Tài liệu hướng dẫn học tập Công tác xã hội nhập môn - Lê Chí An
Tóm tắt Tài liệu hướng dẫn học tập Công tác xã hội nhập môn - Lê Chí An: ... khỉ). Khi chương trình ban đầu này đã đi vào nề nếp, tác viên bàn bạc với Ban Phát triển để lên kế hoạch lồng ghép thêm các chương trình liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, chẳng hạn sức khỏe, giáo dục, vui chơi giải trí... 57 Lập kế hoạch hành động cộng đồng (Community Action Planni... sự giúp đỡ. Sự tham gia của người dân được xem là tiên quyết cho những hoạt động được tiếp tục. Sự can dự của người dân và việc sử dụng nguồn lực địa phương tạo ra một ý thức sở hữu, điều này rất quan trọng cho sự bền vững ngay cả sau khi ngưng cấp kinh phí. 4.2. Yếu tố để thúc đẩy sự tha...iên quan là tất cả những người, tổ chức có lợi ích liên quan đến một dự án, một hoạt động cụ thể. Các bên liên quan còn bao gồm những nhà ra quyết định, cũng như những người bị ảnh hưởng bởi một quyết định. Như vậy, cộng đồng là một trong số các bên liên quan. Các bên liên quan sẽ khác nhau ...
phía: • Ở mức độ cá nhân như từ người dân và tác viên hoặc cán bộ dự án; • Mức độ cộng đồng do mối quan hệ cộng đồng, làng xã; và • Mức độ xã hội do chủ trương, chính sách, chế độ của nhà nước, ảnh hưởng của các tổ chức xã hội, văn hoá, tín ngưỡng v.v.. • Ngoài ra còn yếu tố tự nhiên, hoặc ảnh hưởng của các nước khác. 7. Câu hỏi và bài tập Câu 1. Nêu những thuận lợi thuộc yếu tố văn hoá, xã hội, con người Câu 2. Nêu những khó khăn thuộc yếu tố văn hóa, xã hội, con người Bài tập: Phân tích bài đọc “Bài học đầu tiên” của một tác viên dự án phát triển nông thôn tại xã Suối Trai, huyện Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên (xem phụ lục bài đọc thêm) 8. Hướng dẫn trả lời câu hỏi, bài tập của bài 8 Câu 1: Sinh viên tự tìm ra những thuận lợi thuộc yếu tố văn hoá, xã hội, con người (bao gồm người dân cộng đồng, tác viên và tổ chức tài trợ) 194 Câu 2: Nêu những khó khăn thuộc yếu tố văn hóa, xã hội, con người Bài tập: Phân tích bài đọc “Bài học đầu tiên” Dựa vào các yếu tố sau đây, nêu lên khó khăn, thuận lợi: Người dân; Tác viên; Dự án: chuyên gia, tính linh hoạt, đa dạng của dự án trong các hoạt động; Yếu tố tự nhiên: thiên tai; Yếu tố văn hoá -xã hội Rút ra bài học gì qua phân tích khó khăn, thuận lợi từ dự án này III. TÓM TẮT TOÀN BỘ MÔN HỌC Xuất phát từ 1940 và được Liên Hiệp Quốc công nhận năm 1950, Phát triển cộng đồng được xem như một phương pháp can thiệp để hỗ trợ những cộng đồng nghèo, kém phát triển sẽ tiến dần tới tự lực bằng cách huy động tiềm năng, tài nguyên của chính cộng đồng, với một phần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước hoặc từ các cơ quan phát triển. Sự tham gia của người dân trong cộng đồng là yếu tố then chốt quyết định sự phát triển của cộng đồng, là cốt lõi của phương thức phát triển cộng đồng. Phương pháp khảo sát nhanh có sự tham gia (PRA) được xem là một phương pháp có sự tham gia của người dân, ngày nay