Tài liệu Tâm lý học lao động - Đào Thị Oanh

Tóm tắt Tài liệu Tâm lý học lao động - Đào Thị Oanh: ...xem đối tượng lao động có được chuyển vào quá trình lao động phù hợp với những tính chất mà cuối cùng nó cần phải có hay không. Hành động trực tiếp của con người tác động vào đối tượng lao động thông qua máy móc được điều chỉnh dựa trên các tín hiệu: tác động đến trường làm việc. Theo nghĩa n...o thị giác và thính giác cùng một lúc là có ý nghĩa (ví dụ, khi tìm kiếm các tín hiệu ra-đa yếu). Thường thường, tín hiệu âm thanh dùng để thu hút sự chú ý vào tín hiệu thị giác. Chẳng hạn, tiếng chuông của máy báo cho thao tác viên biết về sự cần thiết phải chú ý đến thiết bị và can thiệp vào...nh khách quan (hiệu suất lao động) lẫn dưới khía cạnh chủ quan (sự thoả mãn). Để tạo ra một môi trường màu sắc tối ưu cho chỗ làm việc, cần lưu ý đến một số yêu cầu sau: a) Các màu có sự khác nhau rất lớn về sự phản chiếu, vì vậy để có được một ánh sáng đồng đều thì hệ số phản chiếu nên là: 7...

pdf350 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 519 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tài liệu Tâm lý học lao động - Đào Thị Oanh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 lí. Với
những công việc đều đều và đơn điệu. không đòi hỏi
tiêu tốn nhiều năng lượng thì mỗi lần giải lao là 5 phút.
Với công việc mà gánh nặng thể lực lớn hơn đòi hỏi
sự chú ý, sự chính xác của động tác thì thời gian một
lần giải lao là 10 phút, có khi lên tới 15phút. Đồng thời
cũng có quan điểm cho rằng, trong những điều kiện
vững chắc khác nhau thì nhiều lần giải lao ngắn tốt
hơn là ít lần giải lao dài. Tuy nhiên, sự quyết định cuối
cùng được thực hiện sau khi đã nghiên cứu động thái
của sức làm việc của các công nhân ở một bộ phận
sản xuất cụ thể.
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 5. SỰ MỆT MỎI, CÁC TRƯỜNG HỢP BẤT HẠNH
TRONG SẢN XUẤT VÀ VẤN ĐỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG
Bất cứ một cơ sở công nghiệp nào cũng
được hiểu như là một hệ thống. Do việc áp dụng
chương trình kỹ thuật riêng cho từng hệ thống nhất
định mà các thành tố của nó (người, máy, môi trường)
có những mối quan hệ với nhau. Tuỳ thuộc vào mục
đích đặt ta (tức đầu ra của hệ thống). Sự tác động qua
lại giữa các thành tố thể hiện sự vận hành của hệ
thống. Có hai loại lớn các chỉ số mà nhờ đó có thể xác
định được chất lượng vận hành của hệ thống. Đó là: a)
Các chỉ số trực tiếp (hậu quả trực tiếp của một hành
động hay một sự tác động qua lại), b) Các chỉ số gián
tiếp (các hậu quả phụ). Hiển nhiên là, tiêu chí để các
định các chỉ số này là rất khác nhau: kỹ thuật, công
nghệ, kinh tế, con người v.v...
Dựa vào các chỉ số vừa nêu, có thể xác định
được hệ thống đang vận hành bình thường hay không
bình thường (lệch lạc nhiều hay ít hơn so với các tiêu
chuẩn đã định sẵn). Trong trường hợp thứ hai sẽ có
5. Các trường hợp bất hạnh trong sản
xuất và sự an toàn lao động
sụ trục trặc. Theo quan điểm hệ thống thì sự trục trặc
là một hiện tượng không mong muốn, có tính chất và
nguồn gốc phức tạp. Bất cứ một sự trục trặc nào cũng
có những nguyên nhân và hậu quả nhất định. Tuy
nhiên, khái niệm trục trặc chỉ là tương đối. Xét dưới
góc độ hậu quả của nó, một hiện tượng đột biến có thể
được coi là một sự trục trặc. Còn xét dưới góc độ các
nguyên nhân hay nguồn gốc của nó, sự trục trặc đó có
thể là hậu quả của một sự trục trặc khác, mà, đến lượt
nó, lại do những nguyên nhân khác nhau gây ra. Ở
đây, căn cứ vào hậu quả ít nhiều nghiêm trọng của sự
trục trặc trong hệ thống mà có thể có sự cố và tai nạn.
