Tài liệu Nguy cơ tự kỷ - Nguyễn văn thành

Tóm tắt Tài liệu Nguy cơ tự kỷ - Nguyễn văn thành: ... và lấy ra quả banh ». Địa hạt : Khả năng ngôn ngữ. Chấm điểm : - (+) Trẻ em lấy ra đúng 4 vật, - (+/-) Chỉ lấy ra đúng 1 vật, - (-) Không lấy ra đúng vật nào. TM số 89 : Lắp ráp một hình người Dụng cụ : - Một tấm khung, - 8 phần thân thể của một bé trai. Cách làm : - Đặt tấm khung và 8 p...ai và ngôi ba, - (+/-) Đôi khi lẫn lận tôi, mày, nó, nhưng biết sửa lại, khi có người hỏi. - (-) Thường xuyên dùng mày hay nó, để nói về mình. *TM số 169: Ngôn ngữ có ý nghĩa (Nn) Chấm điểm: - (+) Phân biệt rõ ràng các từ, - (+/-) Phát âm khó hiểu, lẫn lộn từ nầy với từ khác, - (-) Ngôn ng... 31 7) Biết thế nào là Nhiều, Ít 134 32-35 33 8) Biết mình trai hay gái 70 32-38 35 9) Lặp lại câu ngắn 125 33-38 35 10) Lặp lại dãy 2- 3 số 101 34-38 36 Thứ tự sốTM Tuổi phát triển Tuổi trung bình 11) Biết dùng từ Lớn và Nhỏ 27 40-45 42 tháng 12) Gọi tên các hình ảnh 122 40-45...

pdf330 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 319 | Lượt tải: 1download
Nội dung tài liệu Tài liệu Nguy cơ tự kỷ - Nguyễn văn thành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ận xét ấy, bà mẹ chỉ
là một biến số trong một phương trình mà thai nhi
cần giải quyết. Ngoài ra, hoàn toàn khác với thai
nhi “thông thường, thuộc số đông”, thai nhi có
mầm mống tự kỷ không có những xúc động lo âu
và khắc khoải về sức khoẻ và vận mệnh của bà mẹ.
Sau khi ra khỏi tử cung của bà mẹ, hài nhi
cũng chỉ lặp lại một thói tục đã được thai nhi học đi
học lại, trong suốt thời gian chín tháng mười ngày.
2) Triệu chúng thứ hai là những điệu bộ và
cử động đu đưa qua lại, từ trước ra sau, từ bên
phía nầy qua phía bên kia, hay là cúi xuống và
ngẩng lên, một cách liên tục và đều đặn.
Phải chăng khi làm những điều ấy, hài nhi
đang tạo lại cho mình những cảm nghiệm thanh
nhàn, vui sướng đã xảy ra cho thai nhi, trong suốt
chu kỳ hưng phấn và sảng khoái.
3) Triệu chứng thứ ba là cắn mạnh vào lưng
bàn tay và gây ra những thương tích.
Trong những lúc bị ngột ngạt và ngưng thở,
thai nhi đã có thói quen dùng hai bàn tay làm
những cử động múa máy, vẫy qua vẫy lại, hay là
cho vào miệng bú mút Càng bú và mút mạnh,
thai nhi càng có thêm liều lượng Adrenaline. Lúc
bấy giờ, thai nhi chưa có răng. Những cử động ấy
không làm thiệt hại bao nhiêu, ngoài những cái lợi
thực tiển, có khả năng làm giảm hạ những xúc
động căng thẳng. Trái lại, khi hài nhi đã có một vài
cái răng, những cử chỉ và bộ điệu bú mút với vận
tốc nhanh và mạnh có thể tạo nên những vết
thương lở lói và bị nhiễm trùng.
4) Triệu chứng thứ bốn là bám chặt vào
những thói quen, những nghi thức, những chương
trình. Hệ quả là trẻ em có nguy cơ tự kỷ, dễ bùng
nổ, tức giận, khóc la om sòm khi có những thay
đổi nhỏ nhặt xảy ra trong cuộc sống thường ngày.
