Văn học Nga - Phùng Hoài Ngọc (Phần 2)

Tóm tắt Văn học Nga - Phùng Hoài Ngọc (Phần 2): ... có một mình anh đứng vững được. Dần dần anh xây dựng nên một gia đình mới, hạnh phúc, có nhà cửa, có vợ hiền và ba đứa con ngoan ngoãn, thông minh. Sang chương II, chiến tranh vệ quốc bùng nổ, Socolov từ giã vợ con ra tiền tuyến. Trong chiến trận, không may anh và nhiều đồng đội bị quân phát...ản ánh thần thoại trong cuộc sống thường nhật. Chính vì lẽ đó mà ông là tài nghệ bậc thầy”. “Trong bất cứ tác phẩm nào mà ông viết, từ “Con tàu trắng” với hình tượng hươu mẹ, hay con lạc đà hoang từ ga xép bão tuyết trong “Một ngày dài hơn thế kỷ”, hay hình tượng phương bắc trong tác phẩm bất... sư pham, nhà lãnh đạo với quần chúng trở nên dấu ấn không phai mờ trong quần chúng. Người đã truyền trí tuệ của mình sang họ thật tự nhiên, không giáo điều mệnh lệnh Mãi sau anh mới biết mình vừa được tiếp chuyện lãnh tụ Lê Nin, anh xúc động nói “ mình phải đi về ngay bao với anh em đồng độ...

pdf74 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 189 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Văn học Nga - Phùng Hoài Ngọc (Phần 2), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 xin phép ông 
như Tầng đầu địa ngục, Trại ung thư, Tháng 8 năm 1914, điều này càng khiến chính 
quyền Xô Viết phản ứng nhưng ông được nhiều người biết đến, nhất là những gì ông 
viết ra đã cho thấy ông là một nhà văn có cái nhìn sắc bén về thời đại ông đang sống.
Năm 1970, A. Solzhenisyn được tặng giải Nobel nhưng ông không đến Thụy 
Điển nhận lễ trao giải vì sợ sau đó không thể trở về nước; hai năm sau ông mới đến 
nhận giải và đọc Diễn văn. Năm 1974, sau khi công bố bản tuyên ngôn “Sống không 
dối trá” và cho in tác phẩm Quần đảo Gulag ở Paris, A. Solzenitsyn bị bắt, bị nhà 
nước Liên Xô tước quyền công dân và bị trục xuất sang Tây Đức, sau đó ông dời sang 
định cư ở Mỹ. 
.Phùng Hoài Ngọc biên soạn153
Năm 1991, trong thời cải tổ, chính quyền Liên Xô chính thức xóa án cho ông. 
Tháng 5 năm 1994 ông trở về sống ở Nga. Năm 2006 ông được tặng giải thưởng nhà 
nước của Liên bang Nga vì những đóng góp xuất sắc trong hoạt động nhân đạo.
 Tác phẩm
Viên trung úy (Лейтенант, 1945), truyện ngắn. 
Ở thành phố M. (В городе , 1945), truyện ngắn. 
Bức thư số 254 (Письмо № 254, 1945), truyện ngắn. 
Khóa 6 (Шестой курс, 1945), truyện vừa. 
Một ngày của Ivan Denisovich (Один день Ивана Денисовича, 1958), truyện 
vừa 
Chuyện ở ga Kotretovka (Случай на станции Кочетовка, 1963), truyện ngắn. 
Ngôi nhà Matriona (Матренин двор, 1963), truyện ngắn. 
Vì lợi ích công việc (Для пользы дела, 1963), truyện ngắn 
Zakhar - Kalita (Захар-Калита, 1966), truyện ngắn 
Xe tăng biết sự thật! (Знают истину танки!, 1963-1967), kịch. 
Ngọn nến trước gió (Свеча на ветру, 1963-1967), kịch. 
Ánh sáng ở trong ngươi (Свет, который в тебе, 1963-1967), kịch. 
Vòng đầu (В круге первом, 1955-1968), tiểu thuyết 
Khu ung thư (Раковый корпус, 1968), tiểu thuyết 
Tháng 8 năm 1914 (Август четырнадцатого, 1971, Paris), truyện dài. 
Quần đảo Gulag (Архипелаг ГУЛаг, in năm 1973, Paris, năm 1990 ở Nga), 
khảo cứu 
Sống không dối trá (Жить не по лжи, 1975), tiểu luận. 