Như vậy, tai nạn là một đầu ra không mong
muốn của hệ thống, là một chỉ số hoặc một dấu hiệu
của sự trục trặc trong hệ thống. Do đó là một hiện
tượng có nguồn gốc phức tạp, do nhiều yếu tố và
nguyên nhân gây ra. Tai nạn có thể là hậu quả trực tiếp
của sự trục trặc nhưng cũng có thể là hậu quả gián
tiếp hơn (được tách ra từ một số lượng ít hoặc nhiều
các rối loạn hoặc sự vận hành không bình thường).
Sự cố là một chỉ số khác của sự trục trặc và
khác với tai nạn ở chỗ có thể quy định một hoạt động
đền bù (bổ sung). Nếu hoạt động này không phù hợp
có thể gây ra một sự cố khác hay thậm chí là tai nạn.
Khi phân tích nguyên nhân gây ra các sự cố
gây hư hỏng hay chấn thương cho công nhân hoặc
gây ra những điều bất hạnh, nhìn chung có thể quy về
hai loại nhân tố: "con người" và "máy móc".
Người công nhân vi phạm các nguyên tắc sử
dụng các thiết bị, công cụ kỹ thuật, coi thường các
nguyên tắc an toàn lao động, và nếu vì thế mà gây ra
các tình huống hay các bất hạnh thì rõ ràng điều đó là
lỗi của họ. Nhưng, mặt khác, có thể có những sự cố
xuất hiện do những khiếm khuyết không thấy được của
máy móc, do sự không hoàn thiện của quy trình kỹ
thuật, do sự không hoàn thiện của quá trình thông tin,
có nghĩa là do những nguyên nhân không phụ thuộc
vào bản thân người công nhân. Nhưng, nếu xếp
những nguyên nhân đó vào loại những nhân tố “máy
móc” thì cũng không hoàn toàn đúng. Bởi vì, chính việc
chế tạo máy móc, xây dựng các quy trình sản xuất,
cũng như bất kỳ đối tượng nào của môi trường vật chất
xung quanh người công nhân và việc chăm sóc các
thiết bị, lắp ráp và sửa chữa đều là do con người thực
hiện. Cho nên, khó có thể nói đến những nguyên nhân
thuần tuý máy móc trong các trường hợp bất hạnh. Từ
đây, có thể thấy vai trò của tâm lí học lao động trong
việc tạo ra những điều kiện an toàn lao động là rất
quan trọng. Ở đây, vai trò của nhà tâm lí học còn thực
sự quan trọng do chỗ những trường hợp bất hạnh
không phải xảy ra với tất cả mọi người và không phải
bao giờ cũng xảy ra.
a) Những sự khác biệt cá nhân. Những
trường hợp bất hạnh không phải xẩy ra với tất cả mọi
công nhân. Trong thực tế, đơn vị công nghiệp nào
cũng có những công nhân không phạm sai lầm trong
quá trình lao động. Đồng thời cũng có những nhóm
công nhân mắc phải những sự cố ở những mức độ
khác nhau.
Có nhiều tài liệu chứng tỏ rằng có sự phân
phối không đồng đều các trường hợp giữa nam và nữ
công nhân. Các nhà tâm lí học Hunggari - I.Balintơ và
M.Murani đã tiến hành thống kê trong sản xuất, và thấy
rằng: năm 1960, cứ trên 1000 công nhân nam thì xảy
ra 71,9 trường hợp bất hạnh, còn trên 1000 công nhân
nữ thì có 41,9 trường hợp. Sang năm sau, tương quan
đó thực tế không bị thay đổi (70,7 và 38,8).
