Tài liệu Á Châu huyền bí - Nguyễn Hữu Kiệt
Tóm tắt Tài liệu Á Châu huyền bí - Nguyễn Hữu Kiệt: ...người, miệng há hốc, hai mắt dương lên thật lớn. Tôi tưởng chừng chắc là tôi cũng đã làm như vậy. Tôi còn đợi xem họ nói gì, thì họ đã đồng thanh la lớn: - Chúng ta hẳn là bị treo lơ lửng trong không gian! Sự xúc động và ngạc nhiên của họ thật giống y như của tôi khi tôi vừa lên tới nóc đề...n phải bỏ thể xác cho nó tan rã trong sự chết. Bây giờ bạn đã nhận thức được sự huy hoàng của cõi giới nguyên thủy của mình. Bây giờ bạn có thể đứng dậy và đến với Chúa Trời... Hỡi quý độc giả, nếu người ta thử diễn tả sự mỹ lệ và tinh anh của ánh sáng tràn ngập gian phòng này bằng ngôn ngữ ...g dịch lại những lời em nói. Nó nói biết rằng đứa em trai của nó sẽ được đức bà chữa khỏi. Khi đến gần nhà, đứa bé gái chạy vọt tới trước để báo tin cho chúng tôi đến. Chúng tôi thấy em ở một cái chòi vách đất nghèo nàn. Bà Mã Ly có lẽ đọc được tư tưởng chúng tôi vì bà nói: - Căn nhà nghèo...
hành hương vượt qua những đoạn đường gau go khó khăn nhất lộ trình của họ. Khi chúng tôi bước vào sân tu viện, một người thanh niên lực lưỡng bước đến gần chúng tôi với nhữn lời chào mừng nghinh tiếp. Y cho chúng tôi biết rằng các vị Lạt Ma muốn mời chúng tôi ở lại tu viện trong thời gian lưu trú tại làng này. Chúng tôi nói rằng chúng tôi sẽ lên đường ngay ngày hôm sau, vì chúng tôi phải đi gấp lên truông Phari. Y đáp: - Chúng tôi biết rằng các bạn định đi tới Pora tat Sanga. Tôi cũng trở về đó sáng ngày mai và rất sung sướng mà được cùng đi với các bạn nếu các bạn cho phép! Chúng tôi nhận lời. Với một chuỗi cười dài cởi mở, y đưa chúng tôi đến chỗ ngủ, trong gian phòng lớn của tu viện. Sau khi đã xếp đặt cho chúng tôi được có đủ tiện nghi, y chúc chúng tôi nghỉ yên giấc, xin khiếu từ và nói y sẽ gặp lại chúng tôi rất sớm vào sáng ngày hôm sau. Y vừa bước đi vừa hát bằng giọng rất trong. Đó là vị "Đệ Tử Cười." Sáng ngày hôm sau, y đánh thức chúng tôi dậy bằng một giọng hát vang lừng và loan báo rằng bữa điểm tâm đã sẵn sàng. Chúng tôi từ biệt các vị Lạt Ma, được các vị ban ân huệ trước khi lên đường, và thấy rằng mọi việc đã chuẩn bị sẵn sàng cho chuyến đi của chúng tôi đến truông núi Phari. Truông này đưa du khách qua khỏi các đỉnh núi Phari và Kang La. Nói chung, đường đi rất cheo leo, nhưng ở những đoạn đường khó đi, thì người đệ tử đi trước dẫn đường vừa hát và vừa cười. Trong những đoạn đường gồ ghề lồi lõm nhất, giọng hát của y vang rền và dường như đưa chúng tôi đi một cách dễ dàng êm ái. Chúng tôi lên tới đỉnh truông núi vào lúc ba giờ chiều. Trạm nghỉ chân sắp tới của chúng tôi là thị trấn Manha Muni với một ngôi đền rất to lớn như pháo đài. Cũng như ở các nơi khác, tại đây chúng tôi được tiếp đón nồng hậu. Chúng tôi được cho biết rằng người ta không cần giữ chúng tôi ở lại, vì Chân Sư Pouridji đã đi trước chúng tôi đến đền Pora tat Sanga là nơi có rất nhiều đạo sĩ Yogi và tu sĩ các môn khác đã tề tựu rất đông