Tài liệu Tâm lý học căn bản - Hồ Kim Chung

Tóm tắt Tài liệu Tâm lý học căn bản - Hồ Kim Chung: ... chủ đích của sự trừng phạt là sự giảm bớt xác suất tái diễn một hành vi nào đó. Ngược lại, tác nhân khích lệ tiêu cực liên hệ đến sự tiêu trừ một kích thích gây khó chịu hoặc đau đớn nhằm làm tăng thêm xác suất tái diễn một hành vi để chấm dứt kích thích gây khó chịu ấy. Nếu chúng ta bị điện ... động cơ chỉ riêng con người mới có - như nhu cầu thành đạt, nhu cầu kết đoàn, và nhu cầu quyền lực chẳng hạn. Sau đó, chúng ta tiến đến tìm hiểu bản chất của kinh nghiệm xúc cảm ở cả hai bình diện sinh lý và tâm trí. Chúng ta tìm hiểu vai trò và chức năng của xúc cảm trong cuộc sống thường ngà...không cần phải trích ra toàn bộ số máu đang tuần hoàn trong cơ thể bệnh nhân để xét nghiệm mới chẩn đoán được bệnh tình, các nhà tâm lý có thể vận dụng biện pháp tự báo cáo (self-report measures) để phỏng vấn bằng cách yêu cầu trả lời một mẫu gồm tương đối ít hành vi của người được trắc nghiệm...

pdf2123 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 261 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tài liệu Tâm lý học căn bản - Hồ Kim Chung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Theo biện pháp này, bọn khủng bố bị
các cơ quan chính phủ xem thường, nhờ đó giảm bớt
tiền lệ và sau cùng giảm được tệ nạn khủng bố trong
tương lai. Dĩ nhiên, nhược điểm của biện pháp này là
con tin ít hy vọng sống sốt và không làm nguôi cơn sợ
hãi của gia đình họ trong thời gian giam cầm con tin,
đồng thời cũng có thể gia tăng khả năng tổn thương
hoặc tử vong trong tay bọn khủng bố ngày càng điên rồ
hơn.
Tuy nhiên, vẫn còn có một biện pháp trung
dung trong đó các cuộc thương lượng giữa bọn khủng
bố và nhà cầm quyền sẽ diễn ra hoàn toàn bí mật,
không được báo chí biết đến. Như vậy, bọn khủng bố
không còn lợi dụng được dư luận báo chí nên không
thể làm gương cho bọn khủng bố khác nữa. Ngoài ra,
nhân viên đàm phán kiên quyết đòi phóng thích con tin
và bọn khủng bố bị dồn trách nhiệm để sau cùng bị
lên án trước tòa vì hành vi phạm tội của chúng. Sau đó,
nhà chức trách phải tiếp tục truy lùng, bắt giữ, đưa ra
tòa xét xử, rồi tống giam bọn chúng.
Nhược điểm của biện pháp này là bỏ qua
nhiều khía cạnh thực tế về mặt chính trị của tệ nạn
khủng bố. Chẳng hạn, các nhà lãnh đạo chính trị có
thể gặp phải áp lực hầu như không thế cưỡng lại được
nên phải chấp nhận làm mọi việc trong phạm vi thẩm
quyền để được phóng thích con tin, nhất là khi bản
thân các con tin ngoan ngoãn cầu xin cứu mạng với vẻ
đáng thương trước phương tiện truyền thông. Ngoài
ra, điều tốt nhất trong dài hạn có thể không tối hảo
trong ngắn hạn. Hiển nhiên, thương lượng với bọn
khủng bố là thử thách cam go đối với người có trách
nhiệm đàm phán - đó là chưa nói đến thử thách gian
khổ mà bản thân con tin đã gặp phải.
d. Các triển trọng tâm lý đối với nỗ lực giảm
bớt mối đe dọa xảy ra chiến tranh nguyên tử. Một
trong các vấn đề chính trị chủ yếu của thế giới là nỗ lực
kiểm soát vũ khí hạt nhân. Đâu là biện pháp tối ưu để
công dân ủng hộ đường lối hành động của chính
quyền họ?