Bánh xe đỏ (Красное колесо, 1971-1991), tiểu thuyết lịch sử, 10 tập 
Bê con húc cây sồi (Бодался телёнок с дубом, in 1975, Paris, 1991 ở Nga), tự 
truyện.

.Phùng Hoài Ngọc biên soạn154
Boris Leonidovich Pasternak
(Борис Леонидович Пастернак)
Boris Leonidovich Pasternak (10 tháng 2, năm 1890- mất 30 tháng 5 năm 1960) là 
một nhà thơ, nhà văn Nga-Xô viết đoạt gGiải Nobel Văn học năm 1958. Ông nổi 
tiếng thế giới với tiểu thuyết Bác sĩ Zhivago (Доктор Живаго), tuy nhiên người Nga 
lại coi trọng nhất là thơ ca của ông, tiêu biểu là tập thơ Chị tôi-cuộc đời (Сестра моя 
- жизнь).
Tiểu sử và văn nghiệp
Cha của Boris Pasternak, ông Leonid Osipovich Pasternak, là một họa sĩ, 
viện sĩ Viện Hàn lâm Nghệ thuật Sankt-Peterburg; mẹ ông, bà Rozaliya Isidorovna 
Pasternak (nhũ danh Kaufman, 1868-1939), là một nghệ sĩ dương cầm. Ông bà 
Pasternak đã chuyển từ Odessa về Moskva năm 1889, một năm trước khi Boris ra 
đời. Boris là con cả, các em ông là Aleksandr (1893-1982), Jozefina (1900-1993) và 
Lidiya (1902-1989). Đến làm khách nhà ông có những họa sĩ, nhạc công, văn sĩ nổi 
tiếng, trong đó có cả Lev Nikolayevich Tolstoi.
 Năm 13 tuổi, do ảnh hưởng nhạc sĩ Aleksandr Nikolayevich Skryabin, 
Pasternak bắt đầu yêu thích âm nhạc và học nhạc trong sáu năm. Năm 1914 in tập 
thơ đầu tiên Người anh em sinh đôi trong mây đen (Близнец в тучах) được công 
chúng đánh giá cao, đến thập niên 1930 ông được coi như một nhà thơ Xô viết hàng 
đầu. Năm 1923 ông cho ra đời tập thơ Những chủ đề và biến tấu (Темы и вариации) 
được đánh giá là đỉnh cao của thơ ông. Pasternak còn là một dịch giả tài năng. Ông 
dịch thơ cổ điển tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Gruzia, đặc biệt các bản 
dịch bi kịch của William Shakespeare được coi là hay nhất trong tiếng Nga.
 Từ năm 1945 đến 1955, Pasternak sáng tác cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất 
của ông, Bác sĩ Zhivago, nhưng không được in ở Liên Xô, đến năm 1957 tác phẩm 
này được xuất bản ở Ý. Cuối năm sau, cuốn sách được dịch ra 18 thứ tiếng. Cũng 
trong năm này, Pasternak là người Nga thứ hai được trao giải Nobel Văn học vì 
những thành tựu ông đã đạt được trong nền thơ trữ tình hiện đại, cũng như vì công 
lao tiếp nối các truyền thống của nền tiểu thuyết sử thi Nga, mà nổi bật nhất là Bác sĩ 
Zhivago. Do những áp lực chính trị, Pasternak buộc phải từ chối nhận giải.
Tác phẩm
• Những bài thơ đầu tay, in trong quyển Thơ trữ tình (Лирика, 1913)
• Người anh em sinh đôi trong mây đen (Близнец в тучах, 1914), thơ
• Phía trên rào cản (Поверх барьеров, 1917), thơ
• Cuộc sống là chị tôi (Сестра моя - жизнь, 1922), thơ
• Thời thơ ấu của Lyuvers (Детство Люверс, 1922), truyện
• Những chủ đề và biến tấu (Темы и вариации, 1923), thơ
• Bệnh cao sang (Высокая болезнь, 1924), trường ca
.Phùng Hoài Ngọc biên soạn155
• Trung úy Smidt (Лейтенант Шмидт, 1926), trường ca
• Đường trên không (Воздушные пути, 1924), truyện
• Chứng chỉ hộ thân (Охранная грамота, 1931), tự truyện.