tại đây. Ngày hôm sau, đám người hành hương tựu họp rất sớm vì họ muốn đi sớm để được gặp Chân Sư Pourdji. Họ cũng muốn chiêm ngưỡng ngôi đền Pora tat Sanga là ngôi đền cao nhất thế giới, một tòa kiến trúc mỹ lệ dựng trên một đỉnh núi cao. Tất cả đoàn người hành hương và chúng tôi đều lên đường. Ngọn Everest hùng vĩ nhô lên trước mặt chúng tôi dưới lớp áo tuyết trắng như pha lê và chiếu ánh sáng dịu của bình minh. Nó dường như mời mọc chúng tôi hãy cố gắng tiến thêm vài bước, chỉ vài bước nữa thôi, rồi đưa tay ra trước để nắm manh áo tuyết của nó. Nhưng mỗi khi chúng tôi tiến thêm vài bước, thì khối đá khổng lồ vẫn lọt ra ngoài tầm tay chúng tôi. Chúng tôi đã vượt qua khỏi núi Chomolhari thật là treo leo hiểm trở, nhưng bây giờ chúng tôi đi một cách vô cùng vất vả trên một con đường mà thường khi chúng tôi phải bò trên bốn cẳng! Tuy nhiên, những giọng hát tiếng cười của người đệ tử vẫn đưa chúng tôi đi nhẹ nhàng thoải mái như lướt trên hai cách. Trong cơn hứng khởi, chúng tôi quên cả sự hiểm nguy, và dường như chúng tôi vượt qua những đoạn đường khó khăn một cách dễ dàng nhanh chóng. Chuyến đi ngày hôm ấy không có vẻ gì là lâu lắc hay mệt nhọc đối với chúng tôi, mà dường như chỉ kéo dài trong chốc lát. Những âm ba rung động của thần lực, của sự an tĩnh và điều hòa toát ra từ các ngôi đền luôn luôn hấp dẫn người du khách đến những ngọn núi này. Thật không lạ gì mà thấy rằng dãy núi Tuyết Sơn vẫn gây nguồn cảm hứng tâm linh cho khách lữ hành, và các thi nhân vẫn luôn luôn ca tụng sự huy hoàng hùng vĩ của nó. Sau cùng, đến chiều tối, chúng tôi đã vượt qua tất cả mọi nỗi khó khăn trên đường mòn và dừng chân trên một khoảng đá bằng phẳng rộng lớn, ai nấy mệt nhoài và thở dốc. Nhiều ngôi đền rải rác xa xa, nhưng đền Pora tat Sanga đẹp như viên ngọc, nhô lên ở một chiều cao bảy trăm thước trên đầu chúng tôi, và chiếu một vầng ánh sáng rực rỡ, soi sáng tất cả các núi đá và đền miếu ở vùng chung quanh. Đám người hành hương và chúng tôi cùng ngồi quây quần trong một hang đá rộng lớn. Chúng tôi ngạc nhiên mà nhận thấy rằng có cả phụ nữ trong đám hành hương. Không có sự kỳ thị hay phân biệt nam nữ trong những chuyến hành hương, ai muốn đi đều có thể xin gia nhập. Các vị Chân Sư đã từng sống ở tại đây. Chân Sư Niri cũng đã từng đi qua con đường mòn của chúng tôi vừa đi. Hôm nay, nhà đạo sĩ Santi cao cả, khiết bạch và khiêm tốn, đã ngồi tọa thiền tại hang đá này và đang đắm chìm trong cơn đại dịnh. Chúng tôi hỏi làm sao tìm được nơi ăn chốn ở cho tất cả những người hành hương này? Vị Đệ Tử Cười cất tiếng hát: - Đừng lo chi vấn đề nhà ở. Tại đây có đầy đủ thức ăn, chỗ ngủ và áo quần cho tất cả mọi người. Kế đó, người đệ tử lại hát một giọng du dương: - Xin mời tất cả mọi người hãy an tọa. Khi chúng tôi vừa ngồi xuống thì những chén thức ăn nóng và bổ dưỡng xuất hiện. Vị đạo sĩ Santi cũng đã xả thiền đứng dậy và bắt đầu chuyền thức ăn cho các du khách, với sự trợ giúp của người đệ tử và các người