Tập bài giảng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin I

Tóm tắt Tập bài giảng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin I: ...liên hệ khác nhau, giữ vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại và phát triển của nó; mặt khác, cùng một mối liên hệ nhất định, ở những giai đoạn khác nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau. Quan điểm về tính phong phú, đa dạng của... định vốn có của mọi sự vật, hiện tượng; không phụ thuộc vào ý thức của con người. +Tính phổ biến : Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng cũng như trong tất cả các giai đoạn phát triển của chúng. Mâu thuẫn này mất đi mâu thuẫn khác nẩy sinh thay thế. +Tính đa dạng, phong phú: Một s... phẩm sản xuất ra. Các mặt của quan hệ sản xuất tồn tại trong mối quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn nhau trên cơ sở quyết định của quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. - Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan h...

doc52 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 285 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tập bài giảng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin I, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h ý thức xã hội
a. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội
Khái niệm tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.
	Tồn tại xã hội bao gồm các yếu cơ bản: phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý và mật độ dân cư. Trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất. 
Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nẩy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
	Trong xã hội có giai cấp, ý thức xã hội cũng có tính giai cấp, phản ánh điều kiện sinh hoạt vật chất và lợi ích khác nhau, đối lập nhau giữa các giai cấp
b. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội; mỗi khi tồn tại xã hội (nhất là phương thức sản xuất) thay đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hoá, nghệ thuật,...tất yếu sẽ biến đổi theo. 
 Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan điểm lý luận, hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội 
	Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định tính độc lập tương đối của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương đối đó biểu hiện ở những điểm sau:
	Thứ nhất, thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội. 
	Nhiều yếu tố của ý thức xã hội có thể tồn tại rất lâu dài ngay cả khi cơ sở tồn tại xã hội sản sinh ra nó đã được thay đổi căn bản. Sở dĩ như vậy là vì:
- Một là, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội cho nên nói chung ý thức xã hội chỉ có thể biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Mặt khác tồn tại xã hội thường biến đổi với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. 
- Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một hình thái ý thức xã hội.
- Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
 Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội đặt ra.
	Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình.
 Những quan điểm lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa những tài liệu lý luận của thế hệ trước. Trong xã hội có giai cấp, sự kế thừa có tính chất giai cấp.
Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng. 
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội là một nguyên nhân làm cho trong mỗi hình thái ý thức xã hội có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách trực tiếp từ tồn tại xã hội.
 Thường thì trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể có một vài hình thái YTXH nổi lên hàng đầu và tác động mạnh đến các hình thái YTXH khác. Nhìn chung, trong sự tác động lẫn nhau giữa các hình thái ý thức, ý thức chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng.
	Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội. 
Sự tác động trở lại của YTXH đối với tồn tại xã hội là một biểu hiện quan trọng của tính độc lập tương đối của YTXH. Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau. Trong sự tác động trở lại này, cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội. 
 Ý nghĩa phương pháp luận
	Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biện chứng của đời sống xã hội. Vì vậy, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội. 
IV. HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ - TỰ NHIÊN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
1. Khái niệm, cấu trúc hình thái kinh tế - xã hội
Phạm trù hình thái kinh tế- xã hội dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và với một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
	Hình thái kinh tế -xã hội là một hệ thống hoàn chỉnh, có cấu trúc phức tạp, trong đó có các mặt cơ bản là lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Mỗi mặt của hình thái kinh tế - xã hội có vị trí riêng và tác động qua lại lẫn nhau, thống nhất với nhau.
 Lực lượng sản xuất là nền tảng vật chất- kỹ thuật của hình thái kinh tế- xã hội.
 Quan hệ sản xuất là quan hệ cơ bản, ban đầu và quyết định tất cả các quan hệ xã hội khác. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một quan hệ sản xuất đặc trưng cho nó. Quan hệ sản xuất là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội, các quan hệ sản xuất tạo thành cơ sở hạ tầng của xã hội.
	Kiến trúc thượng tầng được hình thành, phát triển phù hợp với cơ sở hạ tầng, nhưng nó lại là công cụ bảo vệ, duy trì phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó.
