Tài liệu Văn học phương Tây 1 - Phùng Hoài Ngọc (Phần 2)

Tóm tắt Tài liệu Văn học phương Tây 1 - Phùng Hoài Ngọc (Phần 2): ...có tiếng vang ở châu Âu, Cervantes và Sakespeare đều chịu ảnh hưởng của nó. Tiểu thuyết Pycarete: Miêu tả cuộc sống của lớp người vô sản hóa và lưu manh gọi là tầng lớp Picaro. Họ không có nghề nghiệp, đi lang thang, làm bất cứ việc gì để sông bất kể tốt xấu, vào tù ra khám là thường. Họ lưu...n ngưỡng và tự do chính trị. Vua bị ám sát, con trai là Louis 13 lên ngôi giữa lúc bọn lãnh chúa phong kiến lại nổi lên khắp nơi. Vua Louis 13 (1610-1643) dựa vào Giáo chủ Richelieu nắm quyền tể tướng, tiếp tục sự nghiệp của Henry 4, quyết tâm xây dựng một nhà nước dân tộc thống nhất, phát...tương lai. Trước hết anh tha thiết đề nghị ông giảng hòa với cha mình. Nhưng lão tướng từ chối. Buộc lòng, anh phải thách đấu. Kết quả lão tướng đã ngã gục dưới lưỡi kiếm của anh. Tiểu thư Simen quá đau đớn, đòi nhà vua phải xử tội Rodrigue đền mạng.Lão đại thần Don Diego xin vua cho ông nhậ...

pdf53 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 160 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tài liệu Văn học phương Tây 1 - Phùng Hoài Ngọc (Phần 2), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiểm duyệt và mũi nhọn chỉ trích của triều đình. Thực sự những nhân 
vật còn lại mới là nhân vật bi kịch chính thức. 
Hành động kịch của Andromaque bề ngoài có vẻ phức tạp quyết liệt song thực 
tế vẫn là đơn giản, chưa phải là hành động bi kịch. Tuy nhiên nàng vẫn được 
coi là hình ảnh người vợ người mẹ đẹp đẽ và cao cả, đáng ngợi ca trên những 
vần thơ vì tấm gương quên mình.. Nàng khéo léo chối từ kẻ cầu hôn, rồi lại 
nhẫn nhục đến gặp công chúa Ecmion để cầu xin cho con trai nhưng vô hiệu 
quả. Nàng biết khéo léo nhen nhóm hi vọng cho kẻ si tình để kéo dài thời gian.. 
Nàng là hình ảnh người vợ, người mẹ lí tưởng biết xử lý hài hoà giữa lí trí và 
tình cảm. 
Pyrus mới thực sự là hình ảnh đại diện của con người đương thời nửa sau thế 
kỉ 17. Anh ta luôn luôn bị mối tình si lôi cuốn. Bản chất của anh hiền lành, quảng 
đại, khiêm nhường có thể trở nên ông vua tốt của xứ sở Troie mới chinh phục. 
Nhưng vì tuổi trẻ bị cơn thèm khát chiến thắng thúc giục, anh trở nên nóng nảy. 
Hai tính cách: lãnh chúa thô bạo và anh hùng phong nhã giành nhau trong bản 
thân Pyrus. Tuy là kẻ anh hùng chiến thắng, vì say mê sắc đẹp của 
Andromaque đến nỗi anh hạ mình hết mức cầu xin tình yêu của người phụ nữ 
yếu đuối. Nàng chẳng có gì ngoài sắc đẹp và nỗi khổ đau. Những cuộc đối thoại 
giữa hai con người thay bậc đổi ngôi: nàng là nữ hoàng còn chàng là kẻ đầy tớ, 
thật éo le, dồi dào kịch tính. Say đắm Andromaque, anh ta quên hết lời hẹn ước 
hôn nhân với công chúa con vua Menelax. Say mê Andromaque, anh khinh rẻ 
cả đống tro tàn còn âm ỉ cháy ngọn lửa hận thù ở thành Troie. Say mê 
Andromaque, anh ta dám chống lại cả vương triều tổ quốc Hi Lạp hùng 
mạnh.Và say đắm Andromaque, anh ta quên cả cảnh giác giữ gìn tính mạng. 
