Rối loạn tâm thần ở điều dưỡng và nữ hộ sinh

Tóm tắt Rối loạn tâm thần ở điều dưỡng và nữ hộ sinh: ...ang chấn tâm lý (tang chế, ly hôn, kỷ luật, tranh chấp, v.v.) trong vòng 6 tháng, vắng mặt dài hạn trong đợt khảo sát (nghỉ hậu sản, nghỉ ốm). Đối với những người đã được chọn trong danh sách, nhưng vắng mặt tại thời điểm khảo sát (nghỉ phép, nghỉ ốm, ra trực) thì được hẹn 2 lần, nếu vẫn vắn...uan hệ vợ chồng không hòa thuận 29 (8) Làm ăn thua lỗ 23 (6) Bảng 5: Các yếu tố liên quan với có khả năng mắc rối loạn tâm thần (n=367) Yếu tố OR điều chỉnh * (KTC 95%) p Cơ quan Y tế dự phòng 1 Bệnh viện huyện có giường bệnh 1,2 (0,4-3,6) 0,78 Bệnh viện huyện không có gi...a điều dưỡng và nữ hộ sinh Bà Rịa Vũng Tàu Để xác định mắc rối loạn tâm thần cần phải dựa trên chẩn đoán lâm sàng (hỏi bệnh sử, tiền sử bản thân, tiền sử gia đình, thói quen sinh hoạt, lối sống, thăm khám bệnh nhân), và kết quả thực hiện các trắc nghiệm tâm lý, được thực hiện bởi các bác sỹ ...

pdf43 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 283 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Rối loạn tâm thần ở điều dưỡng và nữ hộ sinh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận định đến năm 2020, bệnh tâm thần sẽ là nguyên nhân 
thứ hai gây tàn tật cho con người trên thế giới và nếu không được đầu tư giải 
quyết, những vấn đề này sẽ tràn ngập ở các nước nghèo (3,7). 
Nhân viên y tế, trong đó có các điều dưỡng nữ hộ sinh, có những điều kiện 
lao động rất đặc thù, đó là trách nhiệm cao, thời gian lao động dài (trực 
24/24 giờ, tua 3-4 ngày, trực 2 ca 3 kíp, hoặc 3 ca 4 kíp), làm việc vào cả 
những ngày nghỉ, ngày lễ, đối tượng phục vụ là những người bệnh, nguy cơ 
lây nhiễm (viêm gan B, viêm gan C, lao, tả, HIV/AIDS, v.v.), chế độ lương 
bổng chưa thỏa đáng, áp lực từ bệnh nhân, gia đình bệnh nhân, và cả lãnh 
đạo đơn vị. Trong bệnh viện, điều dưỡng và nữ hộ sinh là những người có 
thời gian tiếp xúc, trao đổi, chăm sóc bệnh nhân nhiều nhất. Với những điều 
kiện làm việc căng thẳng, sức khỏe tâm thần của điều dưỡng và nữ hộ sinh 
có thể bị ảnh hưởng, từ đó, ảnh hưởng đến thái độ tiếp xúc với bệnh nhân, và 
ảnh hưởng đến kết quả điều trị. 