2. Quá trình lịch sử- tự nhiên của sự phát triển các hình thái kinh tế- xã hội
Tính chất lịch sử – tự nhiên của quá trình phát triển các hình thái kinh tế – xã hội được phân tích ở các nội dung chủ yếu sau:
Một là, sự vận động phát triển của xã hội tuân theo các quy luật khách quan, đó là quy luật của chính bản thân cấu trúc hình thái kinh tế- xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học,mà trước hết và cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng.
Hai là, nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị,.. của xã hội, suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển lực lượng sản xuất của xã hội đó.
Ba là, quá trình phát triển của các hình thái kinh tế- xã hội, tức là quá trình thay thế nhau của các hình thái kinh tế- xã hội trong lịch sử nhân loại, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan.
Trong khi khẳng định tính chất lịch sử- tự nhiên, thì tiến trình phát triển lịch sử nhân loại nói chung và lịch sử mỗi cộng đồng người cụ thể nói riêng còn có sự tác động của các nhân tố thuộc về điều kiện địa lý, truyền thống văn hoá,Chính sự tác động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng đồng người có thể diễn ra với những con đường, hình thức và bước đi khác nhau, tạo nên tính đa dạng phong phú trong sự phát triển của lịch sử nhân loại. Có những nước phát triển tuần tự qua các hình thái kinh tế- xã hội: nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và tương lai là chủ nghĩa cộng sản. Có những nước trong tiến trình phát triển đã “bỏ qua” một hay vài hình thái kinh tế- xã hội nhất định. Tuy nhiên, những sự “bỏ qua” như vậy đều phải có những điều kiện khách quan và chủ quan nhất định.
3. Giá trị khoa học của lý luận hình thái kinh tế- xã hội 
	Lý luận hình thái kinh tế- xã hội đã cung cấp một phương pháp luận thực sự khoa học trong nghiên cứu về lĩnh vực xã hội.
Thứ nhất, theo lý luận này, sản xuất vật chất chính là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất vật chất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất và do đó cũng là nhân tố quyết định trình độ phát riển của đời sống xã hội và lịch sử nói chung.
Thứ hai, theo lý luận này, các phương diện của đời sống xã hội tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó quan hệ sản xuất đóng vai trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan hệ xã hội khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội khác nhau.
Thứ ba, theo lý luận này, muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của đời sống xã hội phải đi sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của xã hội.
V. VAI TRÒ CỦA ĐẤU TRANH GIAI CẤP VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI ĐỐI VỚI SỰ VẬN ĐỘNG, PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI CÓ ĐỐI KHÁNG GIAI CẤP
1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp
a. Khái niệm giai cấp
V.I. Lênin trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại” đã định nghĩa: “Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng”.
Thực chất của sự phân hoá giai cấp trong xã hội chính là sự phân hoá những con người trong một cộng đồng xã hội thành những kẻ bóc lột và những người bị bóc lột.
Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh: giai cấp nào nắm được tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì cũng đồng thời có khả năng chiếm được địa vị làm chủ quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước, do đó có khả năng khách quan trở thành giai cấp thống trị xã hội.
Tầng lớp xã hội chỉ sự phân tầng, phân lớp, phân nhóm giữa những con người trong cùng một giai cấp theo địa vị và sự khác biệt cụ thể của họ trong giai cấp đó như: lao động giản đơn, tầng lớp lao động phức tạp, tầng lớp lao động chuyên gia,
b. Nguồn gốc giai cấp
Theo C.Mác “sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”. 
	Nguồn gốc trực tiếp của sự phân hoá giai cấp trong xã hội chính là do sự ra đời và tồn tại của chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, đặc biệt là những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội
	Nguồn gốc sâu xa của sự phân hoá giai cấp trong xã hội chính là do tình trạng phát triển nhưng chưa đạt tới trình độ xã hội hoá cao của lực lượng sản xuất. 
c. Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự vận động, phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp
 Theo V.I. Lênin đấu tranh giai cấp là “Cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
 Thực chất của cuộc đấu tranh giai cấp là nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn về mặt lợi ích kinh tế và chính trị xã hội giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị ở những phạm vi và mức độ khác nhau.
Để bảo vệ lợi ích của mình, giai cấp thống trị sinh ra một cơ quan bạo lực có tổ chức- đó là Nhà nước. Vì vậy, vấn đề chính quyền nhà nước, quyền lực nhà nước là vấn đề trung tâm và cơ bản của cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội. Kết quả cuối cùng của những cuộc đấu tranh đó đều dẫn tới sự ra đời của phương thức sản xuất mới. Phương thức sản xuất mới ra đời tạo ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội.
Như vậy, trong điều kiện xã hội có đối kháng giai cấp thì sự phát triển của xã hội chỉ có thể thực hiện được thông qua cuộc đấu tranh giai cấp nhằm giải quyết mâu thuẫn đối kháng trong đời sống kinh tế và chính trị- xã hội. Trong trường hợp này, đấu tranh giai cấp không chỉ là động lực của sự phát triển lịch sử mà còn là phương thức của sự tiến bộ và phát triển xã hội.
2. Cách mạng xã hội và vai trò của nó đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp
a. Khái niệm cách mạng xã hội và nguyên nhân của nó
Theo nghĩa rộng, cách mạng xã hội là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, là phương thức chuyển từ một hình thái kinh tế - xã hội lỗi thời lên một hình thái kinh tế - xã hội mới ở trình độ phát triển cao hơn.
 Theo nghĩa hẹp, cách mạng xã hội là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời và thiết lập một chế độ chính trị tiến bộ hơn của giai cấp cách mạng.
	Khái niệm cải cách xã hội dùng để chỉ những cuộc cải biến diễn ra trên một hay một số lĩnh vực của đời sống xã hội trong phạm vi hình thái kinh tế- xã hội, nhằm hoàn thiện hình thái kinh tế- xã hội đó. 
	Khái niệm đảo chính dùng để chỉ những sự biến tranh giành địa vị quyền lực nhà nước giữa các lực lượng chính trị (thường là trong cùng một giai cấp) và chủ trương không thay đổi bản chất chế độ hiện thời, nó có thể được tiến hành dưới hình thức bạo lực hoặc phi bạo lực
	 Nguyên nhân sâu xa Xuất phát từ mâu thuẫn bên trong của nền sản xuất vật chất xã hội, mâu thuẫn gay gắt giữa nhu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất với sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đó đã trở nên lỗi thời mà không một cuộc cải cách kinh tế hay chính trị nào có thể giải quyết được- đó là nguyên nhân khách quan.
	Nguyên nhân chủ quan, đó là sự phát triển nhận thức và tổ chức của giai cấp cách mạng, tức là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất mới tiến bộ.
b. Vai trò của cách mạng xã hội đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp.
	Cách mạng xã hội giữ vai trò là một trong những phương thức, động lực của sự phát triển xã hội. Thông qua cách mạng xã hội diễn ra quá trình thay thế hình thái kinh tế- xã hội này bằng một hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn. Mặt khác, chính nhờ những cuộc cách mạng xã hội mà mâu thuẫn cơ bản của đời sống xã hội trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, được giải quyết triệt để, từ đó tạo ra động lực cho sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Trong thời kỳ cách mạng, năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân được phát huy cao độ, có thể sáng tạo ra lịch sử mới với một sức mạnh phi thường
VI. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ VỀ CON NGƯỜI VÀ VAI TRÒ SÁNG TẠO LỊCH SỬ CỦA QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN
1. Con người và bản chất của con người
a. Khái niệm con người.
	Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống nhất biện chứng giữa hai phương diện tự nhiên và xã hội.
	- Bản tính tự nhiên của con người được phân tích từ hai giác độ sau:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hoá và phát triển lâu dài của giới tự nhiên. Thứ hai, con người là một bộ phận của giới tự nhiên và đồng thời giới tự nhiên cũng “là thân thể vô cơ của con người”.
	- Bản tính xã hội của con người được phân tích từ hai góc độ sau:
Thứ nhất, nhờ có lao động mà con người vượt qua loài động vật để tiến hoá và phát triển thành người.
Thức hai, sự tồn tại và phát triển của con người luôn bị chi phối bởi các nhân tố xã hội và các quy luật xã hội.
b. Bản chất con người
Trong luận cương về Phoiơbăc, Mác viết: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của những cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”.
Luận điểm này trong khi thừa nhận bản tính tự nhiên của con người còn lý giải con người từ giác độ các quan hệ lịch sử xã hội, từ đó phát hiện ra bản tính xã hội của con người. Bản tính xã hội của con người chính là phương diện bản chất của con người với tư cách “người”, phân biệt con người với các tồn tại khác của tự nhiên. 