hành hương khác. Khi ai nất đều đã ăn uống no lòng, tất cả khách hành hương đều đứng dậy và người ta đưa họ đi từng nhóm nhỏ đến các ngôi đền kế cận để nghỉ lại trong đêm đó. *** Vị đệ tử đưa chúng tôi đến một ngôi đền tọa lạc trên một khối đá, ngăn cách chỗ chúng tôi bởi một vách đá dốc đứng chừng hai mươi lăm thước bề cao. Khi đến gần, chúng tôi nhận thấy một cây cột trụ dài, chân trụ chấm đất, còn ngọn thì đỡ lấy các mõn đá de ra phía dưới ngôi đền. Vì cây cột trụ này dường như là phương tiện duy nhất để lên tới ngôi đền, nhóm chúng tôi tựu lại dưới chân trụ để tìm cách trèo lên. Trong một lúc, cái hy vọng duy nhất để có chỗ ngủ là ban đêm dường như tùy thuộc vào khả năng của chúng tôi để trèo lên cây trụ ấy. Nhưng người đệ tử nói: - Các bạn chớ nên hấp tấp vội vàng. Kế đó, y cất giọng lớn: - Hỡi Thượng Đế mến yêu, chúng con sở cậy nơi Ngài để có chỗ trú trong đêm nay. Ngay khi ấy, tất cả mọi người chung quanh chúng tôi đều giữ im lặng trong một lúc, rồi bằng một giọng đồng thanh hòa tấu rất mãnh liệt, họ thốt lên những lời này: - Đó là quyền năng của Thượng Đế, AUM... Trong khoảnh khắc, tất cả chúng tôi đã thấy mình đứng trên mõn đá, và cùng đi với những người hành hương khác đến ngôi đền rải rác chung quanh, được chỉ định cho từng nhóm. Khi đến nơi, chúng tôi không còn giữ lại một dấu vết nào của sự mệt nhọc. Đêm đó chúng tôi ngủ yên giấc như trẻ con. Chúng tôi thầm nghĩ rằng nếu những rung động của thần lực toát ra từ nhóm người đó được sử dụng để san bằng núi non thành bình địa, thì ắt là điều ấy vẫn có thể làm được! Sáng ngày hôm sau, lúc bốn giờ, giọng hát mạnh mẽ rõ ràng của người đệ tử đánh thức chúng tôi dậy. Y hát: - Cõi thiên nhiên đã thức dậy. Nhữn người con của thiên nhiên cũng phải thức giấc. Bình minh của một ngày mới đã xuất hiện. Sự tự do của ngày này đang chờ đón các bạn AUM! Chúng tôi đến gần chỗ mõm đá gie ra ngoài và gác lên đỉnh cột trụ trong ngàu hôm trước. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên mà thấy rằng cột trụ đã thay thế bằng cầu thang rất chắc chắn. Khi xuống cầu thang, chúng tôi tự hỏi không biết có phải chúng tôi đã mơ hay chăng? Người đệ tử đón chúng tôi dưới chân cầu thang nói: - Không, các bạn không mơ đâu. Chính Chân Sư Pourdji đã mơ tưởng cái cầu thang trong đêm qua và đã đặt nó tại đây vì sự ích lợi công cộng. Đó là giấc mơ trở thành sự thật đấy. Trong khoảng khắc mười lăm ngày chúng tôi đã trải qua trong vùng này, mỗi ngày chúng tôi được ăn những thức ăn nóng hổi và bổ dưỡng không hề thấy có ai làm bếp hoặc nấu nướng gì, và được cung cấp thức ăn rất đầy đủ. Người đệ tử và một người đồng hành bắt đầu trèo lên ngọn núi Pora tat Sanga. Đường đi khởi đầu bằng những nấc thang tam cấp đục trong khối đá. Kế đó, người ta phải đi trên những tấm sàn gỗ bắc ngang để nối liền các khe hở giữa hai vách núi, tạo nên những vực thẳm dưới chân người lữ hành. Có những chỗ khác, người ta phải leo dây, mà một đâu dây được cột chặt với những