Sự xuất hiện các trường hợp bất hạnh còn
phụ thuộc ở một mức độ nhất định vào kinh nghiệm
nghề nghiệp và thâm niên công tác theo chuyên môn.
Các tác giả trên nhận thấy rằng: năm 1960 có 41.5%
trường hợp bất hạnh trong sản xuất đã xảy ra ở những
công nhân có thâm niên nghề nghiệp dưới 1 năm.
Năm 1961 cũng ở các công nhân đó chỉ xẩy ra 37.7%
trường hợp bất hạnh.
Có nhiều tài liệu còn chứng tỏ rằng có sự phụ
thuộc của tần số xuất hiện các trường hợp bất hạnh
vào lứa tuổi của công nhân. Người ta thấy rằng: trong
những điều kiện ngang bằng vững chắc, thì công nhân
trẻ thường chịu những trường hợp bất hạnh nhiều
hơn. Theo tài liệu của Hội đồng an toàn quốc gia Mỹ thì
những người lái ô tô dưới 25 tuổi chịu khả năng gặp
trường hợp bất hạnh gấp 2 lần so với người lái ô tô
trên 25 tuổi.
Sự phụ thuộc này không chỉ được giải thích
bằng sự tăng lên của kinh nghiệm nghề nghiệp.
Thông thường, theo lứa tuổi, sự trưởng thành nhân
cách cũng tăng lên. Con người trở nên chín chắn hơn,
tinh thần trách nhiệm đối với những kết quả lao động
cũng như đối với sức khoẻ của bản thân được nâng
cao. Khi cần phải đối mặt với sự nguy hiểm, những
người lớn tuổi, có kinh nghiệm sống nhiều hơn sẽ
hành động bình tĩnh hơn và tự tin hơn.
Sự phân tích trên đây khiến ta phải đề cập tới
nhân cách của người công nhân. Trước hết cần nói
đến xu hướng nghề nghiệp. Trong thực tế không loại
trừ trường hợp là sự không hứng thú với hoạt động
nghề nghiệp là một trong những nguyên nhân gây ra
các trường hợp bất hạnh. Những công nhân có hứng
thú mạnh mẽ và ổn định đối với nghề nghiệp ít gặp sự
cố hơn so với những công nhân không thích nghề của
mình lắm hoặc hoàn toàn không thích.
Năng lực chuyên môn có một ý nghĩa quan
trọng về mặt an toàn lao động. Mỗi người tuỳ thuộc vào
mức độ phát triển của các năng lực nhất định của bản
thân mà có thể chịu những sự cố ngay trong một hoạt
động nghề nghiệp cụ thể nào đó.
Những nét tính cách của cá nhân cũng có thể
quyết định sự an toàn lao động. Có một số nghề
nghiệp đòi hỏi rất nhiều ở người công nhân tính cân
bằng, sự vững vàng của cảm xúc, kỹ năng hành động
trong những tình huống căng thẳng.
Việc tính đến các khác biệt cá nhân có một ý
nghĩa to lớn trong sự tạo ra các điều kiện an toàn lao
động. Tuy nhiên, những trường hợp bất hạnh không
phải lúc nào cũng xẩy ra. Điều đó có nghĩa là, cần tìm
kiếm các nhân tố gây ra các trường hợp bất hạnh trong
một thời gian nào đó, có thể là một thời gian nhất định
đối với chúng. Nói cách khác, cần nắm được những tri
thức để giải thích: tại sao trường hợp bất hạnh lại xẩy
ra ở chính thời điểm này mà không xẩy ra sớm hơn
hoặc muộn hơn?
b) Đặc điểm tạm thời
Trước hết, không ai ngạc nhiên khi thấy rằng,
một người đi làm trong trạng thái bệnh tật bị nguy
hiểm ở mức độ lớn hơn nhiều so với người khoẻ
mạnh. Cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi nghe nói
về hậu quả nguy hại của rượu đối với các trường hợp
bất hạnh. Chẳng hạn, những người nghiên cứu ở
Pháp cho thấy, ở những công nhân uống rượu thường
xuyên thì những trường hợp bất hạnh xẩy ra nhiều hơn
35%, và tổn thương do những trường hợp bất hạnh đó
đem lại thường nặng hơn so với những công nhân
không uống rượu.