Đã có những nghiên cứu về rối loạn tâm thần ở công nhân làm việc trong 
các ngành nghề khác nhau. Tỷ lệ rối loạn tâm thần ở công nhân ngành gang 
thép là 20,6% (7), ở ngành may mặc là 11,7% (1), ở ngành giày da là 11,5% 
(8), ở ngành dầu khí là 68,9% (4), ở điều dưỡng trực tiếp phục vụ bệnh nhân 
tâm thần là 48,32% (6), và ở nhân viên y tế trực tiếp phục vụ bệnh nhân lao, 
bệnh phổi là 15,5% (9). Những nghiên cứu đó chưa khảo sát mối liên quan 
giữa đặc tính công việc của nhóm nghiên cứu với tỷ lệ mắc các rối loạn tâm 
thần. Riêng tại tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, chưa có nghiên cứu nào về sức khỏe 
tâm thần của điều dưỡng và nữ hộ sinh, là những người trực tiếp chăm sóc 
bệnh nhân. Nghiên cứu này được thực hiện với mục đích xác định tỷ lệ rối 
loạn sức khỏe tâm thần của điều dưỡng và nữ hộ sinh tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu 
năm 2009 và các yếu tố liên quan, trong đó có môi trường làm việc và môi 
trường gia đình, xã hội. Đề cương nghiên cứu được thông qua bởi hội đồng 
khoa học của Khoa Y tế công cộng, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí 
Minh, và cuả Sở Y tế Bà Rịa Vũng Tàu. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
Nghiên cứu sử dụng thiết kế cắt ngang mô tả với dân số mục tiêu là 825 điều 
dưỡng nữ hộ sinh làm việc tại các cơ sở y tế công của tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, 
từ tháng Ba 2009 đến tháng Sáu 2009 năm 2009. Để có 95% tin tưởng xác 
định được tỷ lệ rối loạn tâm thần là 48,32% (6), với sai số cho phép là 5%, 
cỡ mẫu được ước lượng là 383. Mẫu được chọn với kỹ thuật ngẫu nhiên hệ 
thống. Tiêu chí đưa vào là đang làm việc tại các cơ sở khám chữa bệnh công 
lập kể cả biên chế và hợp đồng, và đồng ý tham gia nghiên cứu. Đối tượng 
nghiên cứu bị loại nếu có thời gian làm việc dưới 6 tháng, có những vấn đề 
có thể ảnh hưởng gây sang chấn tâm lý (tang chế, ly hôn, kỷ luật, tranh chấp, 
v.v.) trong vòng 6 tháng, vắng mặt dài hạn trong đợt khảo sát (nghỉ hậu sản, 
nghỉ ốm). Đối với những người đã được chọn trong danh sách, nhưng vắng 
mặt tại thời điểm khảo sát (nghỉ phép, nghỉ ốm, ra trực) thì được hẹn 2 lần, 
nếu vẫn vắng mặt thì loại khỏi mẫu nghiên cứu. 
Dữ kiện được thu thập với bộ câu hỏi tự điền để đánh giá rối loạn tâm thần. 
Các bộ câu hỏi được sử dụng là bản câu hỏi sức khỏe tổng quát (đánh giá 
tâm căn suy nhược), bản đánh giá chất lượng giấc ngủ Groningen (đánh giá 
rối loạn giấc ngủ), thang đánh giá trầm cảm Beck và thang đánh giá rối loạn 
lo âu Zung (2,5). Tình trạng có khả năng mắc rối loạn tâm thần được xác 
định khi người tham gia nghiên cứu có ít nhất một trong bốn tình trạng tâm 
căn suy nhược, rối loạn giấc ngủ, trầm cảm, hoặc rối loạn lo âu. Rối loạn 
tâm thần được xét liên quan với cơ quan công tác, khoa phòng, chế độ làm 
việc, thâm niên công tác, và kiểm soát với các biến số giới, nhóm tuổi, tình 
trạng hôn nhân, trình độ học vấn, và nơi cư trú. Dữ kiện được nhập và xử lý 
bằng phần mềm Stata 10.0. Số thống kê mô tả gồm có tần số và tỷ lệ phần 
trăm rối loạn tâm thần chung và phân bố theo đặc tính mẫu, những điều kiện 
của môi trường làm việc, gia đình, và xã hội. Phân tích đa biến với hồi qui 
logistic xác định mức độ kết hợp giữa rối loạn tâm thần với những điều kiện 
làm việc, gia đình, và xã hội. Mức độ kết hợp được ước lượng với OR (Odds 
ratio: tỉ số số chênh) và khoảng tin cậy 95% (KTC 95%) của OR. 
