Tâm lý học xã hội - Trần Quốc Thành (Phần 1)
Tóm tắt Tâm lý học xã hội - Trần Quốc Thành (Phần 1): ...c vấn đề liên quan đến nhân cách xã hội. Ví dụ, tìm hiểu những phẩm chất hay năng lực cần có ở người lãnh đạo nhóm hoặc tập thể, để từ đó xây dựng mô hình nhân cách của các cá nhân trong một vị trí xã hội nào đó hoặc để đánh giá các mức độ phát triển của các phẩm chất, năng lực đó ở cá nhân ...p như sau: Thỏa hiệp bên ngoài (thỏa hiệp hình thức) là sự tiếp nhận ý kiến nhóm một cách hình thức; Thỏa hiệp bên trong (thỏa hiệp thực tâm) là sự biến đổi thực sự thái độ của cá nhân cho phù hợp với đa số và loại thứ ba là lập trường độc lập, thực chất là dạng phụ thuộc ngược với ý kiến đa s...y nay tương đối phức tạp. Tính nóng bỏng chính trị của vấn đề trong thế giới hiện đại buộc phải giải quyết các vấn đề này với sự chính xác đặc biệt. Nguyên tắc bình đẳng các dân tộc, đặc trưng cho các chương trình chính trị của các quốc gia dân chủ không biểu thị sự thừa nhận tính giống nhau...
: độ khó của nhiệm vụ, tính đa phương án của nhiệm vụ, độ quan tâm bên trong của mỗi thành viên nhóm, yêu cầu phối hợp hành động, mức độ yêu cầu về trí tuệ đối với nhiệm vụ và tính mới mẻ của nhiệm vụ (Shaw M. 1976). * Ảnh hưởng của tính chất nhiệm vụ nhóm tới quá trình nhóm: Các nhiệm vụ với các tính chất khác nhau có ảnh hưởng không giống nhau tới các quá trình nhóm, tới các phương diện khác nhau của hành vi nhóm như: sự định hướng tới hành vi của người khác; sự lạc quan, tính mới mẻ của các quyết định; sự tham gia vào quá trình cũng như sự bền vững và chất lượng của hành vi. Đặc biệt tính rõ ràng của mục đích cần đạt được có ảnh hưởng lớn tới sự cố kết của các thành viên. Các thành viên thể hiện sự cố kết cao hơn và có động cơ hoạt động mạnh hơn đối với các nhiệm vụ rõ ràng và có hành vi ngược lại đối với các nhiệm vụ không rõ ràng. * Quá trình ra quyết định nhóm: Quá trình ra quyết định nhóm luôn phải đối mặt với một vấn đề chưa có câu trả lời thỏa đáng: tính hiệu quả của quyết định cá nhân và quyết định nhóm có tương đồng hay không? Sự dịch chuyển rủi ro từ cá nhân sang nhóm và sự phân cực nhóm như thế nào? Để ra quyết định nhóm, thảo luận nhóm có vai trò quan trọng. Trong quá trình thảo luận nhóm diễn ra các cơ chế sau: - Thảo luận nhóm cho phép các lập trường các quan điểm được va chạm, bằng cách đó giúp các thành viên có thể nhìn thấy các khía cạnh khác nhau của vấn đề. - Các kết luận được rút ra từ thảo luận nhóm sẽ có ý nghĩa hơn đối với mỗi thành viên, nó có thể trở thành chuẩn mực nhóm và do vậy có ảnh hưởng lớn đến hành vi của các thành viên. Thảo luận nhóm cũng được xem xét như là một giai đoạn của quá trình ra quyết định nhóm. Đặc biệt ở lĩnh vực ứng dụng, các nhà nghiên cứu đang tìm cách đưa ra các hình thức thảo luận nhóm khác nhau, một trong số đó là “brainstorming” do A.Osbom đề xuất hay phương pháp “liên kết các khác biệt” của U.Golden. * Sự dịch chuyển rủi ro: Các nghiên cứu trước đây cho thấy, khi ra