mô đá đưa ra ở phía trên. Sau hai giờ đồng hồ, những người leo núi vẫn chưa có thể vượt qua mõm đá thứ nhì chiều cao ở một trăm bảy mươi lăm thước cao hơn điểm khởi hành. Khi đó, họ mới nhận thấy rằng họ bắt buộc phải bỏ dở chuyến trèo núi này. Nhìn thấy họ lưỡng lự và biết rõ vị trí khó khăn của họ, đạo sĩ Santi kêu Tonjnor Jung: - Tại sao các anh không xuống đi? Người đệ tử đáp: - Chúng tôi thử đi xuống nhưng đá trơn quá không xuống được. Y đã trải qua cái kinh nghiệm thông thường là trèo lên một vách đá hầu như trơn láng còn dễ hơn là xuống! Khi đó, người đạo sĩ nói đùa: - Nếu vậy, tại sao các anh không ở nguyên tại chỗ? Chúng tôi sẽ trở lại sáng ngày mai với đồ lương thực, và chắc chắn các anh sẽ có thể trèo lên tới đỉnh! Kế đó, đạo sĩ yêu cầu hai người leo núi hãy hoàn toàn bình tĩnh, và hướng dẫn họ cẩn trọng trong ba tiếng đồng hồ để cho họ đi xuống được an toàn. Khi họ đã xuống tới đất và gặp lại chúng tôi, người Yogi mỉm cười và nói: - Như thế là sự hứng khởi nhiệt thành của tuổi trẻ tàn lụi dần. Hai người thanh niên bèn ngước nhìn lên đỉnh núi với những cặp mắt đầy mong ước. Họ nói: - Nếu Chân Sư Pourdji đang ở trên đó, chúng tôi thật là không may mà không gặp được ngài. Cuộc trèo núi này thật quá khó khăn đối với chúng tôi. Người Yogi đáp: - Các anh đừng lo ngại gì. Một vị cao cả hơn chúng tôi sẽ lo việc ấy. Bây giờ các anh hãy nghỉ ngơi, các anh đã khởi sự một cách tốt đẹp đó. Chúng tôi bèn tự hỏi trong sự ngạc nhiên, bằng cách nào người ta có thể xây cất một ngôi đền trên chót núi như ngôi đền Pora tat Sanga. Nhiều giọng nói thốt lên hỏi rằng bao giờ chúng tôi mới có thể gặp được Chân Sư. Người Yogi đáp: - Chiều nay. Thật vậy, chân sư Pouridji đã đến gặp chúng tôi trong buổi cơm chiều. Chúng tôi có nhắc đến việc trèo núi của hai người thanh niên bị thất bại. Chân Sư nói rằng hai người đã thành công trong việc trèo núi nhờ bởi mưu toan lần thứ hai mà họ đã làm trong tư tưởng. Bốn giờ chiều ngày hôm sau, tất cả chúng tôi đều tựu họp trong hang đá ở phía dưới ngôi đền. Đạo sĩ Santi đang ngồi nhập định. Ba người trong nhóm bèn đi tới một tảng đá bằng phẳng và ngồi lên đó trong tư thế tọa thiền. Trong giây lát, tảng đá bay bổng lên trên không và chở ba người lên tới ngôi đền trên đỉnh núi. Khi đó đạo sĩ Santi nói với người đệ tử và hai người nữa: - Các anh sẵn sàng chưa? Họ đáp là sẵn sàng và liền ngồi xuống một bên đạo sĩ trên tảng đá. Tảng đá này liền bắt đầu tự cất mình nhẹ bổng lên và chở cả ba người lên đến trước sân đền. Kế đó, người ta mời chúng tôi đứng chung lại thành một nhóm. Tất cả mọi người đều đứng dậy. Những người đã lên tới đền từ trước bèn bước ra sân và bắt đầu hát thành ngữ AUM. Trong khoảnh khắc, chúng tôi đã thấy mình không còn ở dưới đất nữa mà đã có mặt tại sân đền trên chót núi. Chỉ trong giây lát, tất cả chúng tôi đã tề tựu đông đủ tại ngôi đền cao nhất thế giới. Khi chúng tôi đã ngồi an tọa, Chân Sư Pouridji cất tiếng nói: - Nhiều người trong các