• Năm chín trăm lẻ năm (Девятьсот пятый год, 1927), trường ca
• Truyện vừa (Повесть, 1929), truyện
• Tái sinh (Второе рождение, 1932), tập thơ
• Trên những chuyến tàu sớm (На ранних поездках, 1943), thơ
• Khoảng bao la trái đất (Земной простор, 1945), thơ
• Bác sĩ Zhivago (Доктор Живаго, 1957), tiểu thuyết
• Con người và cảnh ngộ (Люди и положения, 1957), tự truyện
• Bút kí tiểu sử (Биографический очерк, 1959)
 Một số bài thơ của B. Pasternak
 Giải thưởng Nobel 
Tôi mất hút, sa vào như con thú 
Đâu đó tự do, ánh sáng, con người 
Tiếng thét gào, xua đuổi sau lưng tôi 
Nhưng lối thoát bên ngoài không hiện rõ. 
 *
Khu rừng tối và bên hồ nước 
Gỗ thông già chất đống khắp nơi 
Cả bốn phía chặn bước con đường tôi 
Tôi chịu đựng, dù thế nào cũng được. 
 *
Có phải tôi làm điều chi thô bỉ 
Tôi là tên ác độc, kẻ giết người? 
Tôi chỉ làm cho lệ thế gian rơi 
Trước vẻ tuyệt vời của đất đai quê mẹ. 
.Phùng Hoài Ngọc biên soạn156
Cái chết đã cận kề, nhưng dù thế 
Tôi vẫn tin rồi sẽ đến một thời 
Khi tinh thần thánh thiện sẽ lên ngôi 
Sẽ chiến thắng thói đê hèn, phẫn nộ. 
Быть знаменитым некрасиво
(Làm người nổi tiếng là không đẹp)
 Làm người nổi tiếng là không đẹp 
Đâu phải vì nổi tiếng mới lên cao 
Những giấy tờ, lưu trữ đừng tích cóp 
Trước những trang bản thảo chớ nôn nao. 
 *
Mục đích của sáng tạo là dâng hiến 
Đâu phải vì thành tích, tiếng ồn ào 
Đem biến mình thành những lời truyền miệng 
Cho người đời, thật xấu hổ làm sao. 
 *
Ta cần sống khiêm nhường, không tự bạch 
Phải sống sao, bởi suy xét cho cùng 
Để tiếng gọi tương lai nghe thấy hết 
Nhận về tình luyến ái của không trung. 
 *
Cần phải biết để chừa ra khoảng trống 
Trong số phận mình, không phải trong thơ 
Trong cuộc đời có những chương, những đoạn 
Cần tô đậm lên cho khỏi lu mờ. 
 *
Và phải biết đắm chìm vào quên lãng 
Trong vô danh giấu những bước chân ta 
.Phùng Hoài Ngọc biên soạn157
Như làng mạc ẩn mình trong sương sớm 
Sương khói mịt mù không thể nhìn ra. 
 *
Những kẻ khác theo bước chân sống động 
Bám gót ta đi qua chặng đường mình 
Nhưng đành ngậm ngùi nhìn lên chiến thắng 
Mặc người đời, ta không phải bận tâm. 
 *
Và phải biết không một tấc ngắn ngủi 
Đừng để đánh mất gương mặt con người 
Cần phải sống làm một người sôi nổi 
Và vui tươi cho đến cuối cuộc đời. \
Gió 
 Anh đã chết rồi, em vẫn sống 
Còn gió than phiền, khóc nỉ non 
Gió lay biệt thự, lay rừng rậm. 
Không gì riêng lẻ mỗi cây thông 
Mà gió lung lay cả cánh rừng 
Với tất cả tận cùng xa thẳm 
Như lay những chiếc thuyền buồm 
Trong vũng tàu nước lặng. 
Đấy không phải là tại vì ngạo mạn 
Hay tại vì giận dữ cuồng điên 
Mà để, trong nỗi buồn vô hạn 
Tìm những lời gió hát ru em. 
(Bản dịch của Nguyễn Viết Thắng)
.Phùng Hoài Ngọc biên soạn158
Bác sĩ Zhivago
“Bác sĩ Zhivago”, nguyên văn tiếng Nga: Доктор Живаго, từ Живаго có nghĩa đen 
là "cuộc sống", tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Nga–Xô viết Boris Leonidovich 
Pasternak (1890–1960).