quyết định, nhóm có xu hướng dung hòa các quyết định thái quá cả về 2 phía của các cá nhân để đi đến một quyết định “trung bình”. Hiện tượng này được gọi là “cân bằng hóa nhóm”. Tuy nhiên, trong các trường hợp các quyết định có nhiều rủi ro thì diễn ra “sự dịch chuyển rủi ro”: có thể có hiện tượng dịch chuyển về phía rủi ro khi có sự phân tán trách nhiệm và dịch chuyển về phía thận trọng hơn. Các giả thuyết chưa được khẳng định. * Sự phân cực các ý kiến trong nhóm (cũng được gọi là sự chuyển dịch ý kiến): Trong tiến trình thảo luận nhóm, các ý kiến đối lập không chỉ xuất hiện mà chúng còn tạo ra sự chấp nhận hay phản đối của phần lớn các thành viên. Các ý kiến trung gian dịch chuyển dần về phía này hay phía khác làm các ý kiến thuộc 2 cực ngày một rõ ràng hơn. Có 2 cách giải thích sự phân cực: chuẩn mực và thông tin. Chuẩn mực tức là cá nhân so sánh mình với người khác và để khẳng định cái tôi của bản thân “người khác cũng nghĩ như tôi”. Điều này giúp cá nhân củng cố ý kiến của bản thân. Thông tin tức là nếu thảo luận nhóm được điều khiển bởi các chứng cứ và các chứng cứ đó có lợi cho cá nhân thì cá nhân đó càng mạnh mẽ hơn với ý kiến của mình (tức là phân cực thay vì trung gian). Ngược lại nếu chứng cứ mâu thuẫn với ý kiến trước đây, cá nhân đó sẽ dứt khoát dịch chuyển về phái đối lập (tức là cũng phân cực). 6. Lý thuyết về sự phát triển nhóm Có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển của nhóm nhỏ. Ý tưởng về sự phát triển nhóm đã được đưa ra trong lý thuyết Phân tâm học, trong công trình của Freud “Tâm lý học nhóm và phân tích cái tôi”. Trong định hướng Phân tâm học của Tâm lý học xã hội xuất hiện lý thuyết phát triển nhóm của V.Bennis và G.Shepard, được hình thành trên cơ sở phân tích thực tiễn tâm lý trị liệu nhóm. Lý thuyết này được hình thành từ giữa những năm 1950. Nó không hoàn toàn nằm trong định hướng phân tâm học mà còn chịu ảnh hưởng của nhiều định hướng khác. Tuy vậy theo Shaw và Costanzo, lý thuyết này có tư tưởng cơ bản liên quan đến Phân tâm học. Lý thuyết này được xây dựng trên cơ sở tìm hiểu những quá trình nhóm diễn ra trong các nhóm T hay còn gọi là các nhóm huấn luyện quan hệ con người hay nhóm tự phân tích. Các nhóm này là một hiện tượng trong đời sống xã hội phương Tây những năm 60, 70 của thế kỉ XX. Thực hành Nhóm T - với các hình thức đa dạng của nó diễn ra dưới ảnh hưởng của Phân tâm học. Nhóm T chính là một phương pháp huấn luyện xã hội. Huấn luyện xã hội được hiểu theo nghĩa rộng là dạy các hiểu biết, kĩ năng, kỹ xảo giao tiếp liên nhân cách. Hoạt động cơ bản của nhóm T là thảo luận nhóm. Chủ đề thảo luận là các mối quan hệ liên nhân cách hiện thực của các thành viên nhóm và nhiệm vụ là tìm hiểu chính động thái nhóm qua việc phân tích các quá trình diễn ra trong nhóm. Các quá trình đó được nghiên cứu bởi chính các thành viên nhóm. Sự tăng lên trong hiểu biết của cá nhân về chính các động cơ của bản thân; sự hụt hẫng, ý định, các khả năng có thể trong giao