Tạp chí Khoa học Kiến trúc và xây dựng - Số 40/2021
Tóm tắt Tạp chí Khoa học Kiến trúc và xây dựng - Số 40/2021: ...ượng lớn); một số chim, thú đã được thuần dưỡng (gắn với hình người). Con người hiện diện như một thế giới riêng, ở giữa Trời và Đất. Nhiều hình chim thấy rõ đặc điểm của loài sống ở sông nước: chân cao, mỏ dài để bắt cá (có hình chim đang ngậm con cá), gián tiếp phản ánh sự hiện diện của ...rong khu cư trú để tổ chức thành một hệ thống chuỗi ở kết hợp sản xuất nhằm hỗ trợ nhau trong kỹ thuật cũng như điều kiện công nghệ cao trong sản xuất. Điều này sẽ giải quyết được vấn đề sản xuất manh mún và không đồng bộ mà thực tại nông thôn đang mắc phải. Bên cạnh đó, sự liên kết trong ... người nông dân đồng bằng Bắc Bộ “đều phải thán phục sự thích nghi mềm dẻo và sự quan sát của người nông dân”. Có thể nói, người dân vùng đồng bằng Bắc Bộ có sự dung hợp trong tiếp nhận, mềm dẻo, hiếu hòa trong đối phó; họ rất linh hoạt, uyển chuyển, luôn biến báo cho thích hợp với từng h...
với công nghệ xây dựng hiện tại hơn là việc cụ thể hoá những chi tiết (những thứ khá cũ và ít dùng đến). Trong mỗi học phần Thiết kế kiến trúc, kiến thức về cấu tạo kiến trúc đều được lồng ghép qua việc triển khai chi tiết cấu tạo. Đây là một phương thức mang đến sự thực hành, trải nghiệm cụ thể, có địa chỉ và hướng tới sáng tạo. Thêm nữa, nhờ có sự phát triển của công nghệ thông tin và sự dồi dào của kho học liệu trên mạng internet mà sự tiếp cận kiến thức của thầy và trò được đa dạng, đa chiều và cập nhật hơn. Thực tế giảng dạy và học tập học phần cấu tạo kiến trúc trong chương trình đào tạo kiến trúc sư ở trường Đại học Kiến trúc Hà Nội đã và đang đạt những kết quả khả quan, được minh chứng bằng năng lực của các sinh viên sau khi ra trường được trải nghiệm và va chạm với thực tế đã nâng cấp kiến thức và kỹ năng tích luỹ được trong trường để cho ra những thiết kế công trình được sự công nhận của xã hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh luôn biến đổi và phát triển của nhu cầu xã hội, công nghệ thiết kế- xây dựng và môi trường hành nghề nên đã xuất hiện những bất cập trong giảng dạy và học tập. Do thời lượng của môn học rút lại nên không tránh