PRA được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực, trong nhiều hoạt động khác nhau, bao gồm hoạt động lượng giá dự án phát triển cộng đồng. Ngày nay các tổ chức phát triển thường hỗ trợ cộng đồng qua hình thức các dự án phát triển cộng đồng, trong đó tác viên cộng đồng sẽ là 195 người đóng vai trò xúc tác, hỗ trợ trong suốt tiến trình 9 bước tổ chức cộng đồng. Phát triển cộng đồng tuy đã xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 1950 nhưng đến nay vẫn còn nhiều khó khăn bên cạnh một số thuận lợi nhất định. Tóm lại, PTCĐ là một phương thức phù hợp với các nước đang phát triển trong tiến trình phát triển đất nước. Việt Nam đã có những hình thức mang tính chất PTCĐ và rất thành công như chương trình Xóa đói giảm nghèo, và việc thực hiện Quy chế Dân chủ cơ sở. IV. CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP 1) Vẽ hình và giải thích tiến trình PTCĐ 2) Vì sao phải tuân thủ các nguyên tắc hành động phát triển cộng đồng? 3) Theo anh, chị, những nguyên tắc nào quan trọng trong PTCĐ? Cho ví dụ minh hoạ. 4) Trình bày các bước trong tiến trình PTCĐ / tổ chức cộng đồng. Theo anh/chị, bước nào là quan trọng? Vì sao? 5) Tiềm năng của cộng đồng là gì? Làm thế nào để phát hiện/khơi dậy và phát huy tiềm năng đó? 6) Các vai trò và phẩm chất của tác viên cộng đồng 7) Vì sao sự tham gia của người dân là quan trọng nhất trong PTCĐ? Yếu tố thúc đẩy và cản trở sự tham gia? 8) Trình bày các kiểu tham gia (theo giáo trình) 196 9) Trình bày nấc thang tham gia của người dân trong PTCĐ. Cho ví dụ minh hoạ 10) Giải thích chu trình dự án. So sánh với các dự án thực tế mà các anh chị được biết hoặc đã từng tham gia. 11) Phân tích ích lợi của kiểm soát, giám sát, lượng giá dự án. 12) Phương pháp khảo sát nhanh có sự tham gia (PRA) có những nguyên tắc và đặc điểm gì? 13) PTCĐ hiện nay gặp phải những khó khăn gì? Có những thuận lợi nào? Bài tập: Đọc bài lượng giá dự án “Xoá mù và bảo vệ môi trường” trong sách Phát triển cộng đồng của Nguyễn Thị Oanh, rút ra điều gì về:i/ sự tham gia của người dân, ii/ cách tổ chức cộng đồng trong dự án này, iii/ kết quả dự án, iv/ tính bền vững của dự án, v/ về phương pháp lượng giá. V. PHẦN ĐÁP ÁN Câu 1. Vẽ hình tiến trình PTCĐ từ cộng đồng yếu kém đến cộng đồng tự lực, giải thích. Câu 2. - Nêu 10 nguyên tắc hành động phát triển cộng đồng 197 - Các nguyên tắc hành động trong PTCĐ là những điều tác viên phải tuân thủ trong khi thực hành công tác xã hội với cộng đồng - Tuân thủ những nguyên tắc này nhằm tôn trọng và phát huy tối đa sự tham gia của cộng đồng Câu 3. - Sinh viên tự chọn phân tích một số (3-4) nguyên tắc quan trọng. Nêu lý do vì sao quan trọng. - Tìm những ví dụ để minh hoạ cho những nguyên tắc vừa nêu.. Thí dụ: nguyên tắc “Bắt đầu từ hoạt động nhỏ.” được ứng dụng ở xã/phường A bằng cách chỉ tổ chức trước một vài nhóm tín dụng quy mô nhỏ ở trong một hoặc vài ấp/ khu phố, khi thành công sẽ nhân rộng ra toàn địa bàn phường/xã. Câu 4. - Nêu 