tiếp liên nhân cách của bản thân cũng như của người khác... được gọi chung là sự thành thục xã hội. Mục đích cuối cùng của huấn luyện xã hội là giúp những người tham gia nâng cao sự thành thục xã hội. Để đạt được mục đích cuối cùng, cần thực biện các mục đích cụ thể được đặt ra một cách rõ ràng hay ngầm định. Ở cấp độ nhóm, mục đích đó là tạo ra sự giao tiếp có hiệu lực, tức là: đạt được một trạng thái nhóm mà mỗi thành viên có khả năng thể hiện các tình cảm, xúc cảm, động cơ, ý định của mình một cách chính xác, tự do. Ở đó tri giác của mỗi thành viên về vị trí của mình trong nhóm phù hợp với sự tri giác của các thành viên khác, mục đích được thống nhất của nhóm và sự nỗ lực của các thành viên là tương ứng và các thành viên nhóm có khả năng chia sẻ nhiều mức độ giao tiếp. Quy mô nhóm có thể từ 7 - 15 người. Đó có thể là nhóm hiện thực nhưng thường xuyên hơn cả là các nhóm được hình thành từ những người không quen biết nhau từ trước. Các thành viên chủ yếu là những người thuộc các nghề nghiệp khác nhau nhưng có điểm chung là cần có khả năng giao tiếp. Thời hạn của các nhóm T có thể từ 2 ngày đến 2 tháng. Mỗi nhóm có một người huấn luyện. Vai trò của người này có thể thay đổi tùy nhiệm vụ cụ thể. Nhưng trong mọi trường hợp vai trò chính của người đó là tạo ra bầu không khí tin tưởng, sự cởi mở trong nhóm. Người huấn luyện phải thể hiện hình mẫu của các hành vi mong muốn, tức là bộc lộ một cách chân thành và rõ ràng các tình cảm của mình, thể hiện sự gắn bó và ủng hộ sự chân thành của người khác. Người huấn luyện khác với vai trò của người bác sĩ trị liệu, không tập trung vào các kinh nghiệm của các thành viên mà chỉ tập trung vào các quá trình diễn ra “ở đây” và “bây giờ” trong nhóm. Hệ thống các liên hệ ngược cho phép mỗi cá nhân có thể hiểu được người khác và diễn giải điều mình làm và nói, qua đó tạo ra những tiền đề cho việc suy nghĩ về hậu quả có thể có của các hành động của mình trong nhóm. Kết quả của huấn luyện phụ thuộc vào hệ thống các liên hệ ngược được thiết lập như thế nào. Những tiền đề đảm bảo cho nhóm có hiệu quả là tạo ra bầu không khí tin tưởng, an toàn tâm lý trong nhóm và sự sẵn sàng thay đổi những phương thức tri giác và tác động qua lại khi thấy được những hạn chế của chúng. Về phương diện lý luận nhóm, T chịu ảnh hưởng của Phân tâm học truyền thống ở chỗ: cá nhân có thể mở rộng kinh nghiệm của mình bằng cách đưa các cơ chế tự vệ của hành vi mà cá nhân chịu chi phối mà không ý thức được đến với ý thức và đặt dưới sự kiểm soát của ý thức. Đây chính là nguyên tắc trị liệu của Phân tâm học. Lý thuyết này được xây dựng trên việc nghiên cứu các quá trình diễn ra trong nhóm gọi là nhóm T - các nhóm luyện tập (training group): sự tồn tại của nhóm luyện tập chia thành 2 pha. Trong mỗi pha, nhóm giải quyết một tập hợp nhất định các vấn đề để đạt được mục tiêu cơ bản của nó - thiết lập giao tiếp có hiệu lực (tức là giao tiếp, trong đó loại bỏ các trở ngại đối với người tham gia giao