Nhân vật chính của truyện là Yuri Zhivago, một bác sĩ y học và nhà thơ. Truyện kể 
cuộc đời của bác sĩ Zhivago qua những éo le tình ái của ông cùng hai phụ nữ trong 
bối cảnh chung quanh cuộc cách mạng Nga năm 1917.
Truyện này được dựng thành phim năm 1965, do David Lean đạo diễn, diễn viên 
chính là Omar Sharif và Julie Christie.
1 Hoàn cảnh sáng tác 
2 Tóm tắt nội dung 
Hoàn cảnh sáng tác
Bối cảnh truyện Bác sĩ Zhivago nằm vào khoảng 1910 - 1920, nhưng 
Pasternak hoàn tất vào khoảng 1956. Vì ông có vấn đề với chính phủ Xô viết lúc bấy 
giờ nên truyện này không được xuất bản. Năm 1957 bản thảo của truyện được tuồn ra 
ngoài Liên Xô và in ra sách tiếng Nga tại Ý (nhà xuất bàn Feltrinelli). Năm sau có ấn 
bản tiếng Ý và tiếng Anh. Pasternak nhờ đó mà được đề nghị nhận giải Nobel văn 
chương năm 1958, nhưng chính quyền Xô viết bấy giờ ép ông phải từ chối nhận giải 
thưởng này. Mãi đến 1988, sách truyện Bác sĩ Zhivago mới được cho in và xuất bản 
tại Nga.
Tóm tắt nội dung
Khởi đầu truyện là phần giới thiệu Yuri Andreievich Zhivago lúc 10 tuổi đi 
đám tang của mẹ. Sau đó Yuri học y khoa, bắt đầu làm thơ, rồi cưới vợ tên là Tonya. 
Truyện sau đó giới thiệu Larisa Fyodorovna (Lara) ở tuổi dậy thì, sống với bà mẹ 
góa phụ khi bà này làm công cho chủ hãng may tên Komarovsky. Komarovsky dụ dỗ 
và hiếp dâm Lara. Trong cơn tủi nhục cuồng nộ, nàng lấy súng bắn Komarovsky tại 
một buổi tiệc giáng sinh nhưng không may lại bắn trúng một người khác. Nàng sau 
đó kết hôn người tình đầu của mình là Pavel Pavlovich (Pasha).
Kế đến truyện dẫn vào thời kỳ chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Yuri tòng 
quân với tư cách bác sĩ quân y. Pasha rời vợ và con gái (Tanya) theo quân đội và bị 
mất tích. Lara tình nguyện làm y tá với hy vọng tìm kiếm tông tích chồng. Khi Yuri 
vào thăm vợ khi nàng sanh đứa con trai đầu lòng thì gặp cô y tá Lara. Hai người có ý 
thầm yêu nhau nhưng không dám tỏ lời. Vào lúc này phong trào cách mạng bắt đầu 
nổi dậy tại .
Chiến tranh bùng nổ khắp nơi, Yuri và Lara được bổ nhiệm công tác chung 
tại một nhà thương ở tỉnh nhỏ xa xôi. Yuri bị thôi thúc bởi những cảm tình cho Lara. 
Chàng tâm sự với Tonya và Tonya nghi ngờ rằng Yuri cùng Lara đã ngoại tình. Mùa 
đông đến, đời sống trở nên chật vật vì thiếu thức ăn và dịch lỵ lan tràn. Sau cuộc 
chiến, Yuri trở về chức vị bác sĩ cũ tại nhà thương ở Moskva. Vì cá tính lãng mạn 
chàng thường bị các đồng nghiệp bolshevik bài bác là thiếu logic và tinh thần cách 
mạng. Giữa các cuộc xung đột chống chủ nghĩa Marx nổ ra, Yuri cùng gia đình dời 
về Urals. Trên xe lửa của chuyến đi này, Yuri nhận thức được nỗi khổ của nông dân 
.Phùng Hoài Ngọc biên soạn159
và tù binh, những nạn nhân của cuộc chiến cách mạng. Chàng yêu chuộng tự do và 
bình quyền, nhưng bất mãn với những hành động hay ý kiến quá cứng rắn và thiếu 
tình người của những người theo cách mạng.