bạn chưa hề nhìn thấy hiện tượng khinh thân và cho rằng đó là một phép lạ nhiệm mầu. Thật ra, đó không có gì lạ phép lạ cả. Đó chỉ là kết quả của một quyền năng tự nhiên của con người. Chúng tôi được truyền thụ phép ấy do bởi pháp môn Yoga cổ truyền. Trong quá khứ, nhiều người đã từng sử dụng quyền năng đó mà không ai cho là nhiệm mầu hết cả. Đức Phật cũng đã từng viếng thăm nhiều nơi xa xôi hẻo lánh bằng phương tiện khinh thân. Tôi từng thấy hằng nghìn người đã đạt tới kết quả tương tự. Ngoài ra còn có những cách biểu lộ quyền năng cao hơn nhiều so với những gì các bạn sẽ được nhìn thấy. Những sự biểu lộ đó chứng minh sự hiện hữu của một sức mạnh vạn năng. Khi người ta hoàn toàn làm chủ được cái sức mạnh vạn năng đó, người ta có thể sử dụng nó để lấp biển dời non. Các bạn ca tụng sự tự do, các bạn tuyên dương đức vô úy. Nhưng thay vì các bạn quên mất sự nô lệ, và không còn nhắc đến nó nữa, các bạn vẫn còn nhớ đến nó một cách quá rõ, và chính là sự tự do mà các bạn đã quên. Một pháp môn Yoga thuần túy là một thông điệp tự do cho toàn thể thế giới. Kế đó Chân Sư Pouridji thuyết giảng về ý nghĩa thần bí của thánh ngữ AUM. Sau khi dứt lời, ngài mời chúng tôi cùng đi theo ngài đến một động đá rất lớn ở dưới lòng đất, tại đây, nhiều vị đạo sĩ Yogi đang ngồi tọa thiền nhập định. Chúng tôi ở lại ngôi đền và trong động đá này chín ngày. Nhiều vị Yogi đã từng sống tại động đá trong nhiều năm, và khi họ rời khỏi nơi vắng vẻ cô liêu, họ thực hiện những công trình tốt đẹp về đạo đức tâm linh giữa những người của dân tộc họ. Chúng tôi được cho biết rằng sau cuộc hội họp này, nhiều vị Chân Sư sẽ trở về Ấn Độ do con đường đi đến hồ Sansrawar và Mouktinath. Từ Mouktinath chúng tôi có thể đi dễ dàng đến Darjeeling. Đó là một tin lành, và triển vọng được đi chung với các đấng cao cả làm cho chúng tôi rất hãnh diện. Chúng tôi đi từ động này đến động khác và nói chuyện với nhiều tu sĩ và đạo sĩ Yogi. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên mà thấy nhiều vị trong số đó sống tại đây mùa đông cũng như mùa hè. Chúng tôi hỏi họ có bị lạnh vì tuyết xuống nhiều vào mùa đông hay không. Họ đáp rằng tuyết không rơi xuống vùng chung quanh chỗ họ ở, và vùng này không hề có sương mù hay bão tố. Thời gian qua mau như thoi đưa, và bây giờ chúng tôi đã sắp đến ngày lên đường. 5. Chuyến Đi Trở Về Sáng ngày chúng tôi lên đường, tất cả đoàn người đều thức dậy vào lúc ba giờ sáng do bởi tiếng hát vang của người "Đệ Tử Cười." Chúng tôi nghĩ là chắc có thể xảy ra chuyện gì khác thường, vì y mời tất cả chúng tôi hội họp lại trong một lúc. Trong khi chúng tôi bước ra ngoài, ánh sáng từ đền Pora tat Sanga toát ra với một ánh hào quang rực rỡ đến nỗi tất cả vùng chung quanh đến chiếu sáng. Người đệ tử đứng ở một góc đền và yêu cầu chúng tôi chiêm ngưỡng cảnh tượng ấy trong im lặng. Chúng tôi thấy hàng trăm bóng người đứng yên, hai tay đưa lên. Cơn im lặng bị gián đoạn bởi những lời kêu gọi: - Xin chào tất cả