tiếp). Con đường để đạt tới mục đích đó chính là sự phát triển nhóm: trong pha đầu tiên giải quyết vấn đề về thủ lĩnh và các mối quan hệ qua lại giữa mỗi thành viên nhóm và thủ lĩnh; trong pha thứ 2, mối quan hệ giữa các thành viên ngang hàng được xác lập. Trong mỗi pha, sự khó khăn trong các mối quan hệ thường xuyên được dỡ bỏ và sự giao lưu đầy đủ hơn được phát triển. Lý thuyết của Benis và Shepard được xây dựng dựa trên các quá trình thay đổi trong nhóm để đạt tới mục đích giao tiếp hiệu lực với 2 vấn đề cơ bản: phân tích những khía cạnh của giao tiếp hiệu lực và xác định các giai đoạn phát triển nhóm. Một trong những điều kiện cơ bản để thiết lập giao tiếp hiệu lực theo các tác giả là tình huống không xác định trong đó mỗi thành viên của nhóm rơi vào tại thời điểm bắt đầu của nhóm T. Các thành viên có xu hướng giấu các thái độ thật của mình, các phản ứng, các xúc cảm bởi vì họ không biết họ sẽ chờ đợi điều gì từ những người khác. Do vậy, sự không xác định liên quan đến 2 mặt của sự thực hiện chức năng nhóm: vấn đề quyền lực và vấn đề phụ thuộc lẫn nhau. Vấn đề quyền lực - đó là vấn đề về thủ lĩnh, ai sẽ là người dẫn dắt và ai là người chịu sự điều khiển. Lĩnh vực quan hệ liên nhân cách giữa các thành viên nhóm cũng không rõ ràng. Ở đây sự không xác định liên quan đến vấn đề bền chặt của các liên hệ xúc cảm. Các tác giả cho rằng vấn đề thủ lĩnh là vấn đề mang tính thứ nhất và định hướng mối quan hệ với thủ lĩnh là thứ 2, ở mức độ nhất định quyết định hướng quan hệ của các thành viên với những thành viên khác. Do vậy, trong quá trình phát triển nhóm, trước hết phải giải quyết vấn đề quyền lực, thủ lĩnh và chỉ trên cơ sở giải quyết vấn đề đó mới giải quyết được vấn đề mối quan hệ giữa các thành viên nhóm. Điểm cơ bản trong việc phân tích các “hành vi nhóm” là phân chia 2 loại mối quan hệ trong nhóm: quan hệ thành viên với thủ lĩnh và quan hệ giữa các thành viên. Trong đó quan hệ giữa thành viên với thủ lĩnh mang tính thứ nhất vừa ở phương diện phát triển nhóm, vừa ở phương diện quy định các quan hệ giữa các thành viên nhóm. Theo đó có thể chia thành 2 pha trong sự phát triển nhóm. Nội dung của pha thứ nhất giải quyết vấn đề thủ lĩnh nhóm; trong pha thứ hai là vấn đề quan hệ qua lại giữa các thành viên nhóm. Trong mỗi pha lại có 3 tiểu pha, tức là có 6 giai đoạn. Trong pha đầu, nhóm gặp phải những tình huống sau: Những người tham gia chờ đợi người huấn luyện nhận trách nhiệm nắm giữa quyền lực. Tuy nhiên với nhóm T, người huấn luyện được chỉ định trước không nhận trách nhiệm đó và phải thông báo trước về vấn đề đó. Thông thường trong thời điểm đó có sự căng thẳng nhất định, xuất hiện sự không hài lòng với tình huống, tranh luận về mục đích và các nhiệm vụ của nhóm. Sự bắt đầu của tiểu pha thứ 2 liên quan đến yêu cầu đối với người huấn luyện để bỏ lại nhóm. Xuất hiện 2 ý kiến đối lập nhau: một số thành viên ủng hộ cấu trúc thủ lĩnh mạnh còn số khác đề nghị một bầu không khí nhóm ít mang tính cấu trúc