Tình yêu làm anh ta trở nên hung dữ, đáng sợ càng thèm khát ráo riết hơn. Anh 
ta dùng mọi thủ đoạn để chinh phục trái tim Andromaque -người vợ goá, không 
bận tâm vì cái tang chồng của nàng. Và khi nàng chấp thuận lời cầu hôn thì 
Pyrus lại chứng tỏ là kẻ nam nhi có tình yêu chân chính cao thượng, sẵn sàng 
từ bỏ tổ quốc Hi Lạp để bảo vệ đứa con trai của người mình yêu. Đó là những 
tình huống bi kịch thật sự, không hề giản đơn, một chiều và chưa thấu tâm lí 
như Andromaque.. 
Đôi khi nghe lời cận thần can ngăn, thực ra là do nản chí, Pyrus nổi cơn giận dữ 
với người đẹp và anh dừng bước lại... Nhưng rồi không thể quên được nàng, 
anh tiến tới dứt khoát hơn. Cuộc sống của một đế vương trẻ tràn ngập trong 
khổ đau dằn vặt với tâm trạng bất an này mới là nội dung chính của vở kịch. 
Cái chết của Pyrus mang tính tất yếu, khi hết khổ đau nhân vật này không còn lí 
do để tồn tại. Nó củng cố nhận xét của ai đó về con người thượng lưu Pháp thế 
kỉ XVII:"Cảm giác, ngay cả cảm giác khổ đau, là cuộc sống duy nhất đáng mong 
ước ". 
Ecmion là nhân vật sáng tạo của Racine từ nguyên mẫu của truyền thuyết Hi 
Lạp và kịch cổ của Euripide. Nàng là người có địa vị cao,rất dễ hợm hĩnh, kênh 
kiệu, tự tin. Nhưng khi thấy mình chông chênh trong hạnh phúc mong manh 
trước vị hôn phu dễ thay lòng đổi dạ thì Ecmion chao đảo từ cực này sang cực 
khác, hoang mang bối rối khủng khiếp, mất hết tự chủ. Nóng vội, nàng đã làm 
trái với tâm hồn mình và gây tai hoạ không thể cứu vãn. Nàng cũng chỉ là một 
nạn nhân của bi kịch. 
Oreste là một tính cách ít thành công hơn, chưa đủ gọi là nhân vật bi kịch. Hắn 
chỉ là con người thiếu tự chủ nhất thời bị cơn thèm khát tình yêu đẩy vào kết 
cục bi đát nhục nhã. Anh ta chỉ là một nạn nhân đau khổ của định mệnh. (ngụ ý: 
không hiểu nổi việc mình làm, ngu dốt. Khác với Pyrus hiểu rất rõ hậu quả mà 
vẫn hành động!). 
Vở kịch Andromaque thể hiện rõ nét nhất nghệ thuật bi kịch Racine. Kịch của 
ông không quá lạ lùng siêu việt phức tạp ngổn ngang mà hấp dẫn khán giả 
bằng sự miêu tả tinh vi đời sống tình cảm của con người thời đại trong một 
khuôn khổ hẹp nhất. 
BI KỊCH ATALI 
Mượn một côt truyện trong Kinh Thánh, vừa tiếp tục chủ đề quen thuộc vừa 
chuyển mạnh sang phê phán chế độ quân chủ Pháp khi nó trắng trợn đối đầu 
với quần chúng nhân dân. 
Sơ lược nội dung kịch: Nữ hoàng Atali là nhân vật trung tâm, hiện thân của một 
nỗi thèm khát trả thù lớn lao nhằm thanh toán một món nợ thù và cũng để củng 
cố, duy trì địa vị tối cao của mình. Là một phụ nữ đã làm mẹ, làm bà nhưng 
cuồng vọng đến mức ráo riết săn đuổi đứa cháu nội - giọt máu còn sót lại của 
dòng họ David, càng chất thêm oán thù với quần chúng Do thái (bị coi là dị 
giáo). Do mối thù của dòng họ lại thêm tín ngưỡng tôn giáo kích thích, Atali 
càng điên cuồng khát máu. Bất chấp tinh thần đức tin Đức Chúa Trời, Đấng 
vĩnh cửu mà chính bà thường tâm niệm nói ra, tiếng gọi của dục vọng trả thù 
vẫn chiếm được bà. Lo sợ cái chết thường xuyên ám ảnh, cố chống lại nó bà 
vẫn không tránh khỏi. Tư tưởng chống khủng bố chống chuyên chế thấm đẫm 
trong nội dung kịch đã dẫn tới sự " nổi loạn" của nghệ thuật bi kịch - nghĩa là vi 
phạm rõ rệt qui tắc cổ điển chủ nghĩa, nhất là cảnh quần chúng Do Thái kéo 
nhau vũ trang diệt bạo chúa. 
Vở kịch đã không làm hài lòng vua Louis XIV nên không được phép công diễn 
trên sân khấu. Tuy vậy dư luận tiến bộ vẫn đánh giá cao Atali như vở bi kịch cổ 
điển có ý nghĩa xã hội sâu rộng nhất. 
HƯỚNG DẪN ÔN TẬP 
So sánh bi kịch Andromaque với bi kịch Le Cid? Tính cổ điển là gì? 
(gợi ý: tính cổ điển về lịch sử là: bi kịch chọn những hoàn cảnh thường gặp, của 
bi kịch nhân loại, của mọi dân tộc. Nó còn là tình huống tâm lí cổ điển). 
Chương IV: Morie và hài kịch cổ điển 
Moliere - " người hề vĩ đại " - một trong những tên tuổi lớn của chủ nghĩa cổ điển 
Pháp, của lịch sử văn học Pháp và là một trong những nhà viết hài kịch lớn nhất 
của lịch sử sân khấu thế giới. Cả cuộc đời ông là một tấm gương sáng của một 
nghệ sĩ chân chính luôn luôn bảo vệ chân lí của thời đại chống các thế lực phản 
động bảo thủ tiêu cực.Hoạt động cùng thời với các nhà thơ nhà văn Racine, 
Boileau, La Fontaine... Moliere đem đến cho văn đàn Pháp những cống hiến lớn 
lao - người sáng lập hài kịch cổ điển và đưa nó tới đỉnh cao xán lạn. Là nghệ sĩ 
ưu tú kết tinh những truyền thống tốt đẹp của nhân dân và dân tộc Pháp, sáng 
tác của ông chuyển nhanh về phía cuộc sống hiện thực phong phú sôi động 
trong đó quần chúng lao động đang tiến lên đảm nhiệm vai trò mới của lịch sử. 
Ba trăm năm lẻ đã qua, tiếng cười của Moliere không lúc nào vắng trên sân khấu 
Pháp và thế giới trong đó có sân khấu Việt Nam. Hài kịch của Moliere đã đóng 
góp đáng quí cho việc xây dựng nền văn học hiện đại và sân khấu kịch nói Việt 
Nam. 
Một tài năng nảy sinh trong rèn luyện đấu tranh gian khổ 
 Jean Baptiste Poquelin sinh tại Paris trong một gia đình tư sản - tiểu quí tộc 
cận thần của nhà vua. Ông được dạy dỗ chu đáo ba năm trong trường trung học 
Clémonde nổi tiếng.Lúc ấy ông đã tỏ rõ sở thích văn chương, triết học, chịu ảnh 
hưởng triết học Gassendy (cảm giác luận). Cha dự định cho ông học luật và 
thừa kế chức vụ quan hầu của nhà vua nhưng Poquelin lại chọn sân khấu - một 
nghề nghiệp đương thời coi là thấp kém. 
 Năm 1643, Poquelin quen biết một nữ diễn viên Madelaine Béjart cùng một 
số bạn thành lập " Đoàn kịch trứ danh ". Do thiếu kịch bản và diễn viên giỏi nên 
đoàn kịch chưa có tăm tiếng mặc dù rất cố gắng. Poquelin chọn biệt danh " 
Moliere " năm 1644. Đoàn kịch tan rã năm 1645. Cuối năm đó, Moliere cùng với 
anh em nhà Béjart dời khỏi Paris đi về các tỉnh nhỏ để lưu diễn. 
 Suốt 13 năm trời (1645 - 1658) chịu đựng khó khăn thiếu thốn, gánh hát nhỏ 
chưa nổi tiếng của Moliere lang thang hầu khắp nước Pháp. Dọc đường, gánh 
sáp nhập với một gánh khác khác. Mười ba năm phiêu bạt giang hồ chính là thời 
gian chuẩn bị một sự nghiệp lớn lao của Moliere. Nó giúp ông hiểu biết, tích lũy 
vốn sống về một xã hội Pháp, lúc ấy đang có cuộc nổi loạn La Frode. Nó giúp 
nhà văn tiếp xúc rộng rãi với các gánh hát rong địa phương, học tập họ rồi cạnh 
tranh với họ. Nó giúp Moliere kiểm tra lại nhận thức của mình, biết chỗ mạnh chỗ 
yếu từ đó vạch hướng đi lâu dài. Moliere diễn viên, đạo diễn, nhà sáng tác hài 
kịch và trưởng đoàn kịch đã trưởng thành qua 13 năm gian khổ như thế. 