KẾT QUẢ 
Bảng 1: Đặc tính của mẫu nghiên cứu, tần số và (%) (n=382) 
Đặc tính 
Tần số (%) 
Giới tính nữ 
349 (91) 
Nhóm tuổi 
<25 
56 (15) 
25 - <30 
126 (33) 
30 - <35 
65 (17) 
35 - <40 
38 (10) 
40 - <45 
51 (13) 
45 - <50 
35 (9) 
≥ 50 
11 (3) 
Chuyên môn 
Điều dưỡng 
296 (78) 
Nữ hộ sinh 
86 (22) 
Tình trạng hôn nhân 
Độc thân 
116 (31) 
Có gia đình 
252 (66) 
Ly thân/Ly hôn 
9 (2) 
Góa 
5 (1) 
Trình độ chuyên môn 
Trung học 
367 (96) 
Cao đẳng 
10 (3) 
Đại học 
5 (1) 
Cơ quan công tác 
Bệnh viện tuyến tỉnh 
244 (64) 
Bệnh viện tuyến huyện 
80 (21) 
Bệnh viện huyện không có giường bệnh 
25 (7) 
Y tế dự phòng 
33 (8) 
Khoa phòng 
Cấp cứu-Hồi sức-Phòng khám 
131 (34) 
Ngoại-Phòng mổ 
29 (8) 
Sản-Kế hoạch hóa gia đình 
76 (17) 
Cơ quan công tác 
Nội-Nhi-Nhiễm 
82 (21) 
Khác 
76 (20) 
Chế độ làm việc 
Hành chính 
121 (32) 
Trực 24/24 
191 (50) 
Trực ca kíp 
70 (18) 
Thâm niên công tác 
< 5 năm 
155 (40) 
5 - <10 năm 
96 (25) 
10 - <15 năm 
30 (8) 
15 - <20 năm 
29 (8) 
≥ 20 năm 
72 (19) 
Bảng 2: Tỉ lệ rối loạn tâm thần phân bố theo đặc tính mẫu, tần số và (%) 
(n=382) 
Đặc tính mẫu 
Có rối loạn tâm thần 
Chung 
224 (59) 
KTC 95% (54%-64%) 
Giới tính 
Nam 
20 (61) 
Nữ 
204 (58) 
Nhóm tuổi 
<25 
34 (61) 
25 - <30 
80 (63) 
30 - <35 
35 (54) 
35 - <40 
23 (61) 
40 - <45 
28 (55) 
45 - <50 
17 (49) 
≥ 50 
7 (64) 
Chuyên môn 
Điều dưỡng 
181 (61) 
Nữ hộ sinh 
43 (50) 
Tình trạng hôn nhân 
Độc thân 
77 (65) 
Có gia đình 
142 (57) 
Ly thân/Ly hôn 
3 (33) 
Góa 
2 (40) 
Trình độ chuyên môn 
Trung học 
217 (59) 
Cao đẳng 
6 (60) 
Đại học 
1 (20) 
Cơ quan công tác 
Bệnh viện tuyến tỉnh 
149 (61) 
Bệnh viện tuyến huyện 
49 (61) 
Bệnh viện huyện không có giường bệnh 
13 (52) 
Y tế dự phòng 
13 (39) 
Khoa phòng 
Cấp cứu-Hồi sức-Phòng khám 
81 (62) 
Ngoại-Phòng mổ 
20 (69) 
Sản-Kế hoạch hóa gia đình 
34 (54) 
Nội-Nhi-Nhiễm 
53 (65) 
Khác 
36 (47) 
Chế độ làm việc 
Hành chính 
67 (55) 
Trực 24/24 
113 (59) 
Trực ca kíp 
44 (63) 
Thâm niên công tác 
< 5 năm 
96 (62) 
5 - <10 năm 
54 (56) 
10 - <15 năm 
18 (60) 
15 - <20 năm 
17 (59) 
≥ 20 năm 
39 (54) 
Bảng 3: Các yếu tố gây sang chấn tâm lý thuộc môi trường làm việc, tần số 
và (%) (n=382) 
Yếu tố 
Tần số (%) 
Công việc đòi hỏi quan sát hoặc lựa chọn chính xác 
311 (81) 
Công việc có khả năng lây nhiễm 
298 (78) 
Lương không thỏa đáng 
228 (60) 
Công việc đơn điệu hoặc lặp đi lặp lại 
206 (54) 
Công việc gây căng thẳng tâm lý 
194 (51) 
Nguy cơ bị tai nạn trong công việc 
189 (50) 