hơn, chống lại thủ lĩnh mạnh và những hình thức quản lý nhóm nghiêm khắc. Tiểu pha thứ 3 liên quan đến việc giải quyết vấn đề thủ lĩnh. Việc này có thể nhanh chóng được giải quyết hay ngược lại, khi đó nhóm nằm trong trạng thái lung lay. Cuối cùng, nếu nhóm không tan rã thì nó sẽ chuyển sang một pha mới: pha thiết lập các mối quan hệ liên nhân cách hay giải quyết vấn đề sự phụ thuộc lẫn nhau. Các tiểu pha của pha thứ 2 có thể có những lệch pha nhất định: nhóm có thể không đạt được mục đích cuối cùng hoặc là trong một thời gian dài không xác định dừng lại ở một pha nào đó hoặc tan rã. Như vậy, rõ ràng lý thuyết của Benis và Shepard được xây dựng hoàn toàn dựa vào việc quan sát hoạt động của nhóm T. Các tác giả của nó không có tham vọng đối với tính khái quát của lý thuyết này nhưng đôi khi có xu hướng vận dụng lý thuyết này một cách không có chỉnh sửa vào việc giải thích sự phát triển nhóm ở phạm vi các nhóm nói chung. Lý thuyết này chưa chỉ ra thời gian kéo dài của mỗi pha. Nó chỉ đề cập đến sự tiếp nối giữa các pha chưa chỉ ra các biến số ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của nhóm cũng như đến việc giải quyết vấn đề sự phụ thuộc qua lại. Tính dự báo của lý thuyết này còn hạn chế. Lý thuyết thứ 2 về sự phát triển nhóm có được cơ sở tương đối rộng rãi hơn là lý thuyết “xã hội hóa nhóm” của R.Morlend và J.Livan. Quá trình phát triển nhóm được xem xét tương tự với quá trình xã hội hóa cá nhân, phân tích sự tồn tại không gian, thời gian của nhóm. Mỗi giai đoạn trong sự phát triển nhóm được đặc trưng bởi một loại quan hệ giữa nhóm với mỗi cá nhân khi cá nhân trở thành thành viên nhóm. Các giai đoạn có thê được so sánh với nhau dựa trên 3 tiêu chí: - Sự đánh giá (mục đích nhóm, vị trí của nhóm giữa các nhóm khác, ý nghĩa của mục đích nhóm đối với mỗi cá nhân thành viên). - Trách nhiệm (của nhóm trong quan hệ đối với các thành viên và của mỗi cá nhân đối với nhóm, trong tiến trình đó bộc lộ mức độ hài lòng đối với các kì vọng lẫn nhau. Nâng cao sự đồng thuận, các tiếp xúc xúc cảm, động cơ duy trì nhóm là kết quả của việc thực hiện các trách nhiệm qua lại... - Cấu trúc lại các vai của các thành viên nhóm (Mức độ tham gia nhiều hơn hay ít hơn của các thành viên, mức độ đồng nhất với nhóm. Với mục đích này chia ra 5 loại vai trò có thể có của thành viên nhóm: Thành viên tiềm năng, thành viên mới, thành viên đầy đủ, thành viên cận biên, cựu thành viên). Trên cơ sở các tiêu chí kể trên, các giai đoạn trong đời sống nhóm được xác định tương ứng với các vị trí (vai) của các thành viên. Sự kết hợp các giai đoạn và vai được thể hiện trong “Mô hình hệ thống quá trình” của M.Tremerse. Sự tương ứng các giai đoạn và vai trò có thể biểu diễn như sau: Vai trò Giai đoạn Thành viên tiềm năng Thành viên mới Thành viên đầy đủ Thành viên cận biên Cựu thành viên Tìm hiểu (thành viên tìm hiểu nhóm). Xã hội hóa thành viên (trong nhóm). Hỗ trợ (nhóm hỗ trợ thành viên). Tái xã hội hóa (có khả năng thành viên