Tài liệu Tâm lý và huấn luyện cơ cấu và năng động - Nguyễn Ngọc Kính
Tóm tắt Tài liệu Tâm lý và huấn luyện cơ cấu và năng động - Nguyễn Ngọc Kính: ...g trai 25 tuổi không thể giải thích tại sao anh không thể quan hệ tính dục với cô bạn gái trọn vẹn được: Khi vừa "thâm nhập” thì không còn cương cứng được nữa. Anh ta cũng gặp rắc rối như thế khi quan hệ với những cô gái khác, mặc dù anh vẫn thèm khát quan hệ tính dục với người khác phái và kh... bàn đến những khía cạnh sẽ được tìm hiểu một cách cặn kẽ hơn trong các chương khác. a. Cơ Chế Tự Vệ Vấn đề này sẽ được tìm hiểu trong chương 4 khi bàn về cơ chế tự vệ. Ở đây, chúng ta chỉ ghi nhận rằng cách chúng ta nhận biết thực tại nội giới và ngoại giới chịu ảnh hưởng của những cơ chế tự ...ững biểu tượng cá nhân, qua đó mỗi người gán cho thực tại một ý nghĩa riêng. Nên lưu ý là sự nối kết giữa ý nghĩa và biểu tượng không do sự tương đồng khách quan, nhưng do sự tương đồng cảm xúc của một hình ảnh. Đó là sự khác biệt giữa khái niệm và biểu tượng. Khái niệm biểu thị sự đồng nhất v...
trên đây còn để lại những nghi ngại nhất định. Khẳng định về ký ức (điểm b) thì mơ hồ. Trong lô-gic phân tâm học, hồi tưởng hay nhớ lại mang một ý nghĩa khác: Đó là sống lại cảm giác mà mình đang nhớ hơn là sống lại sự kiện thật sự đã xảy ra. Thật vậy, một trong những khám phá chính của Freud là tầm quan trọng của tưởng tượng. Trong những buổi tâm lý trị liệu đầu tiên, ông kinh ngạc vì nhiều bệnh nhân nữ đã kể lại "những ký ức" về lạm dụng tính dục mà họ đã chịu trong thời thơ ấu. Sau khi điều tra, ông mới biết đó là những chuyện bịa đặt. Họ nói thế không phải vì dối trá; những chấn thương của họ không do việc lạm dụng tính dục, nhưng phát xuất do một tình huống trong đó họ có những tưởng tượng ấu trĩ về lạm dụng tính dục. Chính vì sức mạnh của trí tưởng tượng, người ta không xem sự kiện là quan trọng, nhưng cách sống sự kiện đó mới quan trọng, dù có thực hay chỉ tưởng tượng. Như thế, trong tương quan hiện tại-quá khứ, điều quan trọng không phải là sự kiện: Cũng có thể là sự kiện đã không xảy ra. Điều quan trọng là tình trạng tâm linh hiện nay của chủ thể, bởi chủ thể là người giải thích quá khứ. Bởi vậy, điều khiến chủ thể thay đổi không phải là đưa sự kiện quá khứ về lại vùng ý thức, nhưng là ý thức của chủ thể về việc mình đang sống quá khứ như thế nào. Chúng ta không thể can thiệp vào quá khứ để thay đổi nó được, nhưng chúng ta có thể thay đổi cách thức chúng ta sống cái quá khứ ấy. Khẳng định về việc ức chế cũng là vấn đề còn phải bàn luận (điểm c). Chúng ta đặt câu hỏi như Macintyre đã từng nêu ra: "Khi có sự ức chế, chúng ta có thể quan sát được không? ". Nếu chúng ta nói: "Tôi có một cảm xúc quan trọng bị ức chế", bấy giờ đâu còn sự ức chế nữa. Sự ức chế không thể quan sát được: Chúng ta chỉ có thể biết một kinh nghiệm đã bị ức chế nhờ hành vi và cảm xúc đến sau kinh nghiệm đó. Vì thế, khi chúng ta khẳng định là mình đã bị ức chế, thì khẳng định đó còn tùy thuộc kinh nghiệm quá