Tại Urals, Yuri cùng gia đình khai đất làm ruộng. Chàng trở lại với sở 
nguyện làm thơ. Tại thư viện làng, chàng gặp lại Lara. Hai người ngoại tình và cùng 
sống cuộc đời vụng trộm yêu đương tột đỉnh. Lara lúc bấy giờ biết Pasha còn sống và 
hiện là một tay trùm Đỏ khét tiếng với tên mới Strelnikov. Yuri muốn trở vế với vợ để 
thú tội ngoại tình nhưng không may bị một nhóm quân cách mạng bắt cóc và phải 
phục vụ như bác sĩ của nhóm này. Sau vài năm, Yuri trốn thoát và trở lại với Lara. 
Để tránh không bị điềm chỉ, cặp tình nhân bỏ trốn sang một nông trại khi xưa gia 
đình Yuri từng canh tác. Yuri tiếp tục làm thơ - bày tỏ tâm sự của chàng về những 
thăng trầm của đời sống, những lo sợ và lòng can đảm trong chiến tranh và hơn hết 
là tình yêu dành cho Lara. Trong khi đó có tin vợ Yuri là Tonya và con gái chàng bị 
bắt đuổi ra khỏi Nga. Chẳng bao lâu sau đó, Komarovsky, kẻ đã từng hãm hiếp Lara 
khi xưa, xuất hiện. Hắn hăm dọa rằng quân cách mạng đang truy lùng Yuri và Lara 
và sẽ giết cả hai nếu bắt dược. Hắn hứa giúp đưa Yuri và Lara trốn ra nước ngoài. 
Yuri đắn đo một hồi lâu và kết cuộc vì vấn đề an toàn cho Lara, chàng quyết định để 
Lara ra đi một mình. Yuri ở lại Nga và bắt đầu say sưa uống rượu giải sầu.
Strelnikov, chồng của Lara lúc bấy giờ đang chạy trốn vì bị chính phủ cách 
mạng truy lùng. Y tìm ra Yuri và sau khi biết chuyện Lara ngoại tình, bèn tự sát.
Yuri trở lại Moskva và sinh sống cùng một phụ nữ tên Marina và kiếm sống 
bằng cách viết sách. Em của chàng tìm cho chàng một chức vụ bác sĩ nhưng trên 
đường đi làm, chàng bị đứng tim mà chết. Lara, từ Irkutsk lên Moskva và tình cờ đi 
tới nhà liệm thấy xác Yuri còn nằm đó. Sau đó vài ngày, nàng mất tích, có người cho 
rằng nàng bị bắt đi trại tập trung cải tạo. (♣)

(♣) Các bản dịch tiếng Việt gồm Vĩnh biệt tình em, Nguyễn Hữu Hiệu dịch, Sài Gòn 
(trước 1975) Bác sĩ Zhivago, Lê Khánh Trường dịch, in trong Boris Pasternak, con 
người và tác phẩm, Nxb Tp Hồ Chí Minh, 1988.
.Phùng Hoài Ngọc biên soạn160
Phụ lục 3: Nguyên tác một số bài thơ
Tác giả : Lermontov
Bài : Cái chết của nhà thơ 
1824
 СМЕРТЬ ПОЭТА
 Погиб Поэт! - невольник чести - 
 Пал. оклеветанный молвой, 
 С свинцом в груди и жаждой мести, 
 Поникнув гордой головой !.. 
 Не вынесла душа Поэта 
 Позора мелочных обид, 
 Восстал он против мнений света 
 Один, как прежде... и убит! 
 Убит!, к чему теперь рыданья, 
 Пустых похвал ненужный хор 
 И жалкий лепет оправданья ? 
 'Судьбы свершился приговор! 
 Не вы ль сперва так злобно гнали 
 Его свободный, смелый дар 
 И для потехи раздували 
 Чуть затаившийся пожар? 
 Что ж? веселитесь... он мучений 
 Последних вынести не мог: 
 Угас, как светоч, дивный гений, 
 Увял торжественный венок. 
 Его убийца хладнокровно 
.Phùng Hoài Ngọc biên soạn161
 Навел удар... спасенья нет: 
 Пустое сердце бьется ровно, 
 В руке не дрогнул пистолет. 
 И что за диво ?, издалека, 
 Подобный сотням беглецов, 
 На ловлю счастья и чинов 
 Заброшен к нам по воле рока; 
 Смеясь, он дерзко презирал 
 Земли чужой язык и нравы; 
 Не мог щадить он нашей славы; 
 Не мог понять в сей миг кровавый, 
 На что он руку поднимал!.. 