Các nhà tâm lý đã nhận diện được hai biện
pháp chọn lựa: hạn chế và ngăn chặn vũ trang hạt
nhân. Một số chuyên gia đề nghị thực hiện biện pháp
hạn chế vũ trang hạt nhân (nuclear arms freeze), trong
đó các cường quốc nguyên tử trên thế giới cam kết
không chế tạo thêm vũ khí hạt nhân nữa (bởi vì số
lượng vũ khí hạt nhân hiện nay đã đủ sức tiêu diệt thế
giới gấp nhiều lần rồi). Sau khi biện pháp hạn chế đã
đạt được và có cơ sở vững chắc rồi, các cường quốc
nguyên tử có thể tổ chức các cuộc đàm phán tài giảm
binh bị nhằm giảm bớt qui mô các kho vũ khí hạt nhân
hiện hữu.
Quan điểm hạn chế vũ trang đi ngược lại
chiến lược ngăn chặn mà các siêu cường sử dụng
xưa nay. Ngăn chặn/ gián chỉ (deterrence) là quan
điểm cho rằng đe dọa trả đũa trên qui mô lớn chống
lại đòn tấn công của kẻ thù từ lâu là biện pháp hiệu
nghiệm nhất nhằm ngăn ngừa bị tấn công. Theo quan
điểm này, biện pháp phòng vệ thích hợp nhất là tăng
cường vũ trang. Biện pháp này bảo đảm rằng hành
động trả đũa sẽ hủy diệt toàn bộ nước tấn công, nên
quan điểm ấy được mệnh danh là MAD - tức là lưỡng
bại câu thương (mutually assured destruction).
Chiến lược ngăn chặn có hiệu nghiệm
không? Câu hỏi này khó lòng giải đáp được bởi vì tình
trạng bất khả thực hiện các cuộc nghiên cứu thực
nghiệm có kiểm soát trong một thế giới cực kỳ phức
tạp như hiện nay. Ngoài ra, trọng tâm của các cuộc
nghiên cứu như thế lại là cách cư xử của các thực thể
trừu tượng - tức là các quốc gia - trên thực tế hình
thành bởi cách cư xử của nhiều cá nhân. Cuối cùng,
sau khi biến cố đã xảy ra người ta thường không tài
nào biết được các nhà lãnh đạo có sẵn trong tay loại
thông tin nào để quyết định các vấn đề chiến tranh và
hòa bình.
Mặc dù các khó khăn về mặt lý thuyết như thế,
nỗ lực tìm hiểu cặn kẽ các biến cố lịch sử liên quan
đến chiến lược ngăn chặn cho thấy nó không hiệu
nghiệm lắm trong việc ngăn chặn các cuộc xung đột vũ
trang. Chẳng hạn, một phân tích sách lược quân sự
trên 2000 năm lịch sử đã khám phá rằng các quốc gia
đã chấp nhận quan điểm tăng cường vũ trang là biện
pháp ngăn ngừa chiến tranh sau đó dễ bị lôi cuốn vào
các cuộc xung đột hơn các quốc gia không chủ trương
tăng cường vũ trang. Ngoài ra, dường như tình trạng
sẵn có vũ khí trong tay do cuộc chạy đua vũ trang có
thể thúc đẩy các nhà làm sách lược dễ dàng chấp
nhận hành động quân sự trong các biện pháp chọn
lựa của họ so với trường hợp không có sẵn nhiều vũ
khí đến thế.
Như vậy, việc tăng cường vũ trang có thể tác
động như một lời tiên đoán để tự an ủi: Một quốc gia
cần vũ trang để tự vệ, và để đáp ứng nhu cầu kỳ vọng
này, sẽ sản xuất và tàng trữ số lượng vũ khí khổng lồ.
Sau đó, hậu quả của sự hiện diện các kho vũ khí này
làm nảy sinh nhận định rằng sứ dụng vũ khí là một
giải pháp thích hợp để giải quyết các cuộc khủng
hoang và các tranh chấp về chính sách đối ngoại. Sau
cùng, nhận định này làm tăng thêm nguy cơ sử dụng
vũ lực, cho đến một thời điểm chín muồi nào đó thảm
họa sẽ nổ ra. Như vậy, kỳ vọng ban đầu tăng vũ trang
là cần thiết để tự vệ sẽ đưa đến hậu quả sử dụng vũ
lực - quả là đi ngược lại kết quả mong muốn vậy.