các bạn, Chân Sư Pouridji sắp sửa ngâm thánh ca. Hằng nghìn giọng cất lên phụ họa với giọng ngâm của ngài, và tiếng vang dội lại gây cho người nghe cái cảm giác là còn có hằng nghìn giọng hát khác nữa. Mỗi chữ vang lên rõ ràng trong cơn im lặng của buổi bình minh. Chân Sư nói: - Có thể nào có một vị Thượng Đế cho người Ấn Độ, một Thượng Đế cho người Trung Hoa, một Thượng Đế cho người Do Thái và một Thượng Đế cho người Gia Tô chăng? Chỉ có một Nguyên Lý duy nhất, đại đồng và thiêng liêng cai quản tất cả muôn loại vạn vật. Cái ánh sáng trung ương của Nguyên Lý ấy gọi là Thượng Đế. Thượng Đế phải là bao gồm hết tất cả. Tất cả đều thấm nhuần sự sống của Thượng Đế. Điều ấy, chắc hẳn không có nghĩa là có một vị Thượng Đế cá nhân, riêng biệt cho một nhóm người nào. Khi chúng ta nói về Thượng Đế, chúng ta chỉ nói có một đấng Duy Nhất, Ngài là của tất cả, cho tất cả, trong tất cả và xuyên qua tất cả. Nếu người Ấn Độ đặt một tên cho Thượng Đế của họ, và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, thì tư tưởng của họ đã có sự phân cách. Nếu người Trung Hoa đặt một tên cho Thượng Đế và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, thì tư tưởng của họ đã bị phân chia. Nếu người Do Thái đặt một tên cho Thượng Đế và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, thì tư tưởng của họ đã có sự cách biệt. Nếu người Gia Tô đặt một tên cho Thượng Đế và nói rằng ngoài ra không có đấng nào khác nữa, thì tư tưởng của họ cũng đã bị phân chia. Một cái nhà mà nó tự đã chia rẽ cách biệt, thì đã bị tiêu diệt ngay từ trước, và nó phải sụp đổ. Nếu có hợp nhất, nó sẽ sống trường cửu. Các bạn hãy chọn lựa xem nên theo đằng nào. Chia rẽ, cách biệt có nghĩa là phá sản và diệt vong. Hợp nhất trong cái Nguyên Lý Âm Dương có nghĩa là tiến bộ, danh dự và quyền năng. AUM, AUM, AUM. Tiếng thánh ngữ AUM này dường như vang dội đến chỗ tận cùng của thế giới. Chúng tôi có thể nghe tiếng ngân vang của nó vang dội lại trong ít nhất là mười phút, dường như tiếng cồng của ngôi đền điểm giờ khắc trôi qua. Có những lúc, dường như các tảng đá cũng thốt ra tiếng ngân đó. Trong khi những âm hưởng vang dội lại đã tan dần, tất cả những người hành hương đều tề tựu trong hang đá ở phía dưới ngôi đền, và chúng tôi cũng họp chung với họ. Khi nhóm chúng tôi đã ngồi xuống, đạo sĩ Santi đưa tay lên khỏi đầu, và tất cả mọi người đều đồng thanh cất tiếng ngâm thánh ngữ AUM như trước. Lại một lần nữa, những vách đá phản ảnh lại tiếng vang. Tiếng dội kéo dài cho đến khi chúng tôi đứng dậy, và tất cả đều giữ một lúc im lặng. Kế đó, người đệ tử cất tiếng hát: - Chúng tôi sẽ từ giã các bạn. Chúng tôi gửi cho các bạn những lời chúc lành sâu đậm nhất, khi chúng tôi phải cách biệt với sự hiện diện khả ái của các bạn. Chúng tôi yêu cầu các bạn hãy dành cho chúng tôi cái danh dự được tiếp đón các bạn một lần nữa. Chúng tôi rất do dự phải chia tay với các bạn. Chúng tôi mong ước các bạn sẽ trở lại và có ngày sẽ tái ngộ với chúng