Điều này 
còn liên quan tới một thực tế đáng buồn là 
tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn để có thể đứng lớp 
vẫn còn rất khiêm tốn. Kết quả thi sát hạch 
đối với giáo viên gần đây cho thấy trình độ 
tiếng Anh của họ khá thấp. Tại tỉnh Bến 
Tre, chỉ có 61 trong tổng số 700 giáo viên 
dự thi đạt được số điểm theo yêu cầu. Tại 
Huế, chỉ 1/5 giáo viên trong số 500 giáo 
viên tiểu học và trung học cơ sở đạt được 
trình độ tiếng Anh B2. Tại Thủ đô Hà Nội, 
chỉ có 18% giáo viên tiếng Anh đạt được 
trình độ B2. Tại một tỉnh khác, tỷ lệ giáo 
viên vượt qua kỳ thi này là 1/700(3). 
Thứ năm, nội dung chương trình và 
những bài kiểm tra được thiết kế chưa đi 
sâu vào kiểm tra các mặt của từ vựng. Bộ 
Giáo dục và Đào tạo đang lúng túng trong 
việc thiết kế chương trình giảng dạy tiếng 
Anh; điều đó làm học sinh gặp khó trong 
việc học ngoại ngữ. Nội dung giáo trình học 
chưa sinh động, nặng nhồi nhét kiến thức 
trong khi thời lượng dành cho thực hành lại 
ít. Trong khi đó, chúng ta còn thiếu trang 
thiết bị, giáo cụ trực quan, cơ hội giao lưu 
với người bản ngữ. 
Rất nhiều bài thi chỉ đánh giá khả năng 
ghi nhớ từ của học sinh mà chưa đi sâu vào 
kiểm tra các mặt khác nhau của việc học từ 
vựng như phát âm, sử dụng từ trong văn 
cảnh, sự hòa hợp về từ loại,... Yêu cầu dùng 
từ linh hoạt, đa dạng chưa được chú trọng 
đúng mức trong các bài thi. Cách đánh giá 
kiến thức của học sinh góp phần làm học 
(2) Dương Hà (2015), Bộ trưởng Phạm Vũ Luận: 
Dạy và học ngoại ngữ không giống ai trên thế giới, 
Báo Người lao động. Truy cập 3/7/2015 tại: 
luan-day-va-hoc-ngoai-ngu-khong-giong-ai-tren-the-
gioi-214605.bld. 
(3) Minh Thiên (2015), Mục tiêu dạy tiếng Anh của 
Việt Nam không thực tế? Truy cập tại: 
day-tieng-Anh-cua-VN-khong-thuc-te.html. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 
 100 
sinh thụ động hơn, do tâm lý của học sinh là 
“thi gì, học nấy”. Trong khi thực tế cuộc 
sống đòi hỏi học sinh phải sử dụng được 
ngôn ngữ thì chương trình kiểm tra lại 
thường thiên về kiểm tra tính học thuộc của 
người học. Có nhiều học sinh nhớ rất nhiều 
từ nhưng không sử dụng được ngoại ngữ, 
xem ti vi thì không biết từ đó là gì, chỉ khi 
xem bản viết mới nhận ra những từ đó mình 
đã học rồi. Nghĩa là, học sinh phát âm sai 
khá nhiều, và khi tự mình phát âm sai thì sẽ 
gần như không thể nhận diện được âm tiếng 
Anh chuẩn; điều đó dẫn tới khả năng sử 
dụng tiếng Anh bị ảnh hưởng rất nhiều. Phần 
lớn sinh viên sau khi ra trường được các tập 
đoàn đa quốc gia tuyển dụng vào làm việc 
đều phải được gửi đi đào tạo lại ngoại ngữ. 
3. Một số giải pháp 
Thứ nhất, học sinh cần phát huy hơn nữa 
tính tích cực của mình. Để có thể nâng cao 
chất lượng học từ vựng, học sinh cần đặt ra 
những mục tiêu lớn và dài hạn cho việc học 
tiếng Anh vì học ngoại ngữ bao giờ cũng 
cần thời gian. Đối với việc học tiếng Anh 
cũng như bất kỳ ngôn ngữ nào khác, học 
sinh cần một khoảng thời gian nhất định, 
đồng thời phải tạo cho mình những bước đi 
vững chắc thay vì học rất nhiều mà không 
sử dụng được(4). 