3. Tâm lý học và nỗ lực cổ vũ hòa bình
"Bởi vì chiến tranh khởi phát từ tâm tư con
người, nên chính trong lương tri nhân loại việc bảo vệ
hòa bình phải được xây dựng."
Bất kể tuyên ngôn như thế (của UNESCO
ngay sau Thế Chiến II kết thúc), việc nghiên cứu vấn
đề hòa bình nói chung vẫn còn ngoài lãnh vực tâm lý
học, mà chủ yếu dành cho các nhà khoa học chính trị
và các sử gia. Tuy vậy, vẫn có một số lĩnh vực trong đó
ngày càng có nhiều nhà tâm lý đang nỗ lực đóng góp
vào việc ngăn chặn chiến tranh và cổ vũ hòa bình. Các
lĩnh vực nghiên cứu quan trọng nhất là:
- Thái độ đôi với các nước khác. Các nhà
tâm lý xã hội đã tìm hiểu cách thức nảy sinh thái độ
của chúng ta đối với các nước khác và các thái độ ấy
ảnh hưởng ra sao đến cách nhận định của chúng ta về
họ. Thí dụ, tại sao thái độ hoàn toàn thù nghịch của
người Mỹ đối với Liên Xô trước đây nay lại trở nên thân
thiện hơn rất nhiều?
- Các quyết định liên quan đến quốc phòng.
Các nhà tâm lý chuyên về lãnh vực trí tuệ đã tìm hiểu
cách thức hình thành quyết định. Thiên kiến trong các
tiến trình trí tuệ có thể khiến cho người ta tính toán sai
lạc và quyết định không thích hợp, như cuộc đổ bộ thất
bại lên vịnh Con Heo ở Cu Ba vào thập niên 1960
chẳng hạn.
- Cách cư xử trong các thời điểm khủng
hoảng. Cách cư xử của các nhà lãnh đạo quốc gia
trong các cuộc khủng hoảng là trọng tâm nghiên cứu
của nhiều cuộc khảo cứu. Nhờ tìm hiểu cặn kẽ hơn
phản ứng của các vị lãnh đạo ấy đối với các biến cố
khác thường, các nhà tâm lý có thể trình bày các
khuyến cáo đối với các cuộc khủng hoảng trong tương
lai.
- Chiến tranh ngẫu nhiên nổ ra. Các nhà tâm
lý phục vụ trong quân đội đã xây dựng chương trình tin
cậy nhân sự (Personnel Reliability Program) để đảm
bảo rằng những cá nhân phụ trách các loại vũ khí hạt
nhân đã được huấn luyện thích hợp và sẽ không có ý
đồ sử dụng chúng khi không được lệnh của giới chức
có thẩm quyền. Ngoài ra, các nhà tâm lý này cũng đã
tìm hiểu một số vấn đề như xác suất xảy ra rủi ro trong
các hệ thống điều hành vũ khí trong một số tình huống
nhất định.
- Đàm phán và ngăn ngừa chiến tranh. Các
nhà tâm lý đã chú trọng đến các kỹ năng đàm phán, và
về một số khía cạnh còn quan trọng hơn nữa đến việc
ngăn ngừa các xung đột quốc tế. Chẳng hạn, các nhà
tâm lý đã phác họa các tình huống giả tạo trong đó
những người tham dự đóng vai trò các vị lãnh đạo
quốc gia đối phó với một cuộc khủng hoảng để nhận
diện ra cách sách lược hiệu nghiệm khả dĩ vận dụng
được nhằm kết thúc các cuộc xung đột trên thực tế.
- Giáo dục: lợi dụng học đường để cổ vũ hòa
bình. Nhà tâm lý xã hội Morton Deutsch lập luận rằng
giáo dục nhằm kiến tạo một thế giới hòa bình phải là
một bộ phận cốt yếu trong mọi sinh hoạt học đường
của thiếu nhi. Ông đề nghị ngay từ các năm tiểu học,
các trường học có thể giảng dạy một số chủ đề nhằm
mục tiêu cổ vũ hòa bình. Các chủ đề này bao gồm
hướng dẫn rèn luyện tinh thần cộng tác, trong đó các
học viên cũng làm việc với nhau để am tường một số
thông tin; huấn luyện học sinh giải quyết xung đột;
hướng dẫn các biện pháp có tính xây dựng nhằm giải
quyết các đề tài gây tranh cãi; và truyền dạy cho học
sinh các kỹ thuật đều đình.