Để hiểu rõ nguồn gốc của triệu chúng nầy,
chúng ta hãy đi theo trẻ em, trở lui với cuộc sống
trong bào thai, vào những ngày đầu tiên, khi cơ
quan trí nhớ ngắn hạn không còn bị phong tỏa và
vô hiệu hóa. Sở dĩ như vậy, vì Hệ Miễn Nhiễm của
bà mẹ cần phải được tái lập, với bất cứ giá nào, do
yêu cầu của tình trạng sức khoẻ của cả hai mẹ con.
Sau khi trí nhớ trở lại tình trạng bình thường,
thai nhi có mầm mống tự kỷ có thể nhớ tất cả
những gì xảy ra, trong cuộc sống hằng ngày của
hai mẹ con. Thai nhi có thể tiên liệu, tiên phòng tất
cả. Không có gì có thể xảy ra, ngoài thứ tự và
chương trình mà thai nhi có thể dự liệu. Chính khả
năng ấy tạo ra cho thai nhi một cảm nghiệm “an
toàn tuyệt đối, bất khả xâm phạm”. Trẻ em có
nguy cơ tự kỷ, khi thoát ra khỏi lòng mẹ, vẫn mang
theo những nhu cầu an toàn, ấy được ghi khắc vào
sâu trong các tế bào của Não Bộ Hệ Viền.
5) Triệu chứng thứ năm có những liên hệ mật
thiết với Khứu và Thính giác. Thứ nhất trẻ em có
nguy cơ tự kỷ, thường có xu thế “NGỬI, HÍT”, để tìm
lại những dấu vết quen thuộc của mình hay là để
kiểm chứng tính chất bất biến và thương hằng
thường trụ của người và vật dụng được yêu
chuộng. Phải chăng đó là vết tích trong cách làm
của thai nhi : dựa vào mùi nồng cay và khó chịu ,
để tiên liệu sự cố ngột thở và ngưng thở và tìm
cách đối phó.
Ngoài ra, trẻ em tự kỷ cũng thường có thói
quen bịt tai lại, khi nghe những âm thanh thuộc
tấn số trầm và thấp, vì đây là những tần số không
được ghi nhận trong não bộ đặc trách về thính giác
của thai nhi trong tử cung. Vì mới lạ, những tần số
nầy bị trẻ em từ chối và loại thải, bằng cách bịt tai
lại.
Phần thứ Tư : Phương thức Chuyển Hóa
Nhằm kết thúc Chương thứ Sáu nầy, tôi cố
gắng nối dài lối nhìn của tác giả Douglas M. ARONE,
bằng cách sơ phác một vài phương hướng chuyển
hóa, nhằm giúp trẻ em có nguy cơ tự kỷ vượt qua
những khó khăn của mình, trước khi đi vào giai
đoạn 7 tuổi.
Suốt thời gian 9 tháng của thai nhi, trong tử
cung của bà mẹ, nguy cơ tự kỷ đã được ghi nhận và
khắc sâu vào các tế bào thần kinh, thuộc não bộ
hệ viền, như những chương trình, trong máy vi tính.
Trong lứa tuổi từ 0 dến 7 năm, khi mọi tế bào
thuộc hệ thần kinh trung ương còn ở trong tình
trạng uyển chuyển, dễ uốn nắn, một số lớn tế bào
bị loại thải, vì không còn thích ứng với cuộc sống và
nhu cầu hiện tại, do môi trường đòi hỏi. Một số
khác, vì thực tế của môi trường, cần đổi mới hay là
điều chỉnh lại những chương trình của mình. Một số
sau cùng được củng cố và tăng cường, để thực hiện
chức năng của mình, một cách hữu hiệu hơn.