Phương tiện phục vụ công việc thiếu thốn 
167 (44) 
Cấp trên cư xử nghiêm khắc với nhân viên 
147 (39) 
Môi trường làm việc không dễ chịu 
145 (38) 
Chịu sức ép nặng nề trong công việc 
138 (36) 
Bảng 4: Các yếu tố gây sang chấn tâm lý thuộc môi trường gia đình và xã 
hội, tần số và (%) (n=382) 
Yếu tố 
Tần số (%) 
Kinh tế khó khăn 
270 (71) 
Khó khăn về nhà ở 
214 (56) 
Người thân trong gia đình bị bệnh mãn tính/nan y 
82 (22) 
Khu vực sinh sống không an toàn 
75 (20) 
Người thân trong gia đình thường xuyên dùng rượu 
70 (18) 
Tệ nạn xã hội ảnh hưởng môi trường sống 
53 (14) 
Người thân chết 
50 (13) 
Không hài lòng về con cái 
35 (9) 
Quan hệ vợ chồng không hòa thuận 
29 (8) 
Làm ăn thua lỗ 
23 (6) 
Bảng 5: Các yếu tố liên quan với có khả năng mắc rối loạn tâm thần (n=367) 
Yếu tố 
OR điều chỉnh * (KTC 95%) 
p 
Cơ quan 
Y tế dự phòng 
1 
Bệnh viện huyện có giường bệnh 
1,2 (0,4-3,6) 
0,78 
Bệnh viện huyện không có giường bệnh 
0,9 (0,2-3,2) 
0,85 
Bệnh viện tỉnh 
1,2 (0,4-3,5) 
0,67 
Khoa phòng công tác 
Khoa khác 
1 
Hồi sức cấp cứu phòng khám 
2,9 (1,3-6,4) 
0,01 
Khoa ngoại phòng mổ 
4,9 (1,6-15,1) 
<0,01 
Khoa Nội Nhi Nhiễm 
3,1 (1,3-7,0) 
<0,01 
Khoa sản phụ - kế hoạch hóa gia đình 
1,3 (0,6-3,2) 
0,50 
Chế độ làm việc 
Hành chánh 
1 
Trực 24/24 
0,8 (0,4-1,6) 
0,57 
Trực ca kíp 
1,0 (0,4-2,3) 
0,91 
Thâm niên công tác 
< 5 năm 
1 
Từ 5-10 năm 
0,9 (0,4-1,9) 
0,84 
Từ 10-15 năm 
1,6 (0,5-4,9) 
0,41 
Từ 15-20 năm 
1,6 (0,5-5,0) 
0,45 
≥ 20 năm 
1,1 (0,3-3,4) 
0,92 
Nhóm tuổi 
<25 tuổi 
1 
25 - <30 tuổi 
1,4 (0,6-3,0) 
0,46 
30 - <35 tuổi 
1,3 (0,5-4,0) 
0,60 
35 - <40 tuổi 
2,0 (0,6-6,8) 
0,29 
40 - <45 tuổi 
1,5 (0,4-5,5) 
0,58 
45 - <50 tuổi 
1,0 (0,2-4,2) 
0,95 
≥ 50 tuổi 
3,5 (0,4-28) 
0,25 
Tình trạng hôn nhân 
Có gia đình 
1 
Độc thân 
1,5 (0,8-2,8) 
0,21 
Ly thân/Ly hôn 
0,3 (0,0-1,6) 
0,15 
Công việc đòi hỏi quan sát hoặc lựa chọn chính xác 
2,0 (1,1-3,8) 
0,02 
Công việc quá nặng nhọc 
2,1 (1,0-4,1) 
0,04 
Cấp trên cư xử nghiêm khắc với nhân viên 
0,6 (0,3-1,1) 
0,09 
Chịu sức ép nặng nề trong công việc 
3,6 (1,9-6,6) 
<0,001 
Mâu thuẫn với cấp trên 
0,4 (0,1-1,1) 
0,08 
Nơi làm việc không an toàn 
0,3 (0,2-0,6) 
<0,001 
Nguy cơ bị mất việc 
3,5 (1,5-8,1) 
<0,01 
Bất hòa với hàng xóm 
4,2 (0,9-20) 
0,07 
Có vấn đề liên quan dư luận, báo chí 
13 (0,9-180) 
0,059 
Làm ăn thua lỗ 
3,2 (0,9-12) 
0,08 
* Điều chỉnh theo giới, nhóm tuổi, tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, và 
nơi cư trú. 