Mặc dù các biện pháp tâm lý nhằm ngăn
ngừa chiến tranh và cổ vũ hòa bình đang trên đà phát
triển, nhưng chúng ít khi được thực thi. Tuy vậy, tương
lai đầy hứa hẹn, và nhiều nhà tâm lý đang tiếp tục
nghiên cứu để phát minh các biện pháp thay thế cho
các biện pháp truyền thống nhằm giải quyết các cuộc
xung đột dường như không thể tránh được giữa các
quốc gia và giữa các nhóm chủng tộc, tôn giáo, và sắc
tộc thiểu số.
4. Tóm tắt và học ôn III
A. TÓM TẮT
- Tâm lý học giao lưu văn hóa (cross-cultural
psychology) là một chuyên ngành tâm lý nhằm tìm
hiệu các đặc điểm tương đồng và dị biệt về chức năng
tâm lý giữa các nền văn hóa và các nhóm chủng tộc
khác biệt nhau.
- Các nền văn hóa khác biệt nhau về mức độ
ưu thắng của các định hướng giá trị theo chủ nghĩa tập
thể (collectivism) và cá nhân chủ nghĩa (individualism).
- Nhận định của con người về kẻ thù thường
bị sai lạc về một số mặt.
- Biện pháp đối phó với bọn khủng bố bắt giữ
con tin có thể bao gồm sử dụng vũ lực thương lượng
để cứu tính mệnh con tin bằng mọi giá, khước từ
thương lượng với bọn khủng bố, hoặc chấp nhận giải
pháp trung dung.
- Tuy tin rằng cuộc chiến tranh nguyên tử rấtt
có thể nổ ra, nhưng con người ít có hành động cụ thể
để ngăn ngừa.
B. HỌC ÔN
1/.......... là quan điểm tho rằng hạnh phúc của
tập thể quan trọng hơn phúc lạc cá nhân. Ngược
lại,.................. cho rằng sự khẳng định bản thân, tính
độc đáo, ý chí tự do, và giá trị của cá nhân là điều kiện
chủ yếu.
2/ Con người sống trong các xã hội theo chủ
nghĩa tập thể thường qui trách nhiệm thành tích học
tập của họ cho các nhân tố hoàn cảnh có tính nhất
thời, như mức độ nỗ lực học tập chẳng hạn. Đúng hay
sai?...............................................
3/ Một trong các quan tâm quan trọng nhất
của bọn khủng bố là:
a) Nhận tiền chuộc để đổi lấy điều kiện phóng
thích con tin.
b) Đi phi cơ khỏi tốn tiền.
c) Thuyết phục thêm nhiều người gia nhập
nhóm khủng bố
d) Sự chú ý của giới truyền thông.
4/ Ralph White đã lập luận rằng ngộ nhận kẻ
thù có thể ảnh hưởng đến các quyết định trong các
thời điểm xảy ra xung đột. Hãy nêu ra ba ngộ nhận khả
dĩ.
5/ Quan điểm cho rằng đòn tấn công của kẻ
thù có thêm ngăn chặn bởi đe dọa trả đũa gọi
là...............
C. CÂU HỎI TỰ VẤN
Bạn nghĩ sao về quan điểm cho rằng nhân
định của dân Mỹ về nhân dân Liên Xô cũ đã thay đổi kể
từ khi nước này tan rã và không còn bị xem là kẻ thù
nữa?
(Giải đáp câu hỏi học ôn ở cuối chương)
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN à Chương 15. SỐNG VỚI THA NHÂN TRONG MỘT THẾ GIỚI
MUÔN MÀU
- Stress là gì, nó tác động đến chúng ta ra
sao, và chúng ta làm cách nào để khắc phục nó hiệu
quả nhất?
1. Stress là một phản ứng đối với các điều
kiện đe dọa và thách thức trong môi trường sống.