Một cách đặc biệt, những tế bào thần kinh có
chương trình tự kỷ đã được ghi khắc, trong thời
gian thai nhi ở trong tử cung, bây giờ cũng phải
được tái điều hướng và điều hợp, trong 3 chiều
hướng vừa được trình bày. Nếu biết can thiệp một
cách hữu hiệu, đúng lúc và đúng với nhu cầu cơ
bản của trẻ em, môi trường có thể sáng tạo điều
kiện thuận lợi, nhằm giúp trẻ em vượt qua hay là
chuyển hóa những nguy cơ tự kỷ của mình.
Chúng ta có 3 cách làm:
Thứ nhất, chúng ta KHÔNG củng cố và tăng
cường những chương trình lo sợ và bất ổn, thuộc
chu kỳ phát triển thứ nhất của thai nhi. Tự khắc,
một số tế bào sẽ dần dần bị loại thải. Chúng ta
không cũng cố, bằng cách loại trừ trong quan hệ
giữa chúng ta và trẻ em những lời nói và thái độ tố
cáo, kết án, trừng phạt, đánh đập, bôi nhọ, đàn
áp...
Thứ hai, chúng ta cũng cố và tăng cường tối
đa những yếu tố tích cực và năng động, có mặt
trong chu kỳ hứng khởi và vui sướng của thai nhi.
Nói cách khác, chúng ta có mặt với trẻ em, tạo an
toàn cho trẻ em, biết khen thưởng trẻ em, phản
ảnh, gọi ra ngoài những xúc động vừa hiện hình
trong nội tâm của trẻ em. Ngoài ra, với những sinh
hoạt Tâm Vận Động bình thường, chúng ta cho
phép trẻ em thực thi những động tác nhảy vọt,
quay tròn, leo lên, tuột xuống. Những trò chơi như
chiếc đu, chiếc võng, con ngựa gỗ để cưỡi và nhún
lui nhún tới cần được trang bị đầy đủ, bằng số
lượng cho mỗi lớp học. Những điệu vũ, điệu múa
cũng cần được phát huy cho từng nhóm nhỏ. Nói
tóm lại, chúng ta thỏa mãn những nhu cầu vận
động của trẻ em. Cho phép trẻ em trở lui với chu kỳ
hưng phấn và sảng khoái của thai nhi.
Sau cùng, chúng ta chuyển hóa những gì là tự
động và máy móc, trong mỗi hành vi của trẻ em,
bằng cách trở thành một đối tượng vui thích cho trẻ
em, có mặt với trẻ em, phản ảnh trẻ em, lặp lại
cách phát âm của trẻ em.
Nói tóm lại, chúng ta sáng tạo cho trẻ em, vì
trẻ em và với trẻ em. Lời nói của Simone Weil đáng
được chúng ta chọn làm của mình : « Không phải
con đường chúng ta đi đầy tràn khó khăn. Nhưng
chính khó khăn phải trở thành con đường đi của
chúng ta ». Nói cách khác, chúng ta biến khó khăn
thành một tiếng nói thân thương gọi mời chúng ta
vươn lên, mở rộng chân trời cho chính mình và cho
trẻ em đang có nguy cơ tự kỷ.