9 bước trong tiến trình tổ chức cộng đồng - Tự chọn và phân tích bước nào là quan trọng nhất Câu 5. - Nêu khái niệm tiềm năng của cộng đồng - Nêu một số tiềm năng hữu hình/vật chất như đất đai, nguồn nước, lao động v.v. và tiềm năng vô hình: sự sáng tạo, lòng nhiệt tình, tinh thần đoàn kết, hợp tácTiềm năng quan trọng nhất là CON NGƯỜI. - Để phát huy được tiềm năng cộng đồng: + Phải nhìn thấy được tiềm năng. Điều này đòi hỏi trình độ, tổ chức quản lý, không nóng vội, đổ lỗi hoàn cảnh 198 + Giúp các tổ chức địa phương, các tổ chức của người dân liên kết + Thấy được các hạn chế, lực cản Câu 6. - Nêu và giải thích các vai trò của tác viên: người xúc tác, tạo thuận lợi, giáo dục, biện hộ, nghiên cứu, lập kế hoạch. - Nêu những phẩm chất cần có của tác viên. Câu 7. - Nêu khái niệm tham gia - So sánh tham gia là phương tiện và tham gia là mục đích. Mục đích cuối cùng của PTCĐ là đưa cộng đồng tiến tới tự lực. Do vậy, sự tham gia của cộng đồng là quan trọng nhất trong tiến trình PTCĐ - Yếu tố thúc đẩy và cản trở sự tham gia: + Nêu những lợi ích do sự tham gia mang lại + Nêu những yếu tố thúc đẩy, bao gồm Quy chế dân chủ cơ sở + Tham gia vẫn còn đang được tranh cãi + Những yếu tố cản ngại: cấu trúc/tổ chức quản lý nhà nước; văn hoá-xã hội; người dân; tác viên Câu 8. - Giải thích các kiểu tham gia: Tham gia thụ động, tham gia qua cung cấp thông tin; qua tư vấn, qua khích lệ vật chất, chức năng, tương tác, tự huy động 199 - Vẽ hình: phân bố theo tính chất các kiểu tham gia. Giải thích mức độ kiểm soát của bên ngoài và kiểm soát của người dân Câu 9. - Nêu khái niệm sự tham gia (dựa vào các định nghĩa trong bài) - Kẻ bảng các bậc thang tham gia. từ 0 đến 9. Giải thích mức độ tham gia tăng dần, cao nhất là người dân tự quyết định và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động Câu 10. - Vẽ hình chu trình dự án (5 giai đoạn) - Giải thích từng giai đoạn dự án: phân tích tình hình, lập kế hoạch, viết và đề xuất, thực hiện, lượng giá. Việc quản lý dự án thực sự ở giai đoạn thực hiện và lượng giá, 3 giai đoạn trước là giai đoạn chuẩn bị - Nêu một dự án mà các anh/chị được biết, khái quát lại chu trình của dự án này và so sánh với chu trình đã học trong giáo trình Câu 11. - Nêu khái niệm kiểm soát, giám sát, lượng giá - Phân tích ích lợi: kiểm soát nhằm giúp cá nhân thực hiện đúng theo yêu cầu công việc; giám sát giúp các hoạt động thực hiện so với thời gian kế hoạch, lượng giá giúp nhìn lại kết quả so với mục tiêu đề ra để quyết định cho việc tiếp tục, mở rộng hoặc nhân rộng dự án. Câu 12. - Nêu khái niệm PRA. (PRA là gì?) - Những nguyên tắc: Học hỏi từ người dân; Linh hoạt, sáng tạo, thích ứng trong khi nghiên cứu; Lắng nghe, không giảng dạy, 200 quan tâm người thiệt thòi bao gồm phụ nữ; Sử dụng tối ưu các kỹ thuật và công cụ; Kiểm tra chéo thông tin; Nỗ lực tập trung vào những biến đổi; “Trao quyền”; Tác viên cộng đồng luôn tự kiểm tra, tự chịu chịu trách nhiệm, ứng biến; Cùng chia sẻ - Những yêu cầu khi thực hiện PRA: PRA phải được xem như một quá trình học hỏi; tham gia của người dân và kỹ năng thúc đẩy của tác viên. - Những ưu điểm của PRA: Các kỹ thuật ứng dụng thích ứng cho nhiều tình huống; chính người dân là chuyên gia lượng giá; nổi bật những dữ kiện về chất cũng như về lượng; thay đổi thái độ và phương pháp luận; giải pháp phù hợp với khả năng và tài nguyên cộng đồng; sự tham gia của cả những người bị thiệt thòi Câu 13. - Phân tích khó khăn: mức độ cá nhân người dân và tác viên; mức độ cộng đồng; mức độ xã hội; từ phương thức PTCĐ; - Phân tích thuận lợi: Yếu tố cá nhân; xã hội; quản lý; phương thức thực hành; đào tạo; vai trò của các tổ chức xã hội **** 201 PHẦN PHỤ LỤC Bài đọc thêm BÀI HỌC ĐẦU TIÊN Tôi bắt tay vào dự án Phú Yên với một tâm trạng hoàn toàn không định hướng. Đây là một dự án phát triển nông thôn miền núi, trong khi tôi sinh ra, lớn lên và chỉ làm việc ở thành phố. Mặc dù có 6 năm làm công tác PTCĐ, nhưng ngay cả “bề dày kinh nghiệm” (nếu có thể gọi như thế) cũng chẳng giúp được gì, vì những cộng đồng tôi từng phục vụ đều là cộng đồng nghèo đô thị. Thế nhưng tôi cũng không thể chối từ nhiệm vụ, vì người nghèo nông thôn cũng cần được hỗ trợ chứ! Người đại diện của tổ chức tài trợ nói với tôi rằng “tôi sẽ giới thiệu cho bạn chuyên gia có kinh nghiệm”, và tôi đã bắt đầu dự án Phú Yên như thế. Hầu như mọi vấn đề chuyên môn, tôi đều trông cậy vào các chuyên gia về lĩnh vực nông thôn. Tuy nhiên, sự việc đã không suôn sẻ, vì các chuyên gia có ý kiến khác nhau trên cùng một vấn đề, ai cũng có lý đối với giải pháp mình đưa ra. Đôi khi tôi thật sự bối rối vì không ai giúp tôi đưa ra lời giải đáp. Có lần, một người bạn đồng nghiệp đã nói với tôi “Cứ làm đi, sự việc sẽ gợi cho bạn cách giải quyết tốt nhất”, và thế là tôi đã “truyền đạt tinh thần” ấy lại 202 với những nông dân vùng dự án rằng “Hãy nghe tất cả mọi lời khuyên, nhưng hãy chọn một giải pháp mà bạn cho là có lý nhất!” * * * Tôi đã khá lo lắng và hụt hẫng khi bắt đầu chương trình tín dụng. Đây là lĩnh vực tôi đã từng “trăm trận, trăm thắng” trong suốt 6 năm qua, vậy mà những nông dân đã từ chối ngay khi nghe tôi trình bày cách thức hỗ trợ họ thông qua tín dụng. Các khái niệm về nhóm tự quản, về tiết kiệm.hầu như đã trở nên quen thuộc với người nghèo đô thị, nhưng lại xa lạ và không nhận được sự hưởng ứng nào ở đây. Tôi đã trở về thành phố trong sự hoang mang thực sự. Tôi có làm gì sai không? Tôi tự “lượng giá” lại những việc đã làm, nhưng không tìm ra điều gì “trái quấy”. Trong nhịp lắc lư của con tàu về thành phố, lời khuyên bè bạn lại vang lên “cứ làm đi, sự việc sẽ gợi cho bạn cách giải quyết tốt nhất!” Trở lại điểm dự án trong lần kế tiếp, tôi hỏi những nông dân “Chúng ta có thể làm được gì để giúp nhau khỏi đói nghèo?” Và đoạn hội thoại thú vị bắt đầu: “Cho nó mượn một cặp bò cày” “Trước đây chương trình Xoá đói Giảm nghèo cũng cho mượn, nhưng nó có khá lên đâu?” 203 “Ngân hàng cho vay