Khả năng xảy ra các trường hợp bất hạnh
tăng lên theo sự tăng lên của mệt mỏi. Sau đây là
những số liệu cụ thể về sự phân bố các trường hợp
bất hạnh trong công nghiệp theo từng giờ của ngày
làm việc (Hình 16). Các số liệu này cho thấy khi độ mệt
mỏi tăng thì tỉ lệ phần trăm các trường hợp bất hạnh
cũng tăng lên và tỉ lệ này hạ thấp rõ rệt khi công nhân
được nghỉ ngơi, rồi lại tăng trở lại sau khi nghỉ ăn trưa.
Ở cuối nửa ca đầu và cuối nửa ca sau thì tỉ lệ đó
chiếm những "đỉnh" cực cao, tức là ở những lúc người
công nhân mệt mỏi nhất.
Khi phân tích những số liệu này, có thể nói
rằng sự mệt mỏi là một nhân tố có tính chất tạm thời
rất cơ bản trong việc gây ra các trường hợp bất hạnh
trong lao động. Tuy nhiên, không thể giải thích nguồn
gốc của các trường hợp bất hạnh chỉ bằng sự mệt mỏi
của công nhân. Trong thực tế, không phải ngày nào
cũng có tai nạn xẩy ra. Sự mệt mỏi thúc đẩy việc nảy
sinh trường hợp bất hạnh nhưng không gây ra sự bất
hạnh.
Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy rằng:
phần lớn các chấn thương xẩy ra là do sự ngừng tay
của công nhân trong lúc đang làm việc. Nó thường có
liên quan đến hiện tượng mất cảnh giác. Người ta
phân chia sự ngưng tay trong khi sản xuất làm hai
nhóm: a) Những sự ngừng tay có liên quan với sự
phát triển không đầy đủ của những phẩm chất nhân
cách nhất định. b) Những sự ngừng tay "ngẫu nhiên"
khó thấy trước, loại này là đặc biệt nguy hại.
Ngày nay, khi nghiên cứu về nguyên nhân gây
ra các trường hợp bất hạnh trong sản xuất, các công
trình càng chú ý nhiều hơn đến vai trò của các trạng
thái tâm lí, của tâm trạng người công nhân, thái độ của
họ đối với hoạt động lao động. Hy vọng rằng, những
nghiên cứu sâu hơn và toàn điện hơn về nhân cách
người công nhân sẽ cho chúng ta nhiều tài liệu có giá
trị để hiểu các nguyên nhân của những trường hợp bất
hạnh.
Các số liệu thống kê gần đây nhất cho thấy,
trên thế giới hàng năm có khoảng 250 triệu người bị
tai nạn lao động. Trong đó có 330 nghìn người bị chết,
hàng trăm triệu người bị thương nặng. Ngoài ra, còn
hàng chục triệu người khác bị mắc các bệnh nghề
nghiệp. Ở Việt Nam, theo số liệu chưa đầy đủ công bố
năm 1999, hàng năm cả nước có khoảng 100 nghìn
người bị tai nạn lao động, trong đó có 360 người bị
chết, hàng ngàn người bị thương, hơn 10 nghìn người
mắc bệnh nghề nghiệp (trên thực tế số người mắc
bệnh nghề nghiệp còn cao hơn nhiều). Thiệt hại mỗi
năm lên đến hàng ngàn tỷ đồng. Điều đáng lưu ý là số
vụ tai nạn lao động hàng năm không ngừng tăng lên
và ngày càng nghiêm trọng, làm chết và làm bị thương
hoặc làm tàn phế nhiều người, để lại hậu quả rất lớn
cho gia đình. Nhà nước và xã hội. Chẳng hạn, ngay
đầu năm 1999 đã xảy ra một số tai nạn nghiêm trọng
như: vụ nổ khí Me tan ở mỏ than Mạo Khê (Quảng
Ninh) làm 19 công nhân chết, 12 người khác bị
thương, vụ nổ khu chứa nước ở khu công nghiệp Tân
Tạo, Quận Bình Chánh (thành phố Hồ Chí Minh) làm 6
công nhân bị thiêu cháy, vụ đổ cột điện làm chết 5
người, bị thương 15 người khác hay vụ sụt đất tại bãi
đào vàng làm nhiều người bị chết... Nguyên nhân chủ
yếu là do công nhân chưa tuân thủ nghiêm ngặt các
quy đjinh an toàn vệ sinh lao động, chưa tự giác chấp
hành quy trình quy phạm vận hành máy móc, khai thác
thiết bị an toàn, đặc biệt nhiều xí nghiệp chưa quan
tâm đúng mục tới việc cải thiện điều kiện làm việc vệ
sinh hơn an toàn hơn cho người lao động. Vì vậy,
nhiệm vụ cấp bách đặt ra là cần nghiên cứu và thực
hiện việc bảo hộ cho yếu tố con người trong quá trình
lao động sản xuất để nhằm ngăn ngừa các trường
hợp bất hạnh trọng sản xuất.