rời bỏ nhóm). Nhớ lại (về nhóm mà người đó không còn là thành viên). Như vậy trong mô hình nêu trên, điểm nhấn mạnh là ở chỗ kết hợp các giai đoạn phát triển nhóm với quá trình xã hội hóa cá nhân trong nhóm. Rõ ràng mô hình này cho phép nhóm ngừng tồn tại trong trường hợp nếu như việc ở trong nhóm không cần thiết đối với các thành viên nhóm. Khái niệm “giai đoạn” phát triển nhóm được hiểu là các thời kì khác nhau với các đặc điểm về vai trò và mức độ tham gia của các thành viên vào nhóm, các giai đoạn này được phân biệt bởi 1 tập hợp các tiêu chí. Mỗi giai đoạn liên quan đến sự thay đổi thành phần của nhóm: các thành viên mới tham gia vào nhóm, một số thành viên cũ rời bỏ, diễn ra quá trình chuyển hóa thành viên tiềm năng thành thành viên đầy đủ và sau đó đôi khi thành “thành viên cận biên” nếu như nhóm không còn thỏa mãn được nhu cầu của thành viên đó và có thể có sự chia tay với nhóm. Mức độ chấp nhận của nhóm đối với mỗi thành viên và ngược lại của mỗi thành viên đối với thực tế nhóm là những nhân tố của sự thay đổi các vai của các thành viên nhóm. Quá trình xã hội hóa nhóm diễn ra không phải trong chân không: đặc trưng văn hóa và các quan hệ xã hội mà trong phạm vi đó nhóm tồn tại ảnh hưởng đến sự thay đổi trong nhóm. Có nhiều quan niệm khác nhau về sự phát triển của nhóm nhỏ: - Ober Nir đưa ra mô hình phát triển nhóm nhỏ theo bốn giai đoạn: 1) Thời kì thứ bậc dửng dưng của nhóm trên cơ sở tiêu chí biểu cảm và các vai đa năng; 2) Thời kì nhiễu loạn: phá hủy cấu trúc phân vai và xuất hiện các bất hòa trong nhóm; 3) Thời kì hình thành các tiêu chuẩn công cụ, 4) Thời kì thực hiện - hình thành chức năng, sự sắp đặt các tác dụng phụ thuộc trong mối liên hệ qua lại. - Trên phương diễn giải quyết nhiệm vụ E.A.Marby chia thành các giai đoạn: Giai đoạn tiềm ẩn (tìm kiếm nhiệm vụ), giai đoạn thích nghi, giai đoạn liên kết giai đoạn giải quyết nhiệm vụ, đạt kết quả chung. - B.Tacmen: Giai đoạn kiểm tra và phụ thuộc, giai đoạn xung đột nội bộ, giai đoạn phát triển sự cố kết nhóm nhờ sự hài hòa dần các quan hệ và biến mất của xung đột nhóm giai đoạn tương ứng chức năng vai trò, cùng với sự hình thành cấu trúc phân vai của nhóm. - Quan điểm của A.V.Petrovxki: Nếu căn cứ vào tính tích cực của nhóm nhỏ vào ý nghĩa xã hội của hoạt động chung, sự phát triển của nhóm nhỏ có thể coi là quá trình vận động giữa hai cực: coi sự phát triển cao nhất của nhóm nhỏ là tập thể - tập thể là cực phát triển cao của nhóm nhỏ, cực đối lập với tập thể là nhóm hỗn độn. Các nhóm ở giữa hai cực này là các nhóm phân tán, trong đó thiếu vắng hoạt động cùng nhau. Có các giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển đó: giai đoạn tổng hợp sơ cấp - phân hóa - hợp nhất - tập thể. Các lý thuyết phát triển nhóm vẫn tiếp tục được xây dựng trong phạm vi nghiên cứu các định hướng văn hóa xã hội khác nhau, cụ thể như định hướng quan hệ tập thể - cá nhân. Các nghiên cứu chủ yếu chỉ ra thái độ của nhân cách đối với định hướng này