 Từ 1650 Moliere đứng đầu gánh hát và bắt đầu xây dựng một số tiết mục đặc 
sắc. Ông bắt tay viết những vở "kịch hề" trong đó vận dụng những kinh nghiệm 
của loại "kịch mặt nạ Italia" về kĩ thuật, hành động, tính cách nhân vật. Như các 
vở "Chàng Ngốc", "Ghen" đã báo hiệu một tài năng. 
 Thành công của Moliere vang dội đến tận kinh đô. Năm 1658, đoàn kịch 
Moliere được nhà vua gọi về Paris. Moliere ra mắt cung đình với vở hài "Thầy 
thuốc si tình". Buổi diễn có kết quả tốt, đoàn được giữ lại Paris, được nhà vua 
cấp cho rạp hát Peuti Bourbon vốn là rạp hát của triều đình để đoàn biểu diễn 
thường xuyên. Sau một năm hoạt động vừa diễn vở cũ vừa dựng vở mới, đoàn 
tuyển mộ thêm những diễn viên có tài. 
 Năm 1659, Moliere đưa lên sân khấu các vở "Những ả kiểu cách lố bịch". Tác 
giả bị bọn quí tộc căm ghét mặc dù ông chỉ đả kích bọn "giả làm quí tộc". Từ đây 
cuộc đời Moliere chuyển sang giai đoạn xây dựng một nền nghệ thuật sân khấu 
dân tộc hiện thực và tiến bộ. những tác phẩm lớn của Moliere ra đời liên tiếp, 
mỗi vở là một đòn giáng vào giới quí tộc, nhà thờ và chế độ chuyên chế. Và 
Moliere không ngừng phải chống trả quyết liệt những phản ứng điên cuồng của 
các thế lực thù địch. Mặt khác, Moliere còn phải đương đầu với những nhà soạn 
kịch và diễn viên đố kị thù ghét ông, lên án ông không tôn trọng những qui tắc cổ 
điển, báng bổ tôn giáo, làm hại khiếu thẩm mĩ của công chúng. Quá trình đấu 
tranh này đã khiến Moliere trở thành nhà sáng tác hài kịch vĩ đại, nhà nghệ sĩ lão 
luyện và nhà tổ chức giáo dục tài năng. 
 Năm 1662 Moliere cho diễn vở "Trường học làm vợ" lên án quan điểm phong 
kiến vô nhân đạo, trái tự nhiên vô hiệu quả trong việc giáo dục phụ nữ. Bọn phản 
động tức tối, xúm lại công kích Moliere. Chỉ có Boileau tỉnh táo, vẫn viết bài phê 
bình bênh vực Moliere. Để trả lời những kẻ thù địch, Moliere viết tiếp hai vở kịch 
ngắn "Phê bình trường học làm vợ" và "Kịch ứng diễn ở Verseill" (1663) đưa 
luôn các nhà phê bình đố kị lên sân khấu mà châm biếm. 
 Trong thời gian 1664 - 1666, Moliere viết ba vở hài kịch lớn với tư tưởng triết 
học xã hội phong phú "Tactuff ", "Don Joan, "Anh ghét đời". Là những đòn trí 
mạng giáng vảo nhà thờ, giai cấp quí tộc thế kỉ 17. Những thế lực phản động 
núp bóng triều đình la ó om xòm, hùa nhau đe dọa hành hung nhà văn. Đây là 
giai đoạn căng thẳng nhất trong cuộc đời nhà văn nghệ sĩ Moliere. 
 Từ đây hoạt động nghệ thuật của Moliere giảm bớt sôi nổi với các vở "Lão hà 
tiện" (1668), Trưởng giả học làm sang (1670), Những bà thông thái (1672), 
Người bệnh tưởng (1673). 