Sách Tham Khảo :
1-Arone, Douglas M. - The Theorem -
O Books 2005, Winchester UK
2-Sách của Schopler, Eric
- Profil Psycho-éducatif (PEP-R) -
De Boeck et Larcier 1994, Bruxelles Belgique
- Stratégies éducatives de l’autisme - Masson,
Paris 2002
- Activités d’enseignement pour enfants autistes -
Masson, Paris 2001
- L’autisme - P.U. F. Paris 1991
3-Sách của Jonhson, Spencer
- Yes or No, the guide to better decisions
HarperCollins, New York 1993
- The one minute teacher - HarperCollins, London
2005
4-Sách về Hội Chứng Tự kỷ:
- Amy, Marie-Dominique - Comment aider l’enfant
autiste - Dunod, Paris 2004
- Aussilloux, Charles - Comment vivre avec une
personne autiste - Ed. Josette Lyon, Paris 2005
- Barthelemy, Catherine - L’autisme de l’enfant –
La thérapie d’échange et de développement -
Expansion S.F. Paris 1995
- Golse, Bernard - Autisme, état des lieux et
horizons - Érès, Paris 2005
- Fatherty, Catherine - Asperger, qu’est-ce c’est
pour moi - AFD 2005
- Jordan, Rita - Les enfants autistes - Masson,
Paris 1997
- Lenoir, Pascal - L’autisme et les troubles du
développement psychologique - Masson, Paris
2003
- Nguyễn văn Thành – Trẻ em Tự kỷ - Nhà Xuất Bản
Tôn Giáo 2006
- Tardif, Carole - L’autisme - Armand Colin,
Barcelone 2005
5-Sách về Tâm Vận Động :
- Aucouturier, Bernard - La méthode Aucouturier -
De Boeck, Bruxelles 2005
- Defontaine, Joel - La Psychomotricité en bandes
dessinées - Maloine, Paris 1979
- DE Lièvre, Bruno - La psychomotricité au service
de l’enfant - De Boeck, Bruxelles 1993
- Gassier, Jacqueline - A guide to the Psycho-Motor
Development of the Child C.Livingstone, New
York 1984
- Herren, H - La stimulation psychomotrice du
nourrisson - Masson, Paris 1980
- Juhel, Jean-Charles - Favoriser le développement
de l’enfant, Psychomotricité et Action éducative
- De Meur, A - Psychomotricité, éducation et
rééducation - De Boeck, Bruxelles 1991
6-Sách về sư phạm và giáo dục :
- Bonnet, Yannik - Les neuf fondamentaux de
l’éducation - Presses de La Renaissance, Paris
2002
- Biddulph, Steve - The secret of happy children -
Thorsons, London 1984
- Bidduloh, Steveve - More secrets of happy
children - Marlowe, New York 2003
- Froehlich, Andreas - La stimulation basale - I.L.
Suisse 1987
- Mainardi, Michèle - Relation éducative et handicap
mental - E d . Secrétariat Suisse de Pédagogie
Curative, Lucerne 1984
Cùng một tác giả
Trong Tủ Sách Tình Người,
Lausanne Thụy Sĩ :
1. Đường vào Nội Tâm với Phân Tâm Học, 1997
2. Phát huy Nhân Lực, 1998
3. Đối Thoại : Quê Hương Tình Người, 1999
4. Lắng Nghe, 1999
5. Quan hệ Mẹ-Con, 2000
6. Tự Tin, 2000
7. Khung Trời Mở Rộng, 2000
8. Nguyễn Trãi và vấn đề giáo dục con cái, 2001
9. Bản đồ Tâm Lý và Tư Duy sáu màu, 2002
10. Tư Duy và Hành Động, 2002
11. Đồng Cảm để Đồng Hành, 2003
12. Sơn Tinh và Thủy Tinh : Hai con đường một
Nước Non, 2003
13. Le projet pédago-éducatif, 1997
Trong Định Hướng Tùng Thư,
Strasbourg Pháp :
14. Đối Thoại với các Tôn Giáo, 1998
15. Nguyễn Trãi : Một Tấm Lòng, 2001.
Tất cả mọi tác phẩm trên đây đều được nộp lưu
chiếu tại hai thư viện Thụy Sĩ :
o Bibliothèque Nationale Suisse, Hallwyuistrasse
15, 3003 Berne.
o Bibliothèque Cantonale et Universitaire -
Lausanne, Place de la Riponne 6, 1000
Lausanne 17.
Lời Nói Cuối :
YÊU THƯƠNG là một Động Từ
« Bất kỳ một câu hỏi nào được nêu lên,
Thương yêu là câu trả lời, « Bất kỳ một vấn đề gì
xuất hiện, Thương yêu là câu trả lời, « Bất kỳ một
cơn bệnh nào đang đe dọa và hoành hành,
Thương yêu là câu trả lời, « Bất kỳ một nỗi đớn đau
nào đang tiến lại, Thương yêu là câu trả lời, « Bất
kỳ một xúc động sợ hãi nào đang trào dâng,
Thương yêu là câu trả lời, « Thương yêu luôn luôn
là câu trả lời, trong mọi tình hưống, vì chỉ có
Thương yêu là Tất Cả ».