Cỡ mẫu thật của nghiên cứu là 382 đối tượng. Hơn 90% người được khảo 
sát là nữ, gần 50% trong lứa tuổi <30, khoảng 2/3 có gia đình, và 96% có 
trình độ trung cấp (Bảng 1); 78% là điều dưỡng, khoảng 2/3 làm việc ở các 
bệnh viện tuyến tỉnh, 80% làm việc ở các khoa phòng đông bệnh nhân và có 
nhiều bệnh nhân nặng (như khoa hồi sức cấp cứu phòng khám, khoa ngoại 
phòng mổ, khoa sản kế hoạch hóa gia đình và khoa nội nhi nhiễm), hơn 2/3 
phải tham gia trực (trực 24/24 giờ hoặc trực ca kíp), 65% có thâm niên công 
tác dưới 10 năm. 
Tỷ lệ có khả năng mắc rối loạn tâm thần của điều dưỡng nữ hộ sinh là 59% 
với KTC 95% (54% - 64%) (Bảng 2). Tỉ lệ rối loạn tâm thần tương đương ở 
nam và nữ, các nhóm tuổi, điều dưỡng và nữ hộ sinh, cơ quan công tác, chế 
độ làm việc, và thâm niên công tác. Tỉ lệ này là thấp ở nhóm ly thân ly hôn 
và goá, trình độ đại học; và trội ở nhóm làm việc tại các khoa cấp cứu hồi 
sức, phòng khám, ngoại,phòng mổ, sản,kế hoạch hóa gia đình, nội nhi 
nhiễm. 
Các điều kiện công việc có ảnh hưởng nhiều nhất tới sang chấn tâm lý được 
ghi nhận theo thứ tự là công việc đòi hỏi quan sát hoặc lựa chọn chính xác, 
có khả năng lây nhiễm, lương không thỏa đáng, công việc đơn điệu hoặc lặp 
đi lặp lại, công việc gây căng thẳng tâm lý, nguy cơ bị tai nạn trong công 
việc (Bảng 3). Các yếu tố gia đình xã hội có ảnh hưởng tới sang chấn tâm lý 
được ghi nhận nhiều nhất là kinh tế khó khăn, khó khăn về nhà ở (Bảng 4). 
Sau khi khử các biến số gây nhiễu, kết quả cho thấy những yếu tố thuộc môi 
trường làm việc có liên quan đến khả năng mắc rối loạn tâm thần là làm việc 
tại khoa ngoại và phòng mỗ; khoa nội nhi nhiễm; và hồi sức cấp cứu và 
phòng khám (Bảng 5); công việc đòi hỏi quan sát hoặc lựa chọn chính xác, 
công việc quá nặng nhọc, chịu sức ép nặng nề trong công việc, nguy cơ bị 
mất việc. Tuy nhiên, hai yếu tố cấp trên cư xử nghiêm khắc với nhân viên và 
mâu thuẫn với cấp trên lại giảm khả năng mắc các rối loạn tâm thần, dù 
không có ý nghĩa thống kê, với giá trị p là 0,09 và 0,08, tương ứng. Yếu tố 
nơi làm việc không an toàn lại có tác dụng bảo vệ với mắc rối loạn tâm thần. 