chứ không cho mượn. Mấy năm tiền lãi lên mấy trăm ngàn rồi. Bò vay một con cày không được. Bán bò, phải mua gạo ăn nữa nên tiền không đủ trả, mấy năm nay ngân hàng đòi mãi. Nó sợ vay nợ lắm rồi. Với lại nó không biết làm ăn” “Vậy thì, phải chỉ cho nó cách làm ăn nữa, đúng không? Ai có thể chỉ?” “Hãy hỏi những người làm ăn giỏi, những người cùng dòng họ có thể chỉ!” Chúng tôi, nhóm tác viên, đã mời họ ngồi lại với nhau và cùng bàn xem trong buôn làng có những người nào cần được giúp đỡ, và ai muốn giúp ai? Thế rồi, các nhóm đầu tiên ra đời. Mỗi nhóm có một người giúp và hai người được giúp. Sáu nông hộ đầu tiên đã nhận được sáu cặp bò cày. Họ đã cùng nhau đi lựa mua những con bò cái trẻ, khoẻ mạnh để có thể vừa kéo cày, vừa sinh sản. Dẫu chưa khá lên thì họ cũng đã có thể gieo trồng đúng thời vụ vì có bò cày. Họ không lo nợ nần vì các chú bê ra đời đang lớn. Sau đó là chương trình tín dụng được lồng ghép vào. Cho đến hết năm thứ nhất của dự án, có 40/60 hộ tham gia chương trình tín dụng với nhiều mức vay khác nhau: từ những hộ vay 50.000đ để mua một cặp gà mái về nuôi lấy trứng, đến hộ vay 3-4 triệu đồng để mua cặp bò cày. Tất cả đều không trả lãi suất. Rất nhiều lần tôi băn khoăn: không lãi suất, lấy gì để 204 trang trải các chi phí, dù rất khiêm tốn như giấy, bút..? Dự án rồi cũng sẽ kết thúc, sự hỗ trợ bên ngoài sẽ không còn nữa.. Tôi chia sẻ nỗi băn khoăn của mình với những thủ lĩnh của buôn làng. Họ nói “chúng tôi sẽ nghĩ cách, đừng lo!” * * * Mọi việc của dự án trôi chảy đến một ngày kia, một sự cố bất ngờ xảy đến: Ngày 28-4-1999, tai hoạ đến với buôn làng, một trận cuồng phong kèm theo sét đánh đã làm chết hai người và cháy rụi một ngôi nhà. Do tín ngưỡng đa thần linh, những người dân Êđê tin rằng Giàng không cho họ ở đất này nữa. Họ vội vã cúng tế thần linh, bán bò nghé, dỡ nhà cửa đi nơi khác. Khi tôi trở lại điểm dự án thì không còn ngôi nhà nào trên nền đất cũ. Ruộng rẫy hoang sơ vì không còn ai chăm sóc. Thành quả của dự án dường như cũng tự xoá sạch dấu vết. Tôi tìm đến nơi ở mới của dân làng, những căn nhà đang dựng lên vội, những gương mặt còn chưa hết nỗi kinh hoàng vì những gì đang xảy ra. Tôi mời họp khẩn cấp những thủ lĩnh của buôn làng, trong khi chính trong thâm tâm tôi cũng chưa biết nói gì với họ. Bàn bạc với họ những công việc của dự án lúc này xem ra vô nghĩa, còn giúp đỡ cấp thời thì ngân sách dự án không có khoản nào dành cho trợ cấp. 205 Bốn vị thủ lĩnh của buôn làng có mặt nhanh đến nỗi tôi không kịp suy nghĩ gì thêm . Trong tâm trạng cực kỳ bối rối, tôi buột miệng buông ra một câu hỏi ngớ ngẩn “Khó khăn lớn nhất của mọi người lúc này là gì?”