Tôi xin mượn câu nói của tác giả G. G.
JAMPOLSKY để kết thúc cuốn sách bàn về « Nguy
Cơ Tự kỷ ». Và câu nói ấy cũng có thể tóm gọn một
cách khéo léo, tất cả mọi dự án can thiệp và dạy
dỗ, mà tôi đã trình bày, từ trang đầu tiên đến đọan
cuối cùng.
Thế nhưng, Thương yêu có nghĩa là gì, trong
toàn bộ tác phẩm nầy ?
Chắc hẳn, đó không phải là một ý niệm thuần
đơn, hoàn toàn lý thuyết và trừu tượng. Đó cũng
không phải là một câu nói ở đầu môi chót lưỡi mà
thôi. Phải chăng đó chỉ là một « ý đồ », mà tôi
muốn áp đặt cho kẻ khác, khi chính con người đích
thực của tôi đang tràn đầy chất liệu bạo động và
kết án, tố cáo và ức chế ?
Để cảm nghiệm trong từng tế bào và thớ thịt,
thế nào là Thương yêu, chúng ta hãy ngày ngày
trở lại với cách làm của Tổ Tiên và Cha Ông :
Thương yêu là Trời có khả năng mang ánh sáng và
hơi ấm cho con cái. Thương yêu cũng là Đất, có khả
năng ấp ủ và vun trồng tình người và tính người
đang có mặt trong cõi lòng của trẻ em, mà chúng
ta giáo dục và dạy dỗ. Chúng ta hãy làm Trời, để
cho trẻ em sống lại chu kỳ hạnh phúc của mình,
trong cuộc sống của bào thai. Chúng ta hãy làm
Đất, để tạo an toàn tối đa cho trẻ em, khi chu kỳ
Lo Sợ đang nổi sóng gió, bão bùng và tràn ngập
nội tâm của trẻ em. Thương yêu đích thực và trọn
vẹn là một Động Từ, chứ không phải là một ý niệm
thuần đơn, một nhãn hiệu khô cằn. Động từ trong
Anh ngữ, Pháp ngữ, cũng như trong nhiều ngôn
ngữ khác, thay hình đổi dạng, tùy vào vị trí và thời
gian, cũng như tùy vào cảm tình và ý định của mỗi
chủ thể. Thương yêu của chúng ta cũng có khả
năng chuyển hóa giống như vậy, nếu Thương yêu
có mặt trong mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi của
chúng ta với trẻ em. Cho dù trẻ em có nguy cơ tự
kỷ, đến cấp độ nào chăng nữa, nếu nhận đủ liều
luợng và chất lượng Thương yêu của chúng ta, trẻ
em sẽ chuyển hóa, trong chiều hướng thành người.
Chất lượng Thương yêu có mã lực chuyển hóa,
nếu Thương yêu ấy không kết án, trừng phạt, đe
dọa, cưỡng chế và loại trừ. Về mặt tích cực, Thương
yêu trước hết là XIN chứ không phải là đòi hỏi, đặt
điều kiện. Thứ hai Thương yêu là CHO, một cách
hồn nhiên và hạnh phúc, những gì đang có mặt
trong điều kiện thực tế và thực tại của chúng ta.