khứ của chúng ta. Tuy nhiên, khi nói rằng tôi đã có một kinh nghiệm, thì điều đó đâu ám chỉ kinh nghiệm đó là nguyên nhân của kinh nghiệm hiện nay. Người ta có thể rất xao xuyến khi nhớ lại một sự kiện quá khứ, nhưng nỗi xao xuyến đó có thể cũng tan biến. Họ đã ức chế ký ức đó. Trong trường hợp đó có thể có một quan hệ giữa ký ức và sự xao xuyến, nhưng không đương nhiên là quan hệ nhân quả. Nhờ vô thức, chúng ta chỉ có thể lý giải sự liên tục giữa thời thơ ấu và đời sống trưởng thành, chứ không giải thích được sự nhân quả tất yếu. Cuối cùng, chính khung quy chiếu cũng mơ hồ. Quả thực, có một sự thay đổi từ thời thơ ấu đến tuổi trưởng thành, ngay cả khi không xảy ra điều gì khác thường. Toàn thể số phận con người không thể bị giới hạn trong những năm đầu tiên của cuộc đời. Để làm sáng tỏ mối quan hệ hiện tại-quá khứ, chúng ta phải nghiên cứu theo chiều dọc, tức là quan sát một nhóm người từ đầu cho đến cuối thời gian chúng ta muốn nghiên cứu. Rất ít công trình nghiên cứu theo chiều dọc về lứa tuổi vị thành niên và trưởng thành, bởi vì người ta gặp không ít khó khăn khi nghiên cứu theo phương pháp này: Người ta phải mất một thời gian dài để thu thập dữ liệu; sau khi đánh giá lần đầu, nhiều đối tượng biến mất, từ chối cộng tác hay đã chết... Những khó khăn đó đã khiến các nhà khoa học thích nghiên cứu theo chiều ngang, tức là nghiên cứu các đối tượng khác nhau theo từng nhóm, mỗi nhóm tiêu biểu cho một độ tuổi nhất định. Họ chỉ nghiên cứu một lần mà thôi và xem sự khác biệt tuổi tác là nguyên nhân đưa tới những khác biệt giữa các nhóm. Để có thể so sánh, các nhóm phải có những đặc tính chung: Cùng một môi trường, đặc điểm cá nhân, và vân vân. Những yếu tố này khó có thể kiểm tra được. Tuy vậy, bất chấp mọi trở ngại, các nhà nghiên cứu cũng đã thực hiện được những nghiên cứu theo chiều dọc đáng tin cậy. Maddi đã liệt kê và mô tả những công trình này trong bộ sách của ông. Độc giả có thể tham khảo nếu muốn. Thêm vào đó, chúng ta còn có một công trình nghiên cứu khổng lồ của Vaillant về sức khỏe tâm thần. Ông cũng nghiên cứu theo chiều dọc, bởi vì các đối tượng mà ông nghiên cứu trong vòng 30 năm cùng thuộc phái nam. Từ những nghiên cứu đó, kết luận sau đây của Maddi được xem là chính xác: "Qua các nghiên cứu theo chiều dọc về tuổi trưởng thành và vị thành niên, chúng ta thấy rõ bằng chứng của sự thay đổi. Chúng ta có lý khi kết luận họ đã có một vài thay đổi triệt để trong nhân cách. Đôi khi chúng ta không thể dựa vào nhân cách có trước để dự đoán nhân cách sau này; sự tiến hóa theo hình xoắn ốc đôi khi làm đảo lộn chiều hướng. Tôi nhất trí với quan điểm của nhiều nhà chuyên môn về sự phát triển con người". Neugarten cũng đưa ra kết luận tương tự: Giữa hiện tại và quá khứ có nhiều liên tục cũng như thay đổi. 2. Ý Nghĩa Của Việc Lý Giải Theo Tâm Lý Dựa trên lô-gic nhân quả tự nhiên, Bochenski đã liệt kê những điều kiện nhằm làm sáng tỏ một hiện tượng nhất định: - Điều kiện đủ: A là điều kiện đủ cho B, khi chúng ta