tôi. Cầu xin cho các bạn hãy nhận được những ân huệ tốt đẹp của đấng thiêng liêng. Câu trả lời đến ngay dường như chỉ thốt ra bởi một người: - Các bạn thân mến, chúng ta không bao giờ cách biệt nhau dầu các bạn tưởng rằng không gian đào một vực thẳm giữa chúng ta, vì Thượng Đế thấm nhuần tất cả không gian và nối liền với chúng tôi. Chúng tôi cũng không cảm thấy cần thốt ra lời từ giã các bạn không phải là những chuyến đi và đến. Các bạn luôn vẫn ở đây. Biệt ly, thời gian, quên lãng, không hề có. Hiện tại là ở đây, và tương lai là cũng ở đây. Chúng ta có thể ở tại nơi đâu, nếu không phải là tất cả cùng ở nơi Thượng Đế? Chúng tôi đã đi được một quãng đường dài khi những lời sau này vọng đến tai chúng tôi. Những bước chân dong ruổi trên đường lộ đưa chúng tôi đi xa, nhưng lòng chúng tôi vẫn còn ở Pora tat Sanga. Thật quả là không có sự biệt ly, và chúng tôi không hề cảm thấy rằng đã rời khỏi nơi thánh điện tôn nghiêm đó. Trên đường về, người đệ tử đưa đường cho chúng tôi vẫn luôn luôn cất tiếng hát vang và cười rất vui vẻ. Cũng như lần trước, giọng hát tiếng cười của y dường như giúp chúng tôi vượt qua dễ dàng tất cả những đoạn đường khó khăn gập ghềnh. Vào lúc hai giờ trưa, chúng tôi đi qua thị trấn Maha Muni, nhưng thay vì dừng chân tại đây để nghỉ ngơi, chúng tôi vẫn tiếp tục đi thêm mười sáu giờ đồng hồ, và vượt qua trên một trăm hai chục cây số. Tuy vậy, chúng tôi không hề cảm thấy mệt nhọc chút nào, và cuộc hành trình vẫn tiếp tục như thế cho đến bờ hồ Sanarawar. Tại đây, người ta đưa chúng tôi đến nghỉ tại một ngôi đền rất mỹ lệ ở gần bên bờ hồ. Chúng tôi nghỉ ngơi suốt hai ngày trước khi tiếp tục lộ trình đi qua truông núi trên dãy Tuyết Sơn. Địa điểm này phong cảnh u nhã và có vẻ rất thần tiên. Hồ nước phẳng lặng và xanh biếc như viên ngọc nằm giữa một khung cảnh núi non hùng vĩ bao bọc chung quanh. Các loài chim ca hát líu lo trên các cây cổ thụ tỏa bóng mát quanh hồ. Nhiều vị Chân Sư cùng đi với chúng tôi cư ngụ tại đây. Chúng tôi tiếp tục lộ trình đến Mouktinath cùng với đạo sĩ Santi. Chúng tôi thường nghe nói về sự cheo leo hiểm trở của truông núi trên dãy Tuyết Sơn. Chuyến du hành kéo dài suốt nhiều ngày, nhưng chúng tôi đi đường một cách dễ dàng suông sẽ và đến Mouktinath đúng ngày giờ đã định. Tại đây, chúng tôi được sự tiếp đón nồng nhiệt của đức Tuệ Minh và nhiều vị siêu nhân khác. Những lời nói không thể nào diễn tả được sự vui mừng vô hạn của chúng tôi trong dịp tái ngộ này. Chúng tôi đã từng đi đến tận những vùng xa xôi cách trở, và đã được dành cho một sự tiếp đãi trọng hậu và khả ái nhất đời. Tuy nhiên, chính tại đây mà chúng tôi mới cảm thấy mình đã thật sự "Trở về nhà." ---HẾT--- ebook.com Tác phẩm: Á Châu Huyền Bí Tác giả: Dr. Blair T. Spalding Dịch giả: Nguyễn Hữu Kiệt Nguồn: Mây 4 Phương Nguyên Tác : Life and Teaching of the Masters of the Far East Chuyển sang ebook: anhhung9x Thời gian: 8/2006
File đính kèm:
- tai_lieu_a_chau_huyen_bi_nguyen_huu_kiet.pdf