 Ngày 17-2-1673 trong đêm diễn thứ tư vở "Người bệnh tưởng", đang đóng 
nhân vật chính Moliere kiệt sức ngã trên sàn diễn. Ông được đưa ngay về nhà 
và một giờ sau trút hơi thở cuối cùng. Nhà thờ vốn thù ghét Moliere nên đã ngăn 
cản việc mai táng ông theo nghi thức tôn giáo. Vợ ông phải quì phục dưới chân 
nhà vua hết lời khẩn cầu mới xin được phép chôn cất ông ở nghĩa địa nhà thờ 
vào lúc đêm khuya. 
Những đóng góp của Moliere vào hài kịch dân tộc Pháp 
Công lao của Moliere trước hết là kế tục và phát huy mạnh mẽ kịch hề dân gian 
Pháp, sau đó nâng cao thành hài kịch cổ điển. Moliere đã xác định và nâng cao 
vai trò địa vị hài kịch vốn bị coi rẻ trong xã hội Pháp. Xã hội Pháp vốn chỉ coi 
trọng bi kịch vì cho nó nghiêm túc, cao quí. Moliere chứng minh rằng hài kịch 
cũng nghiêm túc và là một nghệ thuật chân chính, nó chứa đựng những cái 
cười thâm thúy, thông minh chớ không phải "rẻ tiền" như người ta chê trách. 
Với Moliere, hài kịch còn là công cụ đấu tranh xã hội lợi hại chẳng có gì sánh 
được. Hài kịch chứng tỏ tinh thần trách nhiệm xây dựng xã hội lành mạnh phát 
triển chứ không phải chỉ để mua vui giải trí đơn thuần. Tóm lạI, nhờ Moliere, hài 
kịch có vai trò ngang hàng với mọi loại hình nghệ thuật và đáp ứng được nhu 
cầu thẩm mĩ của thời đại. 
2.1 - TÍNH CỔ ĐIỂN CỦA HÀI KỊCH MOLIERE: 
Quan Điểm Nghệ Thuật của Moliere là tinh thần duy lí, duy vật của thời đại.Theo 
quan điểm chung của chủ nghĩa cổ điển, hài kịch nhằm đả phá những tệ nạn xã 
hội và nhược điểm tâm lí của con người thời đại. Lí luận này yêu cầu hài kịch 
"sửa chữa phong hóa bằng tiếng cười", giúp người có lương tri xa lánh cái sai 
và thói xấu. Moliere viết "nếu tác dụng của hài kịch là sửa chữa tính xấu của 
con người thì tôi tin rằng không cần bỏ qua bất kì kiểu tính xấu nào. Những bài 
học luân lí nghiêm trang chưa hẳn có tác dụng bằng những nét châm biếm của 
một bài thơ trào phúng... Mô tả những thói xấu của con người là cách tuyệt diệu 
để sửa chữa nó" (Lời Tựa vở Tactuff - 1669). 
Tuy nhiên, nhiệm vụ hàng đầu của hài kịch là "làm vui" cho khán giả, độc giả. 
Muốn đạt được như thế trước hết phải "theo tự nhiên". Tự nhiên được hiểu là 
đáy sâu của những tâm hồn kín đáo mà chỉ có những cái nhìn tinh tường mới 
soi thấu được" (Boileau). "Tự nhiên" còn có nghĩa là theo truyền thống xã hội đã 
được thừa nhận (danh chính ngôn thuận). Moliere nói qua lời một diễn viên "Khi 
anh vẽ người, anh phải vẽ theo tư nhiên. Nếu anh không làm cho người ta nhận 
ra những con người của thời đại mình thì anh chẳng làm được gì hết" - Moliere 
trình bày lí luận của mình ngay trong tác phẩm như vậy. 
Về đề tài: Moliere cho rằng có thể chọn bất kì đề tài nào kể cả cổ đại Hi Lạp - La 
Mã, miễn là đề tài ấy có sức thể hiện phong phú. Nhưng ông thích lấy ngay đề 
tài trong đời sống tâm hồn xã hội Pháp đương thời từ trong cung đình đến thành 
thị nông thôn nhờ vốn sống những nămgiang hồ phiêu dạt khắp nơi tiếp xúc đủ 
mọi loại người. Nhờ vậy Moliere sáng tạo được những tính cách điển hình. Chỉ 
ngoại trừ một mẫu người - kẻ đứng đầu triều đình - mọi loại người Pháp khác 
đều có mặt trên sân khấu Moliere. Tuy vậy nhân vật có mặt thường xuyên là 
nhân vật quí tộc, ngài hầu tước - hiện thân của chế độ phong kiến lỗi thời.. 