Thứ ba, Thương yêu là NHẬN những gì trẻ em đang
cho, thuộc cây nhà lá vườn của mình. Thậm chí
trong tình huống hiện tại, những quà tặng mà trẻ
em mang đến cho chúng ta, đang chỉ là những bức
họa nguệch ngoạc, những bộ mặt méo xèo hay là
những triệu chứng đáng lo ngại. Trong lòng biển
mặn bao la của Thương yêu, mọi phế liệu sẽ dần
dần được chuyển hóa, bằng cách này hay cách
khác. Ngoài ra, quà tặng mà trẻ em mang đến,
cũng có thể là những xúc động lo sợ, buồn phiền,
tức giận, trầm cảm. Tuy nhiên, đằng sau những xúc
động tê liệt và tiêu cực ấy, đang thấp thoáng
những lời xin, những thú nhận : « Mẹ ơi, Ba ơi, con
đang cần nhưng con không biết con đang cần gì,
con không biết gọi tên làm sao. Cách con nói là
những tiếng thét la, những điệu bộ, những cử chỉ
lắc qua lắc lại ».
Sau cùng Thương yêu cũng có nghĩa là Từ
Chối, nói Không, khi trẻ em có những hành vi bạo
động, đập đánh, hủy hại, hoặc trên chính bản thân
mình, hoặc trên một em bé khác. Theo lối nói của
Steve BIDDULPH, Thương yêu vừa Cương, vừa Nhu.
Vừa biết cho. Nhưng đồng thời, Thương yêu cũng là
qui luật, giới hạn hay là cấu trúc, như lối nói thời
trang thường được sử dụng, trong lãnh vực giáo
dục và sư phạm đương đại.
Trong tinh thần và ý hướng ấy, nhằm kết thúc
cuốn sách này, sau khi đã khẳng định lối nhìn của
mình, tôi xin nghiêm cung và cẩn trọng lắng nghe
lời dạy bảo của Tổ Tiên và Cha Ông, trong truyền
thống Lạc Hồng : « Con hãy lấy Hạnh của Đất mà
sống :
Đất bị người người khạc nhổ, nhưng vẫn kết
sinh hoa lợi cho người người ấm no.
« Con hãy lấy Hạnh của Nước mà sống :
Nước chấp nhận mang vào mình vết nhơ của
bao nhiêu bàn tay, để đem về tẩy luyện trong lòng
Biển Mặn.
« Con hãy lấy Hạnh của Khí mà sống :
Khí đi vào bên trong lòng mỗi người, để mang
dưỡng sinh cho từng tế bào, từng hạt máu, không
quên sót một ai.
« Con hãy lấy Hạnh của Trời mà sống :
Trời ở trên cao thật cao. Nhưng đồng thời, Trời
ở dưới thấp thật thấp. Không có Trời, con không có
chi hết. Nhưng chính Trời cũng không có chi hết.
Trời trống không, để gọi mời con trở thành Diệu
Hữu.
« Con hãy lấy Hạnh của Lữa mà sống :
Ai ấm áp cho bằng Lữa ? Nhưng ai khinh
thường Lữa, tự khắc người ấy rước họa vào mình.
Lữa không phải là Trời. Nhưng Lữa thay thế Trời,
khi con ở trong đêm tối và trải qua những ngày
đông lạnh lẽo.
« Con hãy lấy Hạnh của Đêm mà sống :
Nhờ đêm, một ngày mới bắt đầu trở lại, sau
khi nhọc lụy được giấc mơ ủi an, ấp ủ và chuyển
hóa. Nhờ Đêm, mắt con mới thấy được rằng : Tên
con đã được viết sẵn bằng ánh sao lấp lánh, giữa
Đại Duơng Ngân Hà của Vũ Trụ.
« Con hãy lấy Hạnh của Mẹ mà sống :
Mẹ là người để cho con học thương và học
ghét. Thương mà không bị mất mát và bó buộc.
Ghét mà không sợ bị loại thải và bỏ rơi. Thương
Mẹ, không phải vì Mẹ vô tì tích. Ghét Mẹ, không
phải vì Mẹ là tinh yêu ma quái. Trong người Mẹ dễ
thương, còn nhiều chỗ, để cho con học ghét. Trong
người Mẹ dễ ghét, còn vô số điểm, để cho con học
thương. Nhờ biết thương và biết ghét, con mới học
được bài học làm người ».