 И он убит - и взят могилой, 
 Как тот певец, неведомый, но милый, 
 Добыча ревности глухой, 
 Воспетый им с такою чудной силой, 
 Сраженный, как и он, безжалостной рукой. 
 Зачем от мирных нег и дружбы простодушной 
 Вступил он в этот свет завистливый и душный 
 Для сердца вольного и пламенных страстей? 
 Зачем он руку дал клеветникам ничтожным, 
 Зачем поверил он словам и ласкам ложным, 
 Он, с юных лет постигнувший людей?.. 
 И прежний сняв венок - они венец терновый,, 
 Увитый лаврами, надели на него: 
 Но иглы тайные сурово 
 Язвили славное чело; 
 Отравлены его последние мгновенья 
.Phùng Hoài Ngọc biên soạn162
 Коварным шепотом насмешливых невежд, 
 И умер он - с напрасной жаждой мщенья, 
 С досадой тайною обманутых надежд. 
 Замолкли звуки чудных песен, 
 Не раздаваться им опять: 
 Приют певца угрюм и тесен, 
 И на устах его печать. 
 А вы, надменные потомки 
 Известной подлостью прославленных отцов, 
 Пятою рабскою поправшие обломки 
 Игрою счастия обиженных родов! 
 Вы, жадною толпой стоящие у трона, 
 Свободы, Гения и Славы палачи! 
 Таитесь вы под сению закона, 
 Пред вами суд и правда -- все молчи!.. 
 Но есть и божий суд, наперсники разврата! 
 Есть грозный суд: он ждет; 
 Он не доступен звону злата, 
 И мысли и дела он знает наперед. 
 Тогда напрасно вы прибегнете к злословью: 
 Оно вам не поможет вновь, 
 И вы не смоете всей вашей черной кровью 
 Поэта праведную кровь! 
 (1837)
.Phùng Hoài Ngọc biên soạn163
Tác giả: Nieckrasov
Bài: Замолкни, Муза мести и печали !
(Thôi im đi, Nàng Thơ đau khổ)
Замолкни, Муза мести и печали! 
Я сон чужой тревожить не хочу, 
Довольно мы с тобою проклинали. 
Один я умираю - и молчу. 
*
К чему хандрить, оплакивать потери? 
Когда б хоть легче было от того! 
Мне самому, как скрип тюремной двери, 
Противны стоны сердца моего. 
*
Всему конец. Ненастьем и грозою 
Мой темный путь недаром омрача, 
Не просветлеет небо надо мною, 
Не бросит в душу теплого луча... 
*
Волшебный луч любви и возрожденья! 
Я звал тебя - во сне и наяву, 
В труде, в борьбе, на рубеже паденья 
Я звал тебя,- теперь уж не зову! 
Той бездны сам я не хотел бы видеть, 
Которую ты можешь осветить... 
То сердце не научится любить, 
Которое устало ненавидеть.
(3 декабря 1855)
.Phùng Hoài Ngọc biên soạn164
Tác giả : Isakovski 
 Bài: Katyusa
 Пусть фриц помнит русскую «катюшу», 
Пусть услышит, как она поет 
Из врагов вытряхивает души, 
А своим отвагу придает!) 
*
Отцветали яблони и груши, 
Уплыли туманы над рекой. 
Уходила с берега Катюша, 
Уносила песенку домой.
 Tác giả : Pasternak
Bài: Нобевлеская премия 
 (Giải Nobel)
Я пропал, как зверь в загоне. 
Где-то люди, воля, свет, 
А за мною шум погони, 
Мне наружу ходу нет. 
 *
Темный лес и берег пруда, 
Ели сваленной бревно. 
Путь отрезан отовсюду. 
Будь что будет, все равно. 
 *
Что же сделал я за пакость, 
Я убийца и злодей? 
Я весь мир заставил плакать 
Над красой земли моей. 
 *
Но и так, почти у гроба, 
Верю я, придет пора - 
.Phùng Hoài Ngọc biên soạn165
Силу подлости и злобы 
Одолеет дух добра. 
Быть знаменитым некрасиво. 
Не это подымает ввысь. 
Не надо заводить архива, 
Над рукописями трястись. 
 *
Цель творчества - самоотдача, 
А не шумиха, не успех. 
Позорно, ничего не знача, 
Быть притчей на устах у всех. 