Cuộc sống con người đầy dẫy các tác nhân gây stress
(stressor) - Các tình huống gây căng thẳng - có bản
chất gồm cả tích cực lẫn tiêu cực 2. Stress gây ra các
phản ứng sinh lý tức thời, bao gồm gia tăng số lượng
hoirmone tiết ra, nhịp tim và áp huyết tăng vọt lên, và
thay đổi mức dẫn điện ở da. Trong ngắn hạn, cơ thể
con người có thể thích nghi với các phản ứng này,
nhưng trong dài hạn chúng có thể gây ra các hậu quả
xấu, bao gồm sự phát triển các dạng rối loạn cơ thể -
tâm thần (psychosomatic disorders). Các hậu quả do
stress gây ra có thể được giải thích phần nào bởi Hội
chứng Thích ứng Tổng quát của Selye (Selye's gerenal
adapta-non syndrome). Mô hình này cho rằng các
IV. NHỮNG ĐIỂM CẦN GHI NHỚ
phản ứng căng thẳng gồm có ba giai đoạn: báo động
và động viên năng lực, đề kháng, và kiệt sức 3. Các
nhân tố gây căng thẳng không có tính phố quát - cách
giải thích một tình huống môi trường liệu ảnh hưởng
của nó có được xem là căng thẳng hay không khác
biệt nhau giữa mọi người. Dù vậy, cũng có ba loại biến
cố tổng quát thường gây ra stress: các biến cố gây
thảm họa chung cho nhiều người (cataclysmic
events), các tác nhân gây stress riêng tư (personnal
stressors), và các tác nhân gây stress trong cuộc sống
thường ngày (background stressors - các rắc rối
thường nhật, dai y hassles). Tình trạng căng thẳng
được giảm bớt nhờ sự hiện diện của các khích lệ tinh
thần (uplifts), tức là các sự việc tuy không đáng kể
nhưng khiến cho người ta cảm thấy hài lòng - dù chỉ
trong tạm thời.
4. Tình trạng căng thẳng có thể được giảm
bớt nhờ sự xây dựng ý thức kiểm soát các tình huống
gặp phải. Nỗ lực khắc phục stress có thể được thực
hiện dưới một số hình thức, bao gồm vận dụng vô thức
các cơ chế phòng vệ (defense mechanisms) và sử
dụng các biện pháp khắc phục nhắm vào xúc cảm
hoặc nhắm vào rắc rối.
- Các nguyên nhân nào gây ra thành kiến và
kỳ thị
5. Thành kiến (stereotypes) là các niềm tin và
kỳ vọng hình thành đối với các thành viên của một tập
thể chỉ vì tư cách thành viên của họ trong tập thể ấy.
Tuy thường hay nhắm vào các nhóm chủng tộc và sắc
tộc thiểu số nhất, thành kiến cũng hình thành đối với
các nhóm giới tính và tuổi tác. Các thành kiến không
chỉ gây ra tệ nạn kỳ thị (discrimination) mà còn dẫn
đến các tiên đoán để tự an ủi (self-fullilling prophecy),
tức là các kỳ vọng diễn ra các biến cố hay hành vi
tương lai tác động nhằm gia tăng xác suất thực sự xảy
ra các biến cố hay hành vi ấy.
- Giữa các vai trò giới tính của nam giới và
nữ giới có các điểm khác biệt chủ yếu nào?
6. Các nhận định về bản thân chúng ta được
quyết định phần lớn bởi ý thức về giới tính của mình,
tức là ý thức rằng mình là nam giới hay nữ giới. Vai trò
giới tinh (gender roles) là các kỳ vọng do xã hội áp đặt
nhằm nêu rõ lối cư xử nào thích hợp cho nam giới và
lối nào cho nữ giới. Khi vai trò giới tính phản ảnh thái
độ thuận lợi đối với một giới tính đặc biệt, chúng dẫn
đến thành kiến và gây ra tệ nạn kỳ thị giới tính
(sexism), tức là thái độ và lối cư xử bất lợi cho một cá
nhân vì giới tính của người ấy.