hay định hướng khác trong mối quan hệ tập thể cá nhân ở các môi trường văn hóa khác nhau. Các nghiên cứu được thực hiện như là các nghiên cứu xuyên văn hóa (so sánh văn hóa). Định hướng nghiên cứu mới liên hệ chặt chẽ với quá trình phát triển của nhóm: chuyển từ một pha sang pha khác một phần lớn phụ thuộc vào việc phong cách nổi trội của sự định hướng, có nghĩa là hành vi nào “chiến thắng” trong nhóm và nhờ đó tạo điều kiện hay cản trở sự chuyển hóa sang một pha mới. Trong văn hóa cá nhân, sự phát triển nhóm đòi hỏi sự vận động tới đỉnh cao của quyền cá nhân của nhân cách, trong văn hóa tập thể - tới sự quan tâm về lợi ích chung. Cũng như trong các cách tiếp cận đã được phân tích ban đầu, một tư tưởng quan trọng ngày càng được củng cố là sự phát triển nhóm phụ thuộc vào tính chất xã hội trong đó nhóm tồn tại. HƯỚNG VẬN DỤNG TRONG DẠY HỌC VÀ GIÁO DỤC: Những vấn đề liên quan đến nhóm xã hội là những vấn đề có được sự quan tâm lớn trong giai đoạn hiện nay, trong dạy học và giáo dục mối quan tâm chủ yếu hướng tới các nhóm nhỏ. Cụ thể: - Chú ý đầy đủ đến việc tổ chức các nhóm sinh viên trong quá trình dạy học và giáo dục. Nên coi các nhóm sinh viên là đơn vị cơ sở của hoạt động dạy học và giáo dục. Hầu hết các hoạt động của sinh viên diễn ra trong môi trường nhóm nhỏ, các cơ chế tâm lý xã hội cũng phát huy tác dụng trong nhóm. Đặc biệt, nhóm nhỏ là môi trường thuận lợi cho việc phát huy tính tích cực chủ động trong học tập và nghiên cứu của sinh viên, là môi trường cho việc rèn luyện các “kĩ năng mềm”. - Hình thành nhóm nhỏ trong dạy học, giáo dục bằng nhóm và thông qua nhóm. Để thực hiện điều đó cần ý thức rõ việc tổ chức nhóm và tác động để hình thành các hiện tượng tâm lý nhóm, từ việc lựa chọn quy mô nhóm, đến việc giúp nhóm hình thành các mục tiêu, các nguyên tắc, khuyến khích sự chủ động trong hoạt động của nhóm, quan tâm đến sự phát triển của nhóm. - Cần đưa ra những yêu cầu chính thức khi hình thành các nhóm: đánh giá kết quả của nhóm, của cá nhân trong nhóm trong sự tương quan với kết quả của nhóm, sự luân chuyển các vai trò xã hội trong cấu trúc chính thức của nhóm. - Quan tâm đến quá trình ra quyết định nhóm sự hình thành các chuẩn mực nhóm. CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG III 1. Nhóm xã hội là gì? Có những loại nhóm xã hội nào? Ý nghĩa của việc nghiên cứu các nhóm xã hội? 2. Phân tích sự khác biệt giữa cấu trúc chính thức và cấu trúc không chính thức của nhóm. Cần có cách ứng xử như thế nào với cấu trúc không chính thức? Tại sao? 3. Chuẩn mức nhóm là gì? Vai trò của chuẩn mục nhóm? Làm thế nào để hình thành các chuẩn mực nhóm? 4. Nhóm nhỏ là gì? Có các loại nhóm nhỏ nào? Trong dạy học và giáo dục theo anh (chị) cần quan tâm tới nhóm nhỏ nào? Tại sao? Chương 4. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TÂM LÝ XÃ HỘI CỦA TẬP THỂ I. TẬP THỂ VÀ CẤU TRÚC QUAN HỆ CÁ NHÂN TRONG TẬP THỂ 1. Khái niệm tập thể
File đính kèm:
- tam_ly_hoc_xa_hoi_tran_quoc_thanh.pdf