Các yếu tố gia đình và xã hội có liên quan với khả năng mắc các rối loạn tâm 
thần là bất hòa với hàng xóm; có vấn đề liên quan dư luận, báo chí; và làm 
ăn thua lỗ; tuy nhiên, chưa có ý nghĩa thống kê, với các giá trị p tương ứng 
là 0,07; 0,059; và 0,08. 
BÀN LUẬN 
Đa số đối tượng nghiên cứu là nữ, trình độ trung cấp, 3/4 là điều dưỡng. Đây 
là đặc tính chung của điều dưỡng và nữ hộ sinh ở các đơn vị y tế công tuyến 
tỉnh và huyện, mẫu nghiên cứu, do đó, có tính đại diện cho dân số. Khoảng 
2/3 người được khảo sát dưới 30 tuổi, công tác ở bệnh viện tuyến tỉnh, làm 
việc ở các khoa đông bệnh nhân và/hoặc nhiều bệnh nhân nặng, tham gia 
thường trực, có thâm niên công tác dưới 10 năm và đã lập gia đình. Các yếu 
tố này góp phần ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc rối loạn tâm thần. 
Tỷ lệ mắc rối loạn tâm thần của điều dưỡng và nữ hộ sinh Bà Rịa Vũng Tàu 
Để xác định mắc rối loạn tâm thần cần phải dựa trên chẩn đoán lâm sàng 
(hỏi bệnh sử, tiền sử bản thân, tiền sử gia đình, thói quen sinh hoạt, lối sống, 
thăm khám bệnh nhân), và kết quả thực hiện các trắc nghiệm tâm lý, được 
thực hiện bởi các bác sỹ chuyên ngành tâm thần. Trong nghiên cứu này tỷ lệ 
rối loạn tâm thần cuả điều dưỡng và nữ hộ sinh tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu là 
59%. Tỷ lệ này là khá cao, có thể do nghiên cứu chỉ dựa trên việc trả lời các 
thang điểm đã được chuẩn hóa, được sử dụng trong chuyên ngành tâm thần. 
Ngoài ra, còn do hạn chế của việc sử dụng thang đánh giá trầm cảm Beck 
(cho phép chọn một hoặc nhiều đáp án mang tính định tính, khoảng thời gian 
xem xét không phải một ngày mà cả trong tuần lễ vừa qua, những câu hỏi 
mang tính chuyên sâu cũng có thể ảnh hưởng đến việc trả lời thiếu thống 
nhất và chưa sát thực tế), và phương pháp phỏng vấn (hướng dẫn tập thể, trả 
lời trên bộ câu hỏi tự điền chứ không phải phỏng vấn trực tiếp, thiếu tư vấn 
tâm lý kỹ bởi những người có kinh nghiệm trong chuyên ngành tâm thần). 
Tỷ lệ mắc rối loạn tâm thần của điều dưỡng và nữ hộ sinh tỉnh Bà Rịa Vũng 
Tàu cao hơn tỷ lệ mắc rối loạn tâm thần của công nhân các ngành giày da, 
may mặc, luyện kim; cũng cao hơn tỷ lệ mắc các rối loạn tâm thần của nhân 
viên y tế làm việc tại bệnh viện chuyên khoa lao và nhân viên y tế làm việc 
tại bệnh viện chuyên khoa tâm thần (1,7,9,8). Điều này, cho thấy không chỉ 
sự nặng nhọc, căng thẳng trong tính chất công việc của điều dưỡng-nữ hộ 
sinh (thức cả đêm trực, đứng mổ cả 6-8 giờ liên tục, sự sơ suất có thể gây 
chết người, v.v.), mà còn cho thấy sự thiệt thòi trong môi trường làm việc 
của điều dưỡng và nữ hộ sinh tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu (trực nhật thường 
xuyên, nguy cơ lây nhiễm bệnh tật, thường xuyên tiếp xúc người bệnh với 
cảm xúc âm tính như chết chóc, tuyệt vọng). Tuy nhiên tỷ lệ mắc rối loạn 
tâm thần của điều dưỡng và nữ hộ sinh tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu thấp hơn tỷ lệ 
tương ứng của công nhân ngành dầu khí làm việc ngoài biển (4). Lý do của 
sự khác biệt trên, có thể ngoài tính chất nặng nhọc, căng thẳng, thiệt thòi 
trong công việc, nhân viên ngành dầu khí còn chịu đựng một sự thiệt thòi 
lớn, đó là phải chịu đựng “hội chứng người chồng gián đoạn”, một thuật ngữ 
quen dùng trong các ngành nghề kinh tế biển. Sự thiếu quân bình trong cuộc 
sống gia đình phần nào ảnh hưởng tới sức khỏe 
tâm thần(5). 