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG à Chương 5. SỰ MỆT MỎI, CÁC TRƯỜNG HỢP BẤT HẠNH
TRONG SẢN XUẤT VÀ VẤN ĐỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG
Theo các nhà nghiên cứu, đối với việc ngăn
ngừa các tai nạn lao động, cần lưu ý hai điểm cơ bản
sau: a) Vấn đề an toàn lao động cần được bao quát
trong toàn bộ hệ thống. Bởi vì sự tác động qua lại giữa
các thành tố sẽ làm cho bất cứ một thay đổi nào trong
phạm vi của một thành tố cũng sẽ gây ra những thay
đổi trong toàn bộ hệ thống. b) Trong mỗi xí nghiệp
công nghiệp bao giờ cũng có nhiều mức độ (xí nghiệp,
các phân xưởng, các tổ sản xuất, các vị trí công tác). Vì
vậy cả việc chẩn đoán lẫn việc ngăn ngừa đều phải
được tiến hành một cách khác nhau.
Vấn đề an toàn lao động đề cập tới nhiều khía
cạnh khác nhau, cho nên đòi hỏi sự cộng tác của các
nhà chuyên môn thuộc những lĩnh vực khác nhau. Tuy
nhiên, yếu tố quan trọng nhất lại là bản thân công
nhân, là người tham gia một cách hữu hiệu và tích cực
vào an toàn lao động cho mình và thực hiện một sự tự
bảo vệ.
6. Ngăn ngừa các trường hợp bất hạnh
trong sản xuất
Với mục đích hoàn thiện tình trạng an toàn
cho hệ thống, hành động ngăn ngừa có thể được thể
hiện thông qua một loạt biện pháp như: các quy tắc an
toàn lao động, giáo dục, tuyên truyền, áp dụng các
nguyên tắc thái học, tổ chức phân công lao động hợp
lí, đào tạo tay nghề.
Các quy tắc an toàn lao động phải phù hợp
với nhau và phù hợp với các quy tắc khác trong nhà
máy, dễ ghi nhớ, rõ ràng và dễ hiểu đối với công nhân,
nên sử dụng kết hợp với các hình vẽ.
Tuyên truyền là một biện pháp ngăn ngừa
nhằm hình thành cho người công nhân một hành vi
phù hợp thông qua việc hình thành thái độ thực của họ
(chứ không phải những câu trả lời trong bảng anket).
Cái khó ở đây là những thói quen và các kỹ xảo không
dễ dàng làm thay đổi chỉ bằng cách thay đổi chỗ làm
việc.
Thông tin đề cập đến những cách thức đối
phó chắc chắn trước những tình huống nguy hiểm
trong khi thực hiện từng thao tác lao động, đề cập tới
mức độ an toàn của những hoạt động xung quanh đó.
Những thông tin này sẽ được cung cấp cho công nhân
cả giai đoạn hình thành nghề nghiệp lẫn ở tại nơi làm
việc của họ.