Thứ hai, cần đổi mới kết cấu đề thi theo 
hướng đánh giá học sinh trên phương diện 
sử dụng ngôn ngữ hơn là chỉ chú ý tới khả 
năng ghi nhớ từ vựng. Một người sử dụng 
ngoại ngữ có thể không biết từ nọ, từ kia 
nhưng thông qua suy luận, đoán từ, hỏi, tra 
cứu vẫn có thể biết được nghĩa của từ. Nếu 
đề thi khuyến khích học sinh chỉ chăm 
chăm vào việc nhớ từ thì có thể học sinh chỉ 
có thể biết nghĩa của từ mà rất khó vận 
dụng nó trong thực tế cho mình. Kết cấu 
của đề thi cũ tạo ra những người học nhớ 
rất nhiều từ nhưng lại không sử dụng được 
từ vựng mà họ có. 
Thứ ba, cần tích hợp phương pháp học 
ngoại ngữ vào trong chương trình học ngoại 
ngữ của học sinh. Việc này chiếm rất nhỏ 
quỹ thời gian học tập của học sinh nhưng 
lại giúp các em chủ động hơn trong việc 
học ngoại ngữ nói chung, học từ vựng nói 
riêng và tăng khả năng áp dụng những kiến 
thức đã học vào những hoàn cảnh cụ thể. 
Việc áp dụng dạy phương pháp học ngoại 
ngữ tích hợp vào trong các bài giảng hiện 
có sẽ làm cho học sinh thấy được ví dụ cụ 
thể, sinh động của ích lợi phương pháp học 
ngoại ngữ hơn là lý thuyết khô khan. 
Tuy nhiên, cũng cần phải chú ý khi tích 
hợp phương pháp học ngoại ngữ vào 
chương trình học vì bản thân việc áp dụng 
các phương pháp này cũng có những hạn 
chế. Ví dụ học sinh khó nhận diện được 
phương pháp học, phân loại và áp dụng 
chúng dẫn tới tình trạng các em có thể bị rối 
khi phải lựa chọn những phương pháp học 
khác nhau cho những mục tiêu học tập khác 
nhau, hay việc dành thời gian, công sức cho 
dạy học phương pháp học quá nhiều dẫn tới 
yêu cầu về thời gian cho bài học chính bị 
ảnh hưởng, và có thể xảy ra tình trạng 
phương pháp cần được học trước lại có thể 
được dạy sau, thậm chí là chưa có điều kiện 
để dạy lồng ghép.(4) 
Để học tốt, chúng ta cần biết rõ mục tiêu 
cụ thể của mình cũng như phương pháp để 
đạt được mục tiêu của mình, nếu không 
chúng ta có thể phải tốn rất nhiều thời gian 
để đi đến đích, hoặc có thể không bao giờ 
đến được đích mà cứ lẩn quẩn trong mớ 
kiến thức mênh mông. Vấn đề không phải 
là học bao lâu, mà là bạn đã học như thế 
(4) Cohen (2008), Strategy Instruction for Learners of 
Japanese: How do you do it and what’s in it for 
them? In Y. A. Hatasa (ed), Japanese as a Foreign 
Language Education: Multiple Perspectives, Tokyo, 
pp.45-60. 
Phương pháp dạy học từ vựng tiếng Anh... 
 101 
nào. Chúng ta phải luôn xác định rõ mục 
tiêu, động lực và định hướng học tập phù 
hợp. Ví dụ, có nhiều học sinh không tự tin 
trong giao tiếp, dẫn tới khả năng nghe nói 
của họ thường là không giỏi bằng khả năng 
đọc viết. Họ cần được dạy về kỹ năng làm 
chủ cảm xúc (Affective strategy, theo cách 
phân loại của Oxford) để vượt qua sự e thẹn, 
sợ mắc lỗi để có thể tự tin trong giao tiếp. 