Tỉ lệ rối loạn tâm thần là thấp ở nhóm ly thân ly hôn và goá, trình độ đại 
học, có thể do mẫu cuả các tiểu nhóm là nhỏ. Tỉ lệ này là cao ở nhóm làm 
việc tại các khoa cấp cứu hồi sức, phòng khám, ngoại, phòng mổ, sản, kế 
hoạch hóa gia đình, nội, nhi, và nhiễm. Đây là những khoa có đông bệnh 
nhân hoặc/và có nhiều bệnh nhân nặng, nên khối lượng công việc là nhiều 
và áp lực công việc cũng cao, do đó có thể ảnh hưởng đến sức khỏe tâm 
thần. Biến số khoa phòng làm việc có liên quan có ý nghĩa thống kê với mắc 
rối loạn tâm thần trong phân tích đa biến. 
Những yếu tố liên quan với mắc rối loạn tâm thần ở điều dưỡng và nữ hộ 
sinh Bà Rịa Vũng Tàu 
Những yếu tố thuộc môi trường làm việc có liên quan đến khả năng mắc rối 
loạn tâm thần là làm việc tại khoa ngoại và phòng mỗ; khoa nội nhi nhiễm; 
hồi sức cấp cứu và phòng khám; công việc đòi hỏi quan sát hoặc lựa chọn 
chính xác, công việc quá nặng nhọc, chịu sức ép nặng nề trong công việc, 
nguy cơ bị mất việc. 
Khoa hồi sức cấp cứu phòng khám, khoa ngoại phòng mổ, khoa nội nhi 
nhiễm trong bệnh viện là những khoa phải tiếp xúc nhiều bệnh nhân nhất 
trong ngày. Nhiều bệnh nhân vào viện trong tình trạng hấp hối, tai nạn, tự tử 
mà sự đáp ứng của nhân viên y tế phải thường xuyên, nhanh nhẹn và chính 
xác. Không những thế điều dưỡng và nữ hộ sinh phải luôn giữ thái độ niềm 
nở, dịu dàng trước hàng trăm bệnh đang chờ thăm khám, trước hàng chục 
bệnh nặng đang chờ chăm sóc, người nào việc nấy, không còn thời gian, 
không còn ai để chia xẻ. Sự quá tải của hầu hết các bệnh viện hiện nay góp 
phần làm nặng nề hơn cho công tác điều dưỡng và nữ hộ sinh, góp phần làm 
tăng khả năng mắc rối lọan tâm thần của điều dưỡng-nữ hộ sinh. 
Các yếu tố đặc thù trong công việc của nhân viên y tế (phải lựa chọn chính 
xác, quá nặng nhọc, chịu sức ép nặng nề, nơi làm việc không an toàn, nguy 
cơ bị mất việc) tạo nên không chỉ môi trường làm việc nặng nhọc, nguy 
hiểm, mà còn tạo tâm lý căng thẳng trong khi làm việc. Sự tích tụ những 
cảm xúc tiêu cực từ ngày này qua ngày khác có thể dẫn đến khả năng mắc 
rối loạn tâm thần. Điều này cho thấy sự quan trọng của công tác tư vấn tâm 
lý nghề nghiệp, những hoạt động ngoại khóa, những sinh hoạt giao lưu trong 
môi trường bệnh viện, sẽ có tác dụng giải tỏa ức chế và tháo gỡ căng thẳng. 