Moliere nói đại ý rằng: trong mọi vở kịch hề cổ xưa đều có một tên ăn cắp có 
nhiệm vụ gây cười cho khán giả thì trong các vở kịch ngày nay luôn luôn phải có 
một vị hầu tước lố lăng làm trò cười cho công chúng" [ Vở Ứng diễn ở Verseill ]. 
Nhìn chung Moliere không tự hạn chế kịch của mình trong khuôn khổ hạn chế 
của chủ nghĩa cổ điển nhằm phản ánh chân thực cuộc sống. 
2.2 - NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG TÍNH CÁCH 
Số lượng lớn hài kịch của Moliere thuộc loại hài kịch tính cách. Để làm cho tính 
cách đạt tới mức độ điển hình [ nghĩa là có thể tồn tại vĩnh cửu ], Moliere tập 
trung miêu tả những nét cơ bản nhất. ông tước bỏ những chi tiết phụ không có 
ích cho sự theo dõi của khán giả. Mỗi nhân vật là hiện thân của một tính cách 
nhất định. Ví dụ: đạo đức giả, hà tiện, thông thái rởm... những nét tính cách 
khác bị đẩy xuống hàng thứ yếu, ví dụ ngộ nhận, chủ quan, cố chấp... 
Nhìn chung, những thói xấu và sai lầm của nhân vật không gây ra những tai họa 
chết người nhưng sẽ phải thất bại. Những kẻ ấy cứ tin mình làm đúng, mình 
nắm lẽ phải và không chịu thừa nhận thực tế khách quan. Nhân vật ấy đầy ảo 
tưởng và trở nên lố bịch hài hước và bị chê cười. 
Biện pháp cường điệu khoa trương nhằm làm tăng cường tính hài, đẩy nhân vật 
tới sát với ranh giới sự phi lí khó tin. Nhưng Moliere không cường điệu tùy tiện 
bừa bãi mà gắn bó với hiện thực. Đối với khán giả, trước mắt họ là nhân vật cụ 
thể sinh động tính cách rõ nét và mạnh mẽ khiến họ không thể nhịn được cười. 
2.3 - NGHỆ THUẬT GÂY CƯỜI: 
Sự vĩ đại của Moliere không chỉ là xây đựng tính cách mà còn nghệ thuật gây 
cười. Sự tinh tế nhạy cảm của nhà tư tượng nhà nghệ sĩ tài ba khiến ông khi 
quan sát cuộc sống phát hiện ra những khía cạnh hài hước với vẻ ngoài có vẻ 
trang nghiêm đáng kính. ông nhìn thấy thực chất ở đằng sau sự lộng lẫy vàng 
son cung điện triều đình Louis 14, lối sống hào hoa phong nhã của quí tộc nhàn 
hạ, bộ mặt uy nghi của tôn giáo, ánh lấp lánh của đồng tiền vàng tư bản chủ 
nghĩa. Những thứ dễ dàng đánh lừa con mắt người đời. Ông có cái nhìn của 
quần chúng lao động và tầng lớp tư sản tiên tiến đang lên. Moliere khám phá 
thấy những mâu thuẫn kín đáo, những nét kệch cỡm của cái xã hội đang lỗi thời 
để mà cất tiếng cười tống tiễn nó vào quá khứ. 
Tiếp thu kế thừa những biện pháp gây cười của nghệ thuật kịch dân gian, nghệ 
thuật trong con mắt quần chúng (ví dụ cảnh đánh lộn, lầm lẫn, huyên náo...). 
Hình ảnh người bình dân hiện ra khỏe khoắn, nhanh nhẹn tự tin với tiếng cười 
lạc quan, tuy ở địa vị thấp hèn nhưng họ được miêu tả đẹp đẽ chính nghĩa với 
tiếng nói tích cực của nhân dân. 
Phát hiện những khía cạnh bi đát của cuộc sống rồi thể hiện dưới hình thức hài 
kịch - đây là điểm độc đáo nhất của Moliere. Nhiều vở của ông khiến khán giả 
cười vỡ bụng nhưng sau lại nhận ra dư vị đắng cay đến rơi nước mắt. Nhà thơ 
Alfred de Muset thế kỉ 19 đã nói về " sự buồn thảm ","sự sâu sắc" trong cái hài 
của Moliere. Khác với cái hài của Shakespear cười vui vẻ trong cuộc đời lạc 
quan (hòa bình, ấm no hạnh phúc tình yêu...), Moliere cười phê phán mong 
chôn vùi những thói tật, " những hình thái lịch sử " đã hết thời mà còn cố 
gượng. Ông giấu kín sau tiếng cười những điều nghiêm trang của thời đại, 
những nỗi đau những lo toan về cuộc sống trong thời cai trị độc đoán nghẹt thở 
của vua Louis 14, tiếng cười của Moliere đậm ý nghĩa triết lí và xã hội. 