. Thế rồi cuộc trò chuyện trao đổi bắt đầu: “Bà con đang đói kém và năm nay sẽ đói nặng vì lo dời nhà nên không trồng cấy được gì cả. Nhà nghèo thì không còn gì để bán để mua gạo, vì bò nghé đã bán để lấy tiền dời nhà”. “Vậy chúng ta có thể cùng làm gì để giúp buôn làng?” “Mua gạo về cứu đói cho bà con. Trồng cây gì ngắn ngày nhất để sớm có cái ăn. Mua bò về cho những hộ không bò nuôi rẽ (một hình thức nuôi gia công)” “Các hộ nghèo này đều có nợ ngân hàng nhiều năm không trả nổi. Nếu nó có bò, ngân hàng sẽ đến đòi, nó sẽ phải bán bò trả nợ ngân hàng . Nuôi rẽ, nó vẫn có bò cày, nhưng là bò dự án nên không ai đòi. Mai kia bò đẻ con, nó được chia, sẽ lấy con trả bớt ngân hàng” Mọi giải pháp được thực thi tức khắc, dẫu hoàn toàn không nằm trong kế hoạch dự án. Qua những này cứu đói khẩn cấp, những thủ lĩnh của buôn làng bổng nhận ra họ cũng có khả năng kinh doanh gạo. Họ quyết định sẽ duy trì hoạt động này lâu dài vào những tháng giáp hạt hàng năm để giảm bớt thua thiệt của nông dân do tư thương ép giá. Ngoài ra, còn thu được khoản lợi tức nho nhỏ cho cộng đồng. Những con bò nuôi rẽ lần lượt có bê con (số bê được chia đều cho chủ nuôi và chủ bò – tức là quỹ dự án), những nông hộ nghèo khó nhất đã hé mở khả năng trả nợ ngân hàng, còn 206 quỹ phát sinh lợi tức của cộng đồng hứa hẹn mỗi năm sẽ được bổ sung thêm 6 triệu đồng. Khoản quỹ này tuy nhỏ nhoi so với bất kỳ tổ chức xã hội nào nhưng cũng đủ để các lãnh đạo cộng đồng trang trải mọi chi phí cần thiết và đủ để nhóm lãnh dạo cộng đồng tin vào khả năng quản lý của họ. * * * Một số bạn đồng nghiệp nói tôi liều lĩnh khi nhảy vô lĩnh vực phát triển nông thôn. Một vài người khác nhận định rằng tôi ở lại được với dự án do lòng đam mê. Nhưng riêng tôi, tôi biết mình may mắn vì được trao tặng câu “thần chú” tuyệt vời: “Cứ làm đi, sự việc sẽ gợi cho bạn cách giải quyết tốt nhất!” (và dĩ nhiên phải có phương pháp khoa học, không thể làm bừa!) Xin tặng kinh nghiệm này lại cho tất cả những ai đang làm công tác PTCĐ trên khắp mọi miền đất nước như một lời nhắn gửi về lòng tin vô hạn vào những “thân chủ” của chúng ta, “người chủ của cộng đồng”, chìa khoá của mọi thành công và “lá bùa hộ mệnh” trong mọi trắc trở của công việc. Lê Thị Lệ Thủy 207 ----------- Bài đọc thêm “VI LÀ PHẢI HÀNH” TTCN - Ở một xã trong tỉnh Quảng Trị, một người dân cho biết: “Thảo luận về việc xây dựng trụ sở UBND xã, người dân đề nghị xây ở địa điểm cũ vì nó ở trung tâm và gần cả bốn thôn; nhưng cán bộ xã nói cấp trên chỉ đạo xây dựng trụ sở ở một địa điểm mới, nếu không sẽ không hỗ trợ. Cuối cùng trụ sở được xây dựng ở địa điểm mới như chỉ đạo của cấp trên. Từ hồi xây trụ sở, tôi chưa bao giờ đến đó vì tôi phải đi bộ ít nhất 3km”. Không thể cứ tiếp tục quan hệ “chỉ đạo/phải nghe” trong quan hệ với người dân, nhất là khi đấy là những dự án xóa nghèo cho người dân. Đây không phải là điều gì mới mẻ. Các chuyến “vi hành” cũng không thể “vi” mà không “hành”, nghĩa là phải thay đổi lề lối làm việc. Trước hết, làm sao cho các chuyến thanh tra của cấp trên thật sự là đi để nhìn và thấy, thấy và hiểu, hiểu và hành động. Song song, làm sao để người dân có tiếng nói đáng kể hơn, đúng như tinh thần của nghị định 29 về dân chủ cơ sở, để người dân có thể tham gia định đoạt những kế hoạch “đổi đời” cho