 *
Но надо жить без самозванства, 
Так жить, чтобы в конце концов 
Привлечь к себе любовь пространства, 
Услышать будущего зов. 
 *
И надо оставлять пробелы 
В судьбе, а не среди бумаг, 
Места и главы жизни целой 
Отчеркивая на полях. 
 *
И окунаться в неизвестность, 
И прятать в ней свои шаги, 
Как прячется в тумане местность, 
Когда в ней не видать ни зги. 
 *
Другие по живому следу 
.Phùng Hoài Ngọc biên soạn166
Пройдут твой путь за пядью пядь, 
Но пораженья от победы 
Ты сам не должен отличать. 
 *
И должен ни единой долькой 
Не отступаться от лица, 
Но быть живым, живым и только, 
Живым и только до конца. 
Ветер (Gió) 
Я кончился, а ты жива. 
И ветер, жалуясь и плача, 
Раскачивает лес и дачу. 
Не каждую сосну отдельно, 
А полностью все дерева 
Со всею далью беспредельной, 
Как парусников кузова 
На глади бухты корабельной. 
И это не из удальства 
Или из ярости бесцельной, 
А чтоб в тоске найти слова 
Тебе для песни колыбельной. 

.Phùng Hoài Ngọc biên soạn167
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Anh Ngọc dịch, 1982, Thơ Block và Esenin, Hà Nội, Nxb Văn học.
2. Cao Xuân Hạo và Phạm Mạnh Hùng dịch, 1976, Chiến tranh và hòa bình, 4 
tập 
 L.Tostoi, Hà Nội, Nxb Văn học.
3. Cao Xuân Hạo, Phạm Mạnh Hùng dịch, 2004, Thép đã tôi thế đấy.N. 
Ostrovski, 
 tuyển tập truyện ngắn. Hà Nội. Nxb Văn học. 
4. Hoàng Tôn dịch, 1999, Tuyển tập tác phẩm văn xuôi Pushkin, Hà Nội, Nxb 
Văn học .
5. Hoàng Ngọc Hiến, Nguyễn Kim Đính, Huy Liên, 1982, Lịch sử văn học Xô 
viết, 
 Hà Nội, Nxb ĐH&THCN.
6. Hoàng Ngọc Hiến, 1989, Văn học Xô viết những năm gần đây, Hà Nội, Nxb 
Giáo dục.
7. Hồ Ngọc dịch, 1987, Tuyển tập kịch, Hà Nội, Nxb Sân khấu .
8. Nhị Ca, Dương Tường dịch, 2003, Anna Karenina, L.Tostoi, Hà Nội, Nxb Văn 
 học. 
9. Nguyễn Hải Hà, Đỗ Xuân Hà, Nguyễn Ngọc Ảnh, 2003, Lịch sử văn học Nga 
 thế kỷ XIX, Hà Nội, Nxb Giáo dục. 
10. Nguyễn Hồng Chung, 1979, Puskin nhà thơ Nga vĩ đại, Hà Nội, Nxb ĐH 
&THCN 
11.Nguyễn Thụy Ứng dịch, 1983, Sông Đông êm đềm, M.Solokhov, (8 tập), Hà Nội,
 Nxb Tác phẩm mới.
12. Nguyễn Thụy Ứng, dịch 1978, Lịch sử văn học Xô viết, Melich Nubarov, Hà 
Nội, Nxb Giáo dục.
13. Phạm Mạnh Hùng dịch, 1984, Quy luật của muôn đời, N.Dumbatze, Hà Nội, 
 Nxb Văn học. 
14. Thúy Toàn dịch, 1998, Thơ Lermontov, Hà Nội, Nxb Văn học. 
15. Thúy Toàn dịch, 1996, Cỗ xe tam mã Nga, Hà Nội, Nxb Thế giới .
 16. Một số tạp chí Văn học, báo Văn nghệ từ 1988-2008

Bìa 1 : Bức tranh màu « Mùa thu vàng » của họa sĩ Nga Levitan
Bìa 2 : Bức ảnh cung điện Kremlin ở thủ đô Moskva 
 Cẩn bút, hoàn thành tháng 12 năm 2008 
Phùng Hoài Ngọc
.Phùng Hoài Ngọc biên soạn168

File đính kèm:

  • pdfvan_hoc_nga_phung_hoai_ngoc_phan_2.pdf