Lausanne, Mùa Xuân, tháng hai 2006
Nguyễn Văn Thành
DỤNG CỤ ĐƯỢC SỬ DỤNG
TRONG BẢNG LƯỢNG GIÁ
STT
Tên dụng
cụ
I-Dụng
cụ mua
Tiết mục sử
dụng số
Tìm
mua tại
1. Chai nước xàphòng thổi bóng 1 - 2 -3 - 4
Cửa hàng
đồ chơi
2. Khối logic hìnhvuông, tròn, tam
giác
5 -
19
20 -
21 - 22
Cửa hàng đồ
dùng dạy học
(ĐDDH)
3. Ống nhìn vạn hoa,vạn sắc 6 -7
Cửa hàng đồ
chơi
4. Chuông 8 Cửa hàng đồ chơi
5. Đất sét côngnghiệp 9 - 11 -12
Cửa hàng
ĐDDH
6. Que tính bằng gỗ haynhựa 10
Cửa hàng
ĐDDH
7. Rối “găng tay“mèo hay chó
13 -
14 - 16
18
Cửa hàng
đồ chơi
8. Muỗng, cốc nước, bànchải răng, khăn giấy 15
Cửa
hàng tạp
hóa
9. Bảng lắp ráp khung lõm 4hình : gà, dù, bướm, trái lê 23
- 24
Cửa
hàng đồ
chơi
STT
Tên dụng
cụ
I-Dụng
cụ mua
Tiết mục sử
dụng số
Tìm
mua tại
10. Hình lắp ráp conmèo 4 mảnh 29- 30
Cửa hàng
đồ chơi
11. Hình lắp ráp con bò6 mảnh 31
Cửa hàng
đồ chơi
12.
5 hình khối và 5 dĩa
nhựa có màu khác nhau:
đỏ -xanh da trời - xanh lá
vàng - trắng
32
- 33 -
34
Cửa
hàng
ĐDDH.
Cửa hàng
tạp hóa
13. “Phách”gõ nhịp
35
- 36
Cửa hàng ĐDDH Cửa
hàng dụng cụ âm nhạc
14.
Quả
banh nhựa
d =
25cm
43 - 44 - 45
46 - 47 - 48
Cửa hàng
đồ chơi
15. Cầu thangkhông tay vịn 49
Tìm bậc thang
bất cứ nơi nào
16. Ghế dựa có chiềucao phù hợp 50
Cửa hàng
đồ nhựa
17. Chiếc khăn lớn chơitrốn tìm 52
Cửa hàng
tạp hóa
18.
Ly nhựa đục, hay chiếc
khăn dầy. Một đồ chơi cất
dấu
53
- 60
Cửa
hàng
tạp hóa
STT
Tên dụng
cụ
I-Dụng
cụ mua
Tiết mục sử
dụng số
Tìm
mua tại
19. Tấm gươngsoi 54
Cửa hàng tạp
hóa
20. Còi 57 - 58 Cửa hàng đồ chơi
21. Kẹo để trong hộpnhựa trong suốt 61
Cửa
hàng tạp
hóa
22. Dây dù 62 Cửa hàng tạp hóa
23.
Xâu hạt cườm có trụ
xỏ hay que gỗ. Giấy vẽ.
Bút chì màu
63 - 64
- 65 66 -
67 - 68
Cửa
hàng
ĐDDH
24.
Giấy và bút nỉ màu
Vẽ sẵn hình con Thỏ –
4 hình cơ bản: tròn,
vuông, tam giác, chữ
nhật
71 - 72 -
73 74 - 75 -
76 77 - 78 -
79 84 - 85
Cửa
hàng
ĐDDH
25. Dùng 9 chữ cái –
Chữ hoa H I V D U E
Y S
80 -
81 - 82
83
Cửa hàng
đồ chơi Bitis
Cửa hàng
đồ chơi bằng
gỗ
26. Giấy và kéocắt 86
Cửa hàng tạp
hóa
STT
Tên dụng
cụ
I-Dụng
cụ mua
Tiết mục sử
dụng số
Tìm
mua tại
27.