	Con người là sản phẩm tất yếu của những quan hệ kinh tế, chính trị- xã hội trong những điều kiện lịch sử xác định, khi những quan hệ này thay đổi thì do đó cũng có sự thay đổi bản chất của con người. Như thế, con người, xét từ giác độ bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của lịch sử; lịch sử sáng tạo ra con người trong chừng mực nào thì con người lại cũng sáng tạo ra lịch sử trong chừng mực đó.
	Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người trong hoạt động thực tiễn, thông qua hoạt động thực tiễn, tác động vào giới tự nhiên, làm cải biến giới tự nhiên theo nhu cầu sinh tồn và phát triển của nó thì đồng thời con người cũng sáng tạo ra lịch sử của chính nó, thực hiện sự phát triển của lịch sử đó.
 Ý nghĩa phương pháp luận.
	Một là, để giải thích một cách khoa học những vấn đề về con người thì không đơn thuần từ phương diện bản tính tự nhiên của nó mà điều căn bản hơn, có tính quyết định là từ phương diện bản tính xã hội của nó, từ những quan hệ kinh tế- xã hội của nó.
	Hai là, động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực sáng tạo của mỗi con người.
	Ba là, sự nghiệp giải phóng con người, nhằm phát huy khả năng sáng tạo lịch sử của nó là phải hướng vào sự nghiệp giải phóng những quan hệ kinh tế- xã hội.
2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân.
a. Khái niệm quần chúng nhân dân
Quần chúng nhân dân chỉ phương thức liên kết những con người thành sức mạnh cộng đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của những cá nhân hay các tổ chức chính trị, xã hội nhất định nhằm giải quyết các nhiệm vụ lịch sử trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá của xã hội.
	Khái niệm quần chúng được xác định bởi các nội dung sau đây:
Thứ nhất, những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần; đó là hạt nhân cơ bản trong cộng đồng quần chúng nhân dân.
Thứ hai, những bộ phận dân cư chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột đối kháng với cộng đồng nhân dân. 
Thứ ba, những giai cấp, những tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ xã hội thông qua hoạt động của mình, trực tiếp hay gián tiếp trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
b. Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân và vai trò của cá nhân trong lịch sử
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định, quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng quyết định sự phát triển của lịch sử. Do đó lịch sử trước hết và cơ bản là lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế- xã hội. Biểu hiện:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của sự tồn tại và phát triển của xã hội.
Thứ hai, quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn hoá tinh thần.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thể tách rời vai trò cụ thể của mỗi cá nhân mà đặc biệt là vai trò của cá nhân ở vị trí thủ lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm vĩ nhân của cộng đồng nhân dân.
	Khái niệm cá nhân dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một cộng đồng xã hội nhất định và được phân biệt với những con người khác thông qua tính đơn nhất và tính phổ biến của nó.
	Vĩ nhân là những cá nhân kiệt xuất trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, khoa học.
	Khái niệm lãnh tụ dùng để chỉ những cá nhân kiệt xuất do phong trào cách mạng của quân chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mặt thiết với quần chúng nhân dân. Lãnh tụ là người phải có các phẩm chất sau:
Một là, có tri thức khoa học uyên bác, nắm bắt được xu thế vận động, phát triển của lịch sử.
Hai là, có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhân dân vào việc giải quyết nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển của lịch sử.
Ba là, gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh vì lợi ích của quần chúng nhân dân.
	Lãnh tụ có vai trò to lớn đối với phong trào quần chúng như sau: 
	Một là, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tiến bộ xã hội. 
	Hai là, lãnh tụ là người sáng lập ra các tổ chức chính trị, xã hội, có vai trò ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại, phát triển và hoạt động của các tổ chức ấy. 
	Ba là, lãnh tụ của mỗi thời đại chỉ có thể hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra của thời đại đó. Không có lãnh tụ của mọi thời đại, mà chỉ có lãnh tụ gắn với thời đại nhất định.

File đính kèm:

  • doctap_bai_giang_mon_hoc_nhung_nguyen_ly_co_ban_cua_chu_nghia_m.doc
Ebook liên quan