mình, thay vì thụ động hoặc miễn cưỡng để mặc người khác quyết định thay cho mình. Trong bối cảnh đó, báo cáo dày 71 trang của ADB mang tên “Đánh giá nghèo với sự tham gia của cộng đồng” rất cần được đọc và đọc kỹ. Báo cáo này do “Nhóm hành động chống đói nghèo” do các chuyên gia 208 Ramesh Adhikari, Tom Greenwood, Julian Carey chủ trì cùng với các cộng sự người Việt thực hiện. Nhóm đã tiến hành khảo sát đánh giá công tác xóa đói giảm nghèo trên thực địa tại 12 tỉnh ở VN trong góc độ của nghị định 29 về dân chủ cơ sở và nghị định 79 tiếp đó. Từ đó, rút ra một số kết luận và khuyến cáo. Dưới đây là vài tóm lược cơ bản: Dân chủ cơ sở là gì? Các tác giả ghi nhận đã có những diễn biến tích cực, nhưng “không phải là phổ biến. Đánh giá chung là còn kém (tr.15)... Ở các xã nông thôn, phụ nữ và người nghèo ít tham gia ý kiến vì trình độ giáo dục thấp, tự ti về địa vị và không có thời gian tham gia” (tr.16). Các tác giả đã vạch ra một số tồn tại cơ bản sau: - Tiếp tục tồn tại cơ chế quản lý từ trên xuống. Mục đích của nghị định 29 là nuôi dưỡng tinh thần dân chủ ở cấp cơ sở, từ dưới lên, nhưng trật tự thứ bậc từ trên xuống vẫn tồn tại. Trong nhiều trường hợp, thẩm quyền ra quyết định chỉ hạn chế ở mức thi hành các chính sách của chính quyền trung ương. Các hoạt động của cấp xã đa số do cấp huyện đưa ra. Cấp xã ít có thẩm quyền trong phân bổ ngân sách và phụ thuộc vào cấp huyện về tài chính. Cán bộ xã đã quen với việc chỉ nghe theo các chỉ đạo và mục tiêu do cấp trên đề ra. Họ không nghe ý kiến của người dân mà 209 họ đại diện, cũng giống như cấp trên không nghe ý kiến của cán bộ xã. Ở một vài nơi lãnh đạo xã cho rằng với cơ chế thứ bậc thẩm quyền hiện nay, ý kiến của người dân về các hoạt động ở địa phương là không có ý nghĩa” (tr.16). - Năng lực hạn chế của cán bộ xã và thôn. “Nhiều cán bộ xã và thôn không hiểu đúng nguyên tắc cơ bản của khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Họ thường hiểu theo thứ bậc từ trên xuống như từ trước đến nay chứ không như là một sáng kiến nhằm thúc đẩy sự tương tác, trao đổi thông tin hai chiều giữa chính quyền và người dân” (tr.16). “Các yếu tố như kiến thức hạn chế và thiếu đào tạo, thù lao thấp, quá tải công việc thường là nguyên nhân làm cán bộ cơ sở không cung cấp thông tin và tham khảo ý kiến của người dân. Nhiều cán bộ xã cho rằng việc lập kế hoạch của xã và của thôn, chỉ cần lấy ý kiến của dân khi cần nhân dân đóng góp nhân công hay tiền”. - Năng lực thực hiện các quyền của người dân. “Đánh giá này cho thấy đa số người dân hiểu rất mơ hồ khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”..., thường giải thích sai và cho rằng có nghĩa là biết, thảo luận và thực hiện các chính sách hoặc dự án từ trên đưa xuống. Người dân thường thiếu tự tin và quen với việc cán bộ quyết định mọi công việc cho họ” (tr.18). Tuổi trẻ CN-Thứ Bảy, 24/09/2005 - DANH ĐỨC 210
File đính kèm:
- tai_lieu_huong_dan_hoc_tap_cong_tac_xa_hoi_nhap_mon_le_chi_a.pdf