Tương tự, nhiều học sinh chỉ thích làm việc 
theo nhóm bạn yêu thích của mình, khó giao 
tiếp với nhóm khác, với người lạ. Họ cần 
được rèn luyện phương pháp giao tiếp với 
thế giới bên ngoài một cách tự chủ. Không 
chỉ là phương pháp học ngoại ngữ, việc rèn 
luyện như thế có thể mang lại cho học sinh 
rất nhiều lợi ích trong học tập các môn học 
khác và trong cuộc sống nói chung. 
Thứ tư, học sinh cần có thêm cơ hội để 
thực hành ngoại ngữ. Nhà trường cần trang 
bị thêm những giáo cụ trực quan như máy 
chiếu, truyền hình cáp, mạng internet để 
học sinh có thêm những cơ hội trải nghiệm, 
thực hành ngoại ngữ trong môi trường gần 
giống đời thực. Học sinh có thể được tạo 
điều kiện để có thể có những giao lưu trực 
tuyến, giao lưu thực tế với người nước 
ngoài. Trong thời đại bùng nổ thông tin 
hiện nay, việc giao lưu qua mạng internet là 
hoàn toàn khả thi. Học sinh cần được chỉ 
bảo, hướng dẫn để giao lưu trò chuyện với 
bạn bè quốc tế trong khi vẫn đảm bảo 
không bị các sự cố đáng tiếc xảy ra đối với 
việc giao lưu trên mạng internet. 
4. Kết luận 
Học ngoại ngữ là một quá trình. Học 
sinh sẽ phải học liên tục trong suốt quá 
trình sử dụng ngoại ngữ của mình. Vấn đề 
là, người học sẽ áp dụng phương pháp học 
phù hợp cho những nhiệm vụ học tập cụ 
thể. Người học cần tìm được cách học phù 
hợp nhất cho mình trong những hoàn cảnh 
cụ thể để có thể đáp ứng được những yêu 
cầu ngày càng cao của hội nhập quốc tế 
ngày nay. 
Kiến thức nhiều đến mức nào không 
quan trọng bằng khả năng vận dụng những 
kiến thức đó. Một số học sinh tuy vốn từ 
vựng và ngữ pháp không quá nhiều nhưng 
lại giao tiếp rất tự tin và trôi chảy bằng 
tiếng Anh. Như vậy, họ đã có được nền 
tảng rất vững chắc về sau. Nếu có những 
định hướng phù hợp, học sinh có thể đạt 
được những mục tiêu học tập tiếng Anh của 
mình trong thời gian sớm nhất. 
Tài liệu tham khảo 
1. Dương Hà (2015), Bộ trưởng Phạm Vũ 
Luận: Dạy và học ngoại ngữ không giống ai 
trên thế giới, Báo Người lao động. Truy cập 
3/7/2015 tại:  
truong-pham-vu-luan-day-va-hoc-ngoai-ngu-
khong-giong-ai-tren-the-gioi-214605.bld. 
2. Chamot & O’Malley (1990), Language 
Learning Strategies, Cambridge University Press. 
3. Cohen (2008), “Strategy Instruction for 
Learners of Japanese: How do you do it and 
what’s in it for them?” In Y. A. Hatasa (ed), 
Japanese as a Foreign Language Education: 
Multiple Perspectives, Tokyo, pp.45 - 60. 
4. Minh Thiên (2015), Mục tiêu dạy tiếng 
Anh của Việt Nam không thực tế? Truy cập tại: 
tieu-day-tieng-Anh-cua-VN-khong-thuc-te.html. 
5. Nation (2000), Vocabulary Learning, Oxford 
University Press. 
6. Nirattisai (2014), “The Different Contribution 
of Vocabulary Learning Strategies to Students 
with Varying Vocabulary Size”, Journal of 
Studies in Education. 
7. Oxford, R. (1990), Language Learning 
Strategies: What every Teacher should know, 
Heinle Publisher, New York. 
8. Wenden (1987), Language Learner Strategies, 
Cambridge University Press. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11(96) - 2015 
 102 

File đính kèm:

  • pdfphuong_phap_day_hoc_tu_vung_tieng_anh_o_viet_nam_hien_nay.pdf
Ebook liên quan