7. Thành kiến về vai trò giỏi tính đối với nam
giới cho rằng họ được thiên phú các nét nhân cách
liên quan đến năng lực (competence - related traits),
trong khi nữ giới bị xem là có năng khiếu về nhiệt tình
và biểu hiện nhân ái. Các dị biệt giới tính trên thực tế
không rõ rệt lắm, và mức độ khác biệt cũng thấp hơn
nhiều so với thành kiến. Có các dị biệt về mức độ gây
hấn, lòng tự ái, kiểu thông đạt, và có lẽ về năng lực trí
tuệ, nhưng mức độ khác biệt của chúng cũng không
đáng kể. Các dị biệt này phát sinh do một phối hợp
gồm các nhân tố sinh học và hoàn cảnh gây ra.
8. Các nguyên nhân sinh học gây ra các dị
biệt giới tính được phản ảnh qua các chứng cứ cho
rằng có thể có khác biệt về cấu tạo và chức năng não
bộ giữa nam giới và nữ giới; và các khác biệt này có
thể liên quan đến các loại hormone đặc biệt sản sinh
ngay từ khi còn trong bào thai mẹ. Riêng về các
nguyên nhân hoàn cảnh, các kinh nghiệm xã hội hóa
hình thành các lược đồ giới tính (gender schemas)
trong tâm trí con người; đó là các cơ cấu trí tuệ nhằm
sắp xếp có hệ thống và hướng dẫn đứa trẻ tìm hiểu
các thông tin phù hợp với giới tính của nó.
- Nền văn hóa gây ảnh hưởng gì đối với
cách cư xử của con người?
9. Tâm lý học giao lưu văn hóa (cross-cultural
psycholosy) là chuyên ngành tâm lý tìm hiểu các điểm
tương đồng và dị biệt về chức năng tâm lý trong các
nền văn hóa và các nhóm chủng tộc khác nhau. Một
chiều kích khiến cho các nền văn hóa khác biệt nhau
là sự phân biệt giữa chủ nghĩa tập thể và cá nhân chủ
nghĩa. Chủ nghĩa tập thể (collectivism) là quan điểm
cho rằng hạnh phúc của tập thể quan trọng hơn hạnh
phúc cá nhân, trong khi cá nhân chủ nghĩa
(individualism) là quan điểm cho rằng sự khẳng định
bản thân, tính độc đáo, ý chí tự do, và giá trị của cá
nhân là điều kiện chủ yếu.
- Làm cách nào ngăn chặn chiến tranh và
nuôi dưỡng hòa bình
10. Các nhà tâm lý đã đề ra một số biện pháp
đối phó với thủ đoạn bắt giữ con tin. Các biện pháp ấy
bao gồm dùng vũ lực để giải thoát con tin, nỗ lực cứu
tính mệnh con tin bằng mọi giá (kể cả việc đáp ứng
yêu sách của bọn khủng bố), khước từ thương lượng
với bọn khủng bố trong mọi tình huống và chọn một
biện pháp trung dung trong đó các cuộc thương lượng
diễn ra trong bối cảnh hoàn toàn không có sự chứng
kiến của giới báo chí.
11. Một lý thuyết cho rằng ngộ nhận về kẻ thù
của con người tác động phá vỡ nền hòa bình. Các
nhận định sai lạc ấy bao gồm hình dung kẻ thù độc ác
ghê tởm, bản thân anh hùng, cả tin vào một quân đội
quá tự hào, thiếu cảm thông với kẻ thù, cố tình làm
ngơ trước sự kiện thực tế, và tự cho mình hành động
hợp luân lý.
12. Niềm tin cho rằng cuộc chiến tranh
nguyên tử sẽ nổ ra chưa hề giảm đi trong suốt hơn 40
năm qua. Hầu hết mọi người đều cho rằng cuộc chiến
tranh ấy có thể xảy ra theo xác suất từ 1/3 đến 1/2. Tuy
không có hy vọng sống sốt, nhưng hầu hết mọi người
đều không chịu hành động cụ thể nhằm kết thúc mối
đe dọa ấy.
13. Một số chủ đề tâm lý có liên quan đến nỗ
lực giảm bớt đe dọa nổ ra cuộc chiến tranh nguyên tử.
Quan điểm hạn chế vũ khí hạt nhân (nudear freeze),
theo đó các quốc gia cam kết không chế tạo thêm vũ
khí hạt nhân đi ngược lại quan điểm ngăn chặn
(deterrence), cho rằng đe dọa trả đũa chống lại đòn
tấn công của kẻ thù là biện pháp ngăn ngừa chiến
tranh hiệu nghiệm nhất xưa nay. Tuy vậy, các cuộc
nghiên cứu cho rằng chiến lược ngăn chặn ấy tương
đối kém hiệu quả.