Một bao vải khá rộng + 5
vật dụng: bút chì, khối vuông,
quả banh nhỏ, bút nỉ có nắp
đậy, tách 87- 88
Cửa
hàng
ĐDDH
Cửa
hàng
đồ
chơi
28.
Tấm khung
8 phần thân thể của bé
trai: tóc thân, đầu, mình, tay 89
Cửa
hàng
ĐDDH
29.
12 khối vuông
nhỏ bằng gỗ hay
nhựa
93 - 94 -
95 96 - 97
Cửa
hàng
ĐDDH
30.
8 khối vuông cùng màu –
6 con cờ màu đen – 2 hộp
nhựa trong suốt
98
- 99
134
Cửa
hàng
ĐDDH
31.
Một chiếc kẹo
3 tấm khăn dầy hay 3
chiếc ly nhựa màu xám đục
108
- 109
Cửa
hàng
ĐDDH
32. Còi, banh, trống, chìakhóa, cái lược 110
Cửa
hàng đồ
chơi
33. Một chuôngnhỏ
111 -
112
Cửa hàng đồ
chơi
STT
Tên dụng
cụ
I-Dụng
cụ mua
Tiết mục sử
dụng số
Tìm
mua tại
34. Phách gõ nhịp,chuông, muỗng 113
Cửa hàng
dụng cụ âm
nhạc
35.
Cuốn tập hay
cuốn sách có hình
ảnh
120 -
121 122 -
133
Cửa
hàng
sách
36.
Một trái banh, 1 ly nhựa,
chó múa rối, hộp lớn đựng
ly
128
- 135
Cửa
hàng đồ
chơi
37.
Thức uống, 2 ly , bánh
ngọt, một cái lượt, bọt xà
phòng
132
Cửa
hàng
tạp
hoá
38. Chiếc khay hayhộp lớn 141
Cửa hàng
tạp hoá
STT
Tên dụng cụ
II-Dụng cụ
sáng tạo
Tiết mục sử
dụng số
Cách
làm
1. 10 tấm giấy ghi từ sô 1đến số 10 105
Sáng
tạo
2.
10 hình ảnh của 5 vật: còi
– banh trống – chìa khóa –
lược
110
Chụp
ảnh vật
dụng
3.
12 tấm hình với 4 hình thể
khác nhau: vuông - tròn tam
giác - thoi
Các tấm hình có 3 màu sắc
khác nhau: xanh lục đỏ vàng
114
Chụp
ảnh các
khối đủ
màu
4.
7 hình ảnh của 7 vật
dụng: chiếc giày, ly nhựa,
bàn chảy răng, bút chì, kéo
lược
115
- 116
117 -
118
Chụp
ảnh 7
vật
dụng
5. Sáng tạo 4 từ trên giấy:BÁNH – MỘT BA – ÁO 136
Tự
thực
hiện
6.
Sáng tạo
những câu ngắn:
Tuyết có áo
đẹp
Tuyết đã chơi
banh
Mai ở nhà với
cha mẹ và đứa
em
Mai nhặt trái
banh và bỏ vào
hộp
137 -
138 139 -
140
Tự thực hiện
viết câu trên
giấy
STT
Tên dụng cụ
III-Dụng cụ
đặt làm
Tiết mục sử
dụng số
Cách
làm
1.
Mảnh gỗ lắp ráp hình 3
bao tay
Trên đó có 3 kích cỡ hình
chữ nhật : lớn nhỏ- trung
bình
25
- 26
27
- 28
Đặt
cửa hàng
đồ gỗ
2.
Ghế trệt có 4 bánh xe di
chuyển (ngồi và di chuyển
bằng chân)
51
Đặt
làm nơi
thợ
mộc

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_nguy_co_tu_ky_nguyen_van_thanh.pdf