Đào tạo nghề nghiệp. Để có thể góp phần vào
việc làm thay đổi hành vi nhằm nâng cao an toàn lao
động cho công nhân, việc đào tạo nghề nghiệp phải
được tiến hành có kế hoạch và được kiểm tra cẩn
thận. Ở đây, không chỉ lưu ý hình thành tay nghề mà
còn phải hình thành cả thái độ đối với nghề nghiệp. Để
ngăn ngừa các tai nạn lao động có thể xẩy ra, việc đào
tạo nghề nghiệp cần lưu ý một số điểm sau:
a) Thống nhất các mã thông tin, thông báo.
Do các mã thông báo ở từng nhà máy là khác nhau,
cho nên bất cứ một công nhân nào mới được nhận
vào làm việc cũng cần phải học mã để tránh nhầm lẫn;
b) Dạy tiến hành các thao tác phụ và các thao
tác chính. Thường thì các thao tác phụ dễ gây ra tai
nạn lao động, vì vậy công nhân phải học để nắm các
thao tác này tốt như là đối với các thao tác chính. Cũng
cần lưu ý đến một điều là: con người thường có huynh
hướng xem nhẹ sự nguy hiểm của tai nạn lao động;
c) Học đón trước giúp công nhân có khả năng
đón trước (nhìn thấy trước) các tình huống nguy hiểm,
nhằm giải quyết chúng một cách nhanh chóng và hiệu
quả, điều này giúp nâng cao an toàn lao động;
d) Hình thành các nhóm lao động dựa trên
các đặc điểm về chuẩn mực của nhóm;
e) Hình thành thái độ trách nhiệm đối với an
toàn lao động.
f) Đảm bảo độ tin cậy của hệ thống.
Áp dụng các nguyên tắc của công thái học
nhằm mục đích điều chỉnh một số khiếm khuyết hoặc
thiết lập các nhiệm vụ an toàn lao động cho máy ngay
từ giai đoạn thiết kế (lắp đặt các thiết bị an toàn, làm
thiết bị phù hợp với các đặc điểm nhân trắc của người
lao động) hoàn thiện môi trường lao động; hoàn thiện
việc bảo dưỡng máy móc và nơi làm việc. Các nguyên
tắc công thái học phải luôn luôn lưu ý tới những khả
năng cũng như giới hạn của thao tác viên.
Tổ chức lao động sẽ giúp xác định được các
điều kiện tối ưu để hệ thống vận hành tốt. Có thể hoàn
thiện sự hợp tác giữa các đơn vị dịch vụ, hoàn thiện
chương trình thông tin về an toàn lao động, bố trí các vị
trí làm việc phù hợp v.v...
Việc tạo ra những điều kiện an toàn lao động
là kết quả sự nỗ lực của các chuyên gia thuộc những
lĩnh vực khác nhau và của bản thân công nhân.
Câu hỏi ôn tập
1. Phân tích ý nghĩa của tính đơn điệu trong
sản xuất và nêu các biện pháp ngăn ngừa tính đơn
điệu?
2. Sự mệt mỏi và cách đánh giá nó trong tâm
lí học lao động?
3. Phân tích quy luật diễn biến của sức làm
việc trong một ngày lao động (hay trong một ca sản
xuất)?
4. Phân tích ý nghĩa của các giờ giải lao trong
sản xuất và nêu những quy luật chung cần tính đến khi
xây dựng chế độ lao động và nghỉ ngơi?
5. Phân tích các nguyên nhân tâm lí ổn định
gây ra các trường hợp bất hạnh trong sản xuất?
6. Phân tích các nguyên nhân tâm lí tạm thời
gây ra các trường hợp bất hạnh trong sản xuất.
7. Cần tạo những điều kiện gì để ngăn ngừa
tai nạn lao động?
Created by AM Word2CHM
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG
1. Phạm Tất Dong. Tâm lí học lao động (Tài
liệu dùng cho học viên cao học) Viện KHGD, 1979
2. M.L Vinngrađốp. Sinh lí học lao động. NXB
Y học,
3. Popescu Elena. Cách trình bày thông tin
trong hệ thống. NXB Dacia, Cluj, 1982 (Tiếng Rumani).
4. Ion Holban. Những vấn đề của Tâm lí học
lao động. NXB khoa học. Bucaret, 1980 (Tiếng
Rumani).