14. Các nhà tâm lý đã đóng góp vào nỗ lực
ngăn ngừa chiến tranh và cổ vũ hòa bình qua việc tìm
hiểu các chủ đề như thái độ đối với các nước khác, các
quyết định liên quan đến quốc phòng, cách cư xử trong
các thời kỳ khủng hoảng, tránh để ngẫu nhiên nổ ra
chiến tranh, kỹ năng đàm phán, và lợi dụng giáo dục
để cổ vũ cho nền hòa bình thế giới.
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN à Chương 15. SỐNG VỚI THA NHÂN TRONG MỘT THẾ GIỚI
MUÔN MÀU
V. GIẢI ĐÁP CÂU HỎI ÔN TẬP
I-
1/ Stress
2/ a-2; b-1; c-3
3/ Rối loạn stress hậu chấn thương 4/ a
5/ Khích lệ tinh thần 6/ Biện pháp khắc phục
7/ a
8/ Sắt đá
9/ Sai; chúng đã tỏ ra rất hữu ích trong nhiều
tình huống.
II-
1/ Đúng
2/ b
3/ tự an ủi
4/ Vai trò giới tính 5/ Sai; chúng vẫn còn khá
thịnh hành 6/ c
7/ lưỡng tính
8/ Lược đồ giới tính
III-
1/ Chủ nghĩa tập thể; cá nhân chủ nghĩa 2/
Đúng 3/ d
4/ các ngộ nhận này bao gồm hình dung kẻ
thù xấu xa và độc ác; hình dung bản thân oai hùng;
quân đội quá tự hào; thiếu cảm thông kẻ thù; cố tình
làm ngơ trước sự thật; hình dung bản thân hành động
hợp luân lý.
5/ Ngăn ngừa.
Created by AM Word2CHM
Chương 1: Tìm hiểu tâm lý học
Chương 2: Nền tảng sinh học của hành vi
Chương 3: Cảm giác và nhận thức Chương 4: Các
trạng thái ý thức
Chương 5: Tiến trình học hỏi
Chương 6: Ký ức
Chương 7: Tư duy và ngôn ngữ
Chương 8: Trí thông minh
Chương 9: Động lực và xúc cảm
Chương 10: Tiến trình phát triển của con
người Chương 11: Cá tính và nhân cách Chương 12:
Hành vi ứng xử bất bình thường Chương 13: Chữa trị
hành vi ứng xử bất bình thường Chương 14: Tâm lý xã
hội Chương 15: Sống với tha nhân trong một thế giới
muôn màu ---//---
TÂM LÝ HỌC CĂN BẢN
MỤC LỤC
Tác giả:
ROBERTS FELDMAN
Biên dịch:
MINH ĐỨC – HỒ KIM CHUNG
Biên dịch theo bản in của NXB Piat Kus Chịu trách
nhiệm xuất bản: BÙI VIỆT BẮC
Chịu trách nhiệm bản thảo: PHẠM NGỌC LUẬT
Biên tập: THANH AN
Thiết kế bìa: NGỌC MINH Design
Kỹ thuật vi tính: TẤN NGHĨA
Sửa bản in: THANH AN
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA - THÔNG TIN
Hà Nội: 43 Lò Đúc - ĐT: (04) 38 264 725
Chi nhánh TP. HCM: 07 Nguyễn Thị Minh Khai - ĐT:
(08) 38.222521
TRUNG TÂM THÔNG TIN KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ
HOÁ CHẤT
Nhà sách NGHIÊM BÍCH HOAN
212/7 Lê Lai, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh.
Tel/Fax: 39 253 017
In 800 bản khổ 19 x 27cm tại Công ty in Bao bì XNK
tổng hợp, số 1Bis Hoàng Diệu, Q.4, TP.HCM. Giấy
phép đăng ký KHXB số 995/XB-QLXI/12-VHTT. In xong
và nộp lưu chiểu Quý 4 năm 2004.
Created by AM Word2CHM

File đính kèm:

  • pdftam_ly_hoc_can_ban_9671_250155.pdf