Moliere là nhà hài kịch đầy bản lĩnh nên ông biết dừng lại đúng lúc khi sân khấu 
của ông đã nhích dần tới ranh giới bi kịch. Chỉ cần dùng một vài tiểu xảo, một 
lớp hề cũng đủ xua tan những ám ảnh nặng nề u tối... đưa khán giả quay về 
cuộc sống trước mắt. Cái hài hước lố bịch còn nhiều nhưng ông tin vào lương 
tri quần chúng có thể cải tạo được chúng. 
2.4 - GIÁ TRỊ HIỆN THỰC TRONG KỊCH CỦA MOLIERE 
2.4.1. Tính hiện thực phong phú: 
Hài kịch Moliere hướng tớI một hiện thực phong phú, bên cạnh những nghịch 
cảnh là cơ sở của hài kịch. Cuộc sống nước Pháp quí tộc tư sản hoá thế kĩ XVII 
hiện ra muôn hình muôn vẻ. Cuộc sống của ngườI bình dân lao động - những 
ngườI đang tiến lên đảm nhận vai trò chủ yếu của lịch sử - bắt đầu được miêu 
tả, tuy chưa phảI bốI cảnh chính những đã thấp thoảng đằng sau những cảnh 
đờI quí tộc tư sản. 
2.4.2. Tính chiến đấu: 
Mặc dù tuân theo quí tắc cổ điển là đặt lợi ích quốc gia dân tộc,tạm gác cuộc 
đấu tranh giai cấp một bên, nhưng Moliere không quên đấu tranh giai cấp, ông 
vẫn đứng về phía nhnâ dân lao động chống lại cả hai giai cấp đó, tuy có châm 
trước phần nào cho giai cấp tư sản. 
2.4.3. Nhân vật phong phú: 
Đủ mọi loạI người trong xã hộI quí tộc- tư sản hiện lên vớI những chân dung 
ngộ nghĩnh hài hước che nkhuất những thói xấu. Cả một quần chúng lao động, 
không chỉ có mặt cơ bản là lương thiện cũng có những bình dân nhếch nhác 
đáng cườI chê. Chỉ trừ hình ảnh nhà vua lúc này trở thành biểu tượng dân tõc 
quốc gia, ngoài ra kihôgn thiếu một ai, kể cả hình ảnh những tu sĩ đạo đức giả, 
một thế lực uy quyền đầy bí ẩn, một thứ ‘ siêu quyền lực”. 
Nhân vật tiêu cực đương nhiên phảI là nhân vật trung tâm: quí tộc gàn dở. dối 
trá, văn hóa rỗng tuếch, thầy tu đầy âm mưu, lừa bịp. Tư sản lớp trên tham lam 
ích kỉ học đòi sang trọng như quí tộc. Quan chức cao cấp huênh hoang bất 
nhân bất nghĩa..v.v.... 
Nhân vật tích cực: hầu hết là người bình dân có lương tri sáng suốt, sống theo 
lẽ tự nhiên, luôn luôn chiến thắng trong các nghịch cảnh tuy rằng họ cũng có 
những nhược điểm nhất định. 
2.5 HÀNH ĐỘNG KỊCH MOLIERE 
Hành động kịch của Moliere khá đơn giản, mỗi lúc một tăng mạnh hơn xoay 
quanh những thói giả dối kệch cỡm. Sự thái quá của những hành động trái tự 
nhiên nảy sinh xung đột, không phức tạp gay gắt đến mức phải có giải pháp 
quyết liệt như bi kịch. Với ông chỉ cần một biện pháp nhỏ (bất ngờ, từ bên 
ngoài) đủ khiến cái hài phải hiện nguyên hình. Màn chót của xung đột lại diễn ra 
nhẹ nhàng cùng với tiếng cười. 

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_van_hoc_phuong_tay_1_phung_hoai_ngoc_phan_2.pdf