5. Gheorghe Iosif. Chức năng giám sát của
các bản điều khiển. NXB Viện Hàn lâm khoa học,
Bucaret, 1980 (Tiếng Rumani).
6. Gheorghe Iosif (Tâm lí học lao động công
nghiệp. NXB Giáo dục. Bucaret, 1986 (Tiếng Rumani).
7. Turcu Filimon. Sự hình thành năng lực kỹ
thuật. NXB khoa học, 1975 (Tiếng Rumani).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
8. Nguyễn Văn Lê. Khoa học lao động. NXB
Lao động, 1975.
9. Adrian Neculau. Thủ lĩnh trong tính cơ động
của nhóm. NXB Giáo dục, Bucaret, 1987 (Tiếng
Rumani).
10. Trần Trọng Thuỷ. Tâm lí học lao động (Tài
liệu dùng cho học viên cao học) Viện KHGD, 1997.
Created by AM Word2CHM
Chương I. Khái quát về lao động và tâm lí học lao
động
1. Khái niệm lao động
2. Cấu trúc của hoạt động lao động 3. Đinh
nghĩa. đối tượng. nhiệm vụ của TLHLĐ
4. TLHLĐ đối với các chuyên ngành tâm lí học
khác và với các khoa học khác về lao động 5. Sơ lược
lịch sử phát triển của TLHLĐ
6. Các phương pháp của tâm lí học lao động
Chương II. Hệ thống người - máy - môi trường
1. Khái niệm người - máy - môi trường 2. Các
tính chất của hệ thống người – máy - môi trường 3.
Các thuộc tính của hệ thống 4. Các kiến hệ thống
5. Thiết kế hệ thống và việc đánh giá yếu tố
con người 6. Các chức năng do con người thực hiện
trong hệ thống Chương III. Sự thích ứng con người
với những yêu cầu của hệ thống
MỤC LỤC
1. Vấn đề chọn nghề và công tác hướng
nghiệp 2. Phân tích lao động 3. Vấn đề đào tạo nghề
nghiệp 4. Hình thành và phát triển các năng lực nghề
nghiệp 5. Hình thành các kỹ xảo trong lao động công
nghiệp Chướng IV. Sự thích ứng hệ thống với con
người
1. Trình bày thông tin trong hệ thống 2. Các
thiết bị điều khiển 3. Một số số liệu nhân trắc và bố trí
nơi làm việc 4. Môi trường vật lý 5. Môi trường xã hội
Chương V. Sự mệt mỏi, các trường hợp bất hạnh
trong sản xuất và vấn đề an toàn lao động
1. Tính đơn điệu
2. Sự mệt mỏi
3. Sức làm việc.
4. Các giờ giải lao
5. Các trường hợp bất hạnh trong sản xuất và
sự an toàn lao động 6. Ngăn ngừa các trường hợp bất
hạnh trong sản xuất Tài liệu tham khảo ---//---
TÂM LÝ HỌC LAO ĐỘNG
(In lần thứ 3)
Tác giả: ĐÀO THỊ OANH
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
16 Hàng Chuối - Hai Bà Trưng - Hà Nội 
Điên thoại: (04) 9715011 – (04) 9724770 - Fax: (04)
9714899
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Giám đốc: PHÙNG QUỐC BẢO
Tổng biên tập: NGUYỄN BÁ THÀNH
Người nhận xét: TS. NGUYỄN THỊ PHƯƠNG HOA Biên
tập và sửa bản in: PHẠM NGỌC TRÂM
Trình bày bìa: NGỌC ANH
MÃ SỐ: 2K-07/ĐH2008
In 1000 cuốn, khổ 14.5 x 20,5 cm tại Nhà in Đại học
Quốc gia Hà Nội. Số xuất bản: 106-2008/CXB/257-
14/ĐHQGHN, ngày 23/01/2008. Quyết định xuất bản
số: 07KH/XB. In xong và nộp lưu chiểu quý II năm
2008.
Created by AM Word2CHM
Created by AM Word2CHM

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_tam_ly_hoc_lao_dong_dao_thi_oanh.pdf