Hai yếu tố cấp trên cư xử nghiêm khắc với nhân viên và mâu thuẫn với cấp 
trên lại giảm khả năng mắc các rối loạn tâm thần, dù không có ý nghĩa thống 
kê, với giá trị p là 0,09 và 0,08, tương ứng. Mối liên quan nghịch này có thể 
được giải thích do sai lệch thông tin. Cho dù sử dụng bộ câu hỏi tự điền và 
khuyết danh, việc khai báo có mâu thuẩn với cấp trên hoặc bị cấp trên đối xử 
nghiêm khắc là tế nhị. Những người có vấn đề sức khỏe tâm thần, nếu do hai 
nguyên nhân vừa nêu và nếu sợ bị mất việc, sẽ có khuynh hướng trả lời 
không với hai câu hỏi có mâu thuẩn với cấp trên hoặc bị cấp trên đối xử 
nghiêm khắc, và hậu quả là làm giảm mức độ kết hợp. Sai lệch thông tin 
cũng có thể là nguyên nhân của mối liên hệ nghịch giữa cảm nhận nơi làm 
việc không an toàn với mắc rối loạn tâm thần. Câu hỏi “Nơi làm việc không 
an toàn” là rất mơ hồ, và quan trọng hơn cả, là một câu hỏi phủ định. Khả 
năng sai lệch thông tin là rất lớn với những người chọn đáp án “Có” trong 
ngữ cảnh của tiếng Việt. 
Mối liên quan thuận giữa rối loạn tâm thần với các yếu tố bất hòa với hàng 
xóm; có vấn đề liên quan dư luận, báo chí; và làm ăn thua lỗ là phù hợp. Ý 
nghĩa thống kê chưa ghi nhận được là do ảnh hưởng của cỡ mẫu nhỏ, với các 
khoảng tin cậy của OR là rất rộng. 
Những điểm mạnh và hạn chế của đề tài 
Mẫu nghiên cứu có tính đại diện và đủ lớn để ước lượng tỉ lệ rối loạn tâm 
thần của dân số nghiên cứu. Tuy nhiên, tỉ lệ rối loạn tâm thần có thể bị ước 
lượng trội với bộ câu hỏi phỏng vấn. Cỡ mẫu nghiên cứu có thể chưa đủ lớn 
để xác định các yếu tố liên quan với mắc rối loạn tâm thần. Sai lệch thông 
tin có thể xảy ra với những bộ câu hỏi dài, và đặc biệt với câu hỏi tế nhị như 
mâu thuẩn với cấp trên, bị cấp trên đối xử nghiêm khắc, và với câu hỏi phủ 
định nơi làm việc không an toàn. Nghiên cứu cắt ngang hạn chế khả năng 
suy diễn nhân quả. 
Tỷ lệ rối loạn tâm thần ở điều dưỡng và nữ hộ sinh là khá cao, tuy nhiên, chỉ 
mới được ghi nhận qua phỏng vấn, do đó, những đối tượng đã được ghi nhận 
có rối loạn tâm thần cần được xác định lại với khám lâm sàng và các trắc 
nghiệm tâm lý thích hợp. Để nâng cao sức khỏe tâm thần của điều dưỡng và 
nữ hộ sinh tại Bà Rịa Vũng Tàu, cần tăng cường những biện pháp phòng hộ 
lây nhiễm, cải thiện môi trường làm việc (nơi làm việc, nơi nghỉ ngơi, trang 
thiết bị phục vụ chuyên môn) để giúp nhân viên y tế bớt sai sót, bớt căng 
thẳng, lo âu. Về lâu dài, cần nghiên cứu việc luân chuyển công tác định kỳ 
đối với điều dưỡng và nữ hộ sinh làm việc ở các khoa đông bệnh nhân, 
nhiều bệnh nặng sang những khoa ít bệnh nhân và bệnh nhẹ. 

File đính kèm:

  • pdfroi_loan_tam_than_o_dieu_duong_va_nu_ho_sinh.pdf