nói "nếu có A thì cũng có B". Nếu có A, ắt cũng có B. - Điếu kiện tất yếu: Nếu có B, thì cũng có A. Nếu không có A, ắt sẽ không có B. A là nguyên nhân đặc biệt. - Điều kiện đủ và tất yếu: "A chính là B.” Theo lược đồ nhân quả đó, một sự kiện được lý giải khi nó bắt nguồn trực tiếp từ một sự kiện khác hay khi nó được xác định bởi sự kiện đi trước. Trong lãnh vực tâm linh, chúng ta không thể giải thích những gì đang xảy ra theo định luật nhân quả như các khoa học thuần thuỷ hay y học, mà chỉ có thể giải thích trong một giới hạn rất hẹp của hành động- phản ứng. Không thể quy kết triệu chứng gọi là nhiễu loạn thần kinh cho một sự thất đoạt mà thôi: Nhiều sự thất đoạt (như phức cảm Oedipus) cũng gặp thấy nơi người trưởng thành và không đương nhiên gây ra triệu chứng nhiễu loạn thần kinh. Chúng ta không thể chứng minh được rằng một hậu quả nhất định là lối thoát của một quá khứ. Kết quả tối đa mà chúng ta có thể tìm thấy trong quá khứ là những xu hướng tổng quát, chúng chi phối sự phát triển sau này của con người. Ví dụ: Khi một người liên kết việc sợ bề trên và sự xung đột với cha mình thời thơ ấu, điều đó chỉ muốn nói đó là mối liên lạc có thể chấp nhận được trong trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, chúng ta không thể dựa vào đó mà thiết lập một quy tắc tổng quát như thế này: Những người cha khắt khe luôn luôn làm cho con cái mình sợ bề trên. Ngoài ra, chúng ta có nhiều cách giải thích một triệu chứng và đôi khi những cách giải thích ấy mâu thuẫn nhau (những cách giải thích khác nhau về đồng tính luyến ái, trầm cảm, sự ái kỷ). Mỗi cách giải thích đều được hậu thuẫn bởi những yếu tố khách quan được suy diễn từ việc nghiên cứu những đối tượng trong hoàn cảnh cụ thể, nhưng các lý lẽ nguỵ biện cũng cung cấp dữ liệu hậu thuẫn cho các quan điểm khác. Bởi vậy, khi nhà tâm lý nói đến nguyên nhân, thì từ này không được hiểu theo nghĩa hẹp, tức là những điều kiện thường đi trước một hành động mà người ta khảo sát kỹ lưỡng, mà phải hiểu theo nghĩa rộng, tức là "những lý do": Toàn bộ những lý do khiến cho một hành động khả dĩ hiểu được. Lối lý giải thứ nhất thì theo định luật nhân quả, lối lý giải thứ hai thì theo tâm lý: Nhà tâm lý có thể phân lập những sự liên hệ thỏa đáng, nhưng không vượt ngoài giới hạn của việc quan sát những nhân tố khả dĩ đã xảy ra (nhưng không tất yếu). Vì thế, những kết luận của họ không phải là quy luật cho mọi trường hợp và cũng không thể sử dụng như một định luật nhân quả để giải thích những điểm đặc thù trong tình trạng hiện nay. Cho dù những nhân tố đó có thể là những yếu tố quyết định, nhưng chúng thay đổi nhiều từ người này sang người khác. Mọi nhà tâm lý chiều sâu nhất thiết phải noi gương trực giác của Freud, nhưng không buộc phải đưa ra những kết luận giống như Freud. Theo cách lý giải của khoa tâm lý về những yếu tố quyết định, mối quan hệ hiện tại-tương lai được giải quyết theo cách này: Qua lý luận theo định luật nhân quả, người ta có thể giữ lại cái trực giác cơ bản: Những thái độ và cách phản ứng hiện nay có thể chịu ảnh hưởng của những phản ứng và kinh nghiệm quá khứ. Vì thế, dưới ánh sáng của những kinh nghiệm quá khứ, người ta có thể giải thích được tác phong khó hiểu hiện nay, bởi vì những kinh nghiệm đó có thể chi phối chủ thể qua những cơ chế vô thức. Tuy nhiên, vẫn có khác biệt giữa sự chi phối và sự khống chế mà chủ thể không thể tránh được. Quá khứ đóng vai trò như một nhân tố định hướng: Vì những kinh nghiệm dồi dào và đầy cảm xúc trong quá khứ, chủ thể có một loại phản ứng đặc biệt. Sự độc đáo trong phản ứng của chủ thể tạo nên một kiểu cảm ứng nhất định, và cuối cùng sẽ đưa tới một kết quả nhất định. - Cùng với nhân tố định hướng của quá khứ, chủ thể còn có những nhân tố khác kết hợp chặt chẽ với nhân tố định hướng. Đó là những nhân tố thúc đẩy (precipitating factors) trong hiện tại: Đó là những biến cố đặc thù (gọi là biến cố đau thương), chúng có vẻ thả lỏng cho một số phản ứng nào đó. Có nhiều loại nhân tố thúc đẩy khác nhau: Một thất bại, những trở ngại, ảo tưởng, một cuộc đấu tranh, v.v... Chúng ta không bao giờ có thể khẳng định cách tuyệt đối rằng những biến cố đau thương là nguyên nhân duy nhất đưa tới hành vi hiện nay. Tất cả chúng ta đều đau đớn vì ảo tưởng, nhưng không phải mọi người đều phản ứng cách ấu trĩ. - Ngoài ra, cách giải thích của chủ thể về biến cố đau thương đó cũng quan trọng. Đó là ý nghĩa biểu tượng và cảm xúc mà chủ thể gán cho biến cố đó dựa trên nhu cầu, sự lo sợ và kỳ vọng của mình. Chính vì thế mà biến cố đó mang tính chất đau thương. Đây là điểm mà chúng ta có thể can thiệp. - Ảnh hưởng của quá khứ càng lớn, khi quá khứ bị ức chế. Về phương diện này, những dữ liệu mà các nhà khoa học thu lượm được có thể tóm tắt như sau: a) Những biến cố xảy ra sớm trong thời thơ ấu thì có nhiều ảnh hưởng hơn những biến cố xảy ra muộn thời. Đây không chỉ là lý do thời gian, mà còn bởi lý do khác: Những biến cố xảy ra sớm trong thời thơ ấu nối liền với những biến tố trong quá trình phát triển. Những biến tố này chưa được kết cấu và chưa có trật tự, nên chúng dễ bị ảnh hưởng. Những biến cố thời thơ ấu tự chúng thì không quan trọng, nhưng chỉ quan trọng khi chúng liên kết với một loại cơ cấu đặc thù, cơ cấu này còn dễ uốn nắn và rất dễ bị ảnh hưởng. b) Người ta chưa thể chứng minh được điều này: Để phát triển bình thường về mặt xã hội (nhất là trong lãnh vực luân lý và tâm lý tính dục) chủ thể cần phải tương quan tốt với cha mẹ. Kohlberg đưa ra kết luận đó sau khi điểm qua những tác phẩm liên quan. Rulla cũng đi tới kết luận tương tự trong nghiên cứu về sự trưởng thành tôn giáo: Những người tương quan tốt với cha mẹ không đương nhiên trưởng thành hơn về nhân cách và ơn gọi. c) Dầu sao đi nữa, nếu chủ thể không tương quan tốt với cha mẹ, sự trưởng thành của người đó bị chậm lại cho dầu mối tương quan đó không đương nhiên đưa tới sự thiếu trưởng thành. Nếu gom hai dữ liệu b và c lại với nhau, chúng ta có thể nói rằng: Mối quan hệ tiêu cực với cha mẹ gây thiệt hại cho chủ thể, nhưng mối quan hệ tích cực không phải lúc nào cũng làm lợi cho người đó. d) Mối tương quan tồi tệ với cha mẹ cản trở sự trưởng thành của chủ thể, nhất là khi tương quan đó bị ức chế và được lý tưởng hóa mà chủ thể không ý thức. Nếu chủ thể phủ nhận mối quan hệ tồi tệ với cha mẹ và sống trong sự lạc quan lý tưởng hóa, sự phát triển của họ sẽ bị tác hại nhiều hơn; nhưng nếu chủ thể thẳng thắn chấp nhận thực tại tiêu cực đó, sự phát triển chắc chắn sẽ ít bị tác hại hơn. e) Những người kém trưởng thành thường ức chế và liên tục bóp méo quá khứ. Vì thế, họ tạo nên một vòng tròn giữa hiện tại và quá khứ. Tóm lại, con người là một đứa trẻ của quá khứ, nhưng không bị quá khứ không chế hoàn toàn. Chúng ta không xem xét mối tương quan đó dưới nhãn quan của định luật nhân quả, nhưng dưới những yếu tố quyết định thỏa đáng. Yếu tố chính không phải là yếu tố xã hội, nhưng là yếu tố nhận thức-cảm xúc: Những ảnh hưởng xã hội được sắp xếp và sàng lọc bởi cấu trúc bản ngã, vốn trổi vượt hơn yếu tố xã hội. Trưởng thành nhận thức-cảm xúc là nhân tố định đoạt sự phát triển. Để có sự trưởng thành đó chúng ta phải liên tục tái tổ chức thực tại và xây dựng một hình ảnh bản thân ổn định và thiết thực. 3. Tự Do Và Tất Định Với cách lý giải tâm lý về mối quan hệ giữa hiện tại và quá khứ, con người được giải thoát khỏi sự tất định tuyệt đối. Theo thuyết này, đời sống tâm linh con-người bị định đoạt bởi những nguyên nhân đi trước hơn là bởi ý muốn lý tính. Ví dụ: Trước khi Paul quyết định trở thành luật sư và John quyết định trở thành kỹ sư, quyết định của họ đã được định đoạt rất sớm rồi. Qua việc giáo dục họ đã tiếp thu, qua việc đồng hóa với những nhân vật quan trọng, v.v... cả Paul lẫn John đều không thể quyết định cách nào khác. Những chọn lựa của họ phản ánh hoạt động của những thế lực đi trước. Trái lại, khi chúng ta tin con người có tự do, chúng ta đặt niềm tin vào tầm quan trọng của ý chí. Nếu Paul và John tự do chọn lựa theo cách khác thì tình hình có thể khác. Tuy nhiên, chúng ta không thể khảo sát tự do và tất định một cách thực nghiệm được. Khả thể tương lai (họ có thể hành động theo cách khác không thì không thể chứng minh được. Chúng ta chỉ có thể đưa ra một vài giải thích đáng tin cậy mà thôi: Chúng ta không bao giờ bác bỏ khả năng có thể (possibility) của sự tất định, nhưng chỉ bác bỏ khả năng chắc chắn (probability) của sự tất định. Vì thế, đối với tâm lý học thì vấn đề tất định-tự do vẫn còn bỏ ngỏ, thậm chí ít được quan tâm. Sau khi khảo sát các học thuyết và những công trình nghiên cứu trong thế kỷ này, Furlong kết luận: "Không học thuyết nào đã thành công trong việc bác bỏ nhu cầu phải có một yếu tố tương đối độc lập, nẩy sinh một cách nào đó từ sự tất định sinh học. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể giải thích thấu triệt làm sao tự do có mặt trong vũ trụ tất định." Chọn lựa giữa hai cực đó hẳn là một hành động đức tin mà chúng ta không bao giờ có thể chứng minh cho đủ được. Bởi vậy, vấn đề không phải là chọn lựa giữa sự tất định và tự do, nhưng là mức độ của hai yếu tố đó. Tin vào thuyết tất định hoàn toàn hay tin vào sự tự do trọn vẹn đều là ảo tưởng. Chúng ta cũng không thể ứng dụng định luật nhân quả cho tương quan giữa di truyền và hành vi. Một đặc điểm tâm lý mà chúng ta thừa hưởng không đương nhiên sẽ biểu hiện nơi hành vi. Ví dụ: Năng khiếu nghệ thuật có tính di truyền không đương nhiên biến thành hoạt động nghệ thuật. Giữa tiềm năng bẩm sinh và hành vi có một biến tố tâm lý, biến tố đó đóng một vai trò quan trọng đối với hành vi của con người. Điều đó muốn nói rằng chính chủ thể là tác giả biên soạn lại toàn bộ thông tin mà mình đã tiếp nhận. Xu hướng di truyền chỉ là một trong những thông tin đó. Việc chim xây tổ liên quan trực tiếp đến cơ cấu di truyền của loài chim hơn hành vi con người đối với tính di truyền. Vì con người được cấu tạo trên ba cấp bậc của đời sống tâm linh, nên hành vi con người ngày càng ít bao gồm những cơ chế có sẵn, vốn áp đặt lên con người những điều phải làm: "Di truyền chỉ ra một vài điểm trong sinh hoạt của chủ thể, nhưng chủ thể vẫn có nhiều chọn lựa khi xây dựng sinh hoạt của mình, bằng cách nối kết những sinh hoạt của mình chung quanh những điểm mấu chốt nhất định”. Đối với tự do cũng vậy, chúng ta không bao giờ tự do hoàn toàn. Quả là ảo tưởng nếu có ai nghĩ mình hoàn toàn tự do. Chúng ta có thể là nhà hoạt động cho tự do mà chính mình thì không có tự do. Sự tất định và tự do đều tương đối; mức độ tất định hay tự do tùy thuộc sự trưởng thành cảm xúc, các nhân tố xã hội, điều kiện môi sinh và nhất là tình trạng ý thức hay tình trạng vô thức của các thái độ. Ý thức càng chiếm ưu thế, thì phạm vi lựa chọn và tự do càng lớn. Phạm vi vô thức càng rộng, thì phạm vi của ý muốn lý tính càng hẹp. Qua bảng V, chúng ta có thể nói rằng nếu con người được cấu trúc trên cấp bậc tâm-thể lý, ước muốn cảm tính, các nhu cầu và cái tôi hiện thực, thì sự tất định càng lớn. Kẻ cảm thấy mình có nhiều khuynh hướng thì tự do hơn người chỉ có một khuynh hướng. Cũng thế, ai chỉ biết một cách chọn lựa thì chỉ có một cấp bậc tự do, ai có nhiều kiến thức và biết nhiều hướng hành động thì có một cấp bậc tự do cao hơn. Con người không bao giờ đạt tới sự tự do hoàn toàn. Ngay cả sự tự do bất toàn cũng không bao giờ là một điều có sẵn, nhưng là đối tượng con người phải chinh phục. Con người không sinh ra như một người tự do, nhưng trở nên người tự do. Tự do từ lúc mới sinh là một khái niệm chỉ có trong văn chương chứ không có trong tâm lý. Trước tiên, con người ở trong tình trạng tất định, nhưng trong mức độ con người thoát khỏi tình trạng đó, con người sẽ tạo dựng chính mình. Phạm vi của tự do thủ đắc vẫn luôn luôn tương đối. Tuy nhiên, dù phạm vi đó nhỏ bé đến đâu đi nữa, thì nó vẫn là biểu tượng của cuộc sống con người, hay ít nữa là biểu tượng cho lãnh vực quan trọng của cuộc sống, bởi vì chính con người đã tạo ra phạm vi đó. Con người tự do nhiều hay ít là ở trong phạm vi này. Đó được gọi là "chiều kích thứ hai," một phạm vi thích hợp nhất cho việc huấn luyện. Created by AM Word2CHM Lời Giới Thiệu (Bản dịch Việt ngữ) Lời giới thiệu Nhập đề Phần I. CON NGƯỜI NỘI TÂM Chương 1. BA CẤP BẬC ĐỜI SỐNG TÂM LINH A. Mô Tả Các Cấp Bậc B. Cấp Bậc của Tiến Trình Toàn Nhập Chương 2. BA CẤP BẬC CỦA Ý THỨC A. Định Nghĩa B. Nội Dung của Vô Thức C. Quy Luật Của Vô Thức D. Vô Thức Được Hình Thành Như Thế Nào E. Toàn Nhập Ba Cấp Bậc Ý Thức Chương 3. TIẾN TRÌNH QUYẾT ĐỊNH: ƯỚC MUỐN CẢM TÍNH VÀ ƯỚC MUỐN LÝ TÍNH A. Ước Muốn Cảm Tính B. Ước Muốn Lý Tính C. Các Biến Tố (Variable) Trung Gian D. Xung Khắc Giữa Các Khuynh Hướng Đáng Ao ước Chương 4. NỘI DUNG CỦA BẢN NGÃ (EGO) MỤC LỤC A. Các Nhu cầu B. Thái Độ C. Chức Năng Của Thái Độ D. Sự Hình Thành Các Thái Độ E. Các Giá Trị F. Đi Tìm Các Giá Trị Chương 5. CƠ CẤU BẢN NGÃ A. Mô Tả Bản ngã B. Cái Tôi Hiện Thực và Cái Tôi Lý Tưởng C. Căn Tính Của Bản Ngã D. Nhất Quán và Bất Nhất E. Sự Đóng Góp của Các Học Thuyết Kết luận. LÒNG TỰ TRỌNG A. Biết Mình Một Cách Khách Quan B. Khả Năng Đánh Giá Mình Là Ai. C. Sự Căng Thẳng Lành Mạnh Hướng Tới Sự Thiện D. Toàn Nhập Những Điều Tiêu Cực Trong Đời Sống Phần II. CÁCH VẬN HÀNH CỦA CHỨC NĂNG Chương 1. NHẬN THỨC TRI GIÁC A. Bản Chất Của Nhận Thức Tri Giác B. Nhân Tố Cá Nhân và Nhân tố Xã Hội Chi Phối C. Nhận Thức Tri Giác Của Chúng Ta. D. Kết Luận Chương 2. HÀNH ĐỘNG Ý THỨC, HÀNH ĐỘNG CỐ Ý TÌNH TRẠNG VÔ THỨC A. Vùng Mờ Tối B. Định Nghĩa C. Mọi hành Động Đều Do Cái Tôi Điều khiển D. Ý Hướng Ý Thức và Ý Hướng Vô Thức E. Ý Nghĩa của Ý Hướng F. Ý Thức Không Cố Ý G. Ý Hướng Ý Thức Không Biểu Thị Toàn Thể Kinh Nghiệm H. Phản Ứng Hành Vi Đối Với Vấn Đề Vô Thức Chương 3. CHIẾN LƯỢC CỦA VÔ THỨC A. Vô Thức Và Các Lý Tưởng Dễ Tổn Thương B. Vô Thức và Những Lý Tưởng Phi Thực Tế C. Vô Thức và Những Giá Trị Giả Tạo. D. Vòng Luẩn Quẩn Của Các Kỳ Vọng Sai Lạc E. Vô Thức và Những Cơ Chế Chủ Bại. F. Đối Phó Với Sự Bất Nhất G. Vô Thức và Biểu Tượng H. Biểu Tượng và Tính Dục Chương 4. CƠ CHẾ TỰ VỆ A. Lòng Tự Trọng B. Bản Chất và Đặc Điểm Của Cơ Chế Tự Vệ C. Cấp Độ Tự Vệ D. Những Định Nghĩa Về Cơ Chế Tự Vệ Chương 5. TÌM HIỂU ĐỘNG LỰC A. Khái Niệm Động Lực B. Tuân thủ C. Đồng Hóa D. Nội Tâm Hóa E. Cách Thức Nội Tâm Hóa Kết luận. HIỆN TẠI VÀ QUÁ KHỨ. 1. Lý Luận Theo Định Luật Nhân quả. 2. Ý Nghĩa Của Việc Lý Giải Theo Tâm Lý 3. Tự Do Và Tất Định ---//--- TÂM LÝ VÀ HUẤN LUYỆN CƠ CẤU VÀ NĂNG ĐỘNG Tác giả: A. CENCINI và MANENTI Chuyển ngữ: Lm. NGUYỄN NGỌC KÍNH, ofm Chịu trách nhiệm xuất bản: Quang Thắng Biên tập nội dung: XUÂN LƯU Sửa bản in: Quỳnh Anh Bìa: Nguyễn Hà In 1.000 bản, khổ 14,5 x 20.5cm tại Cty TNHH MTV in Nguyễn Việt Hưng, 110 Điện Biên Phủ, P. Đa Kao, Q.1, Tp. Hồ Chi Minh. Số đăng ký kế hoạch xuất bản: 369- 2011/CXB/31-24/PĐ. Cục xuất bản ký ngày 15 tháng 04 năm 2011. In xong và nộp lưu chiểu tháng 11 năm 2011. Created by AM Word2CHM
File đính kèm:
- tai_lieu_tam_ly_va_huan_luyen_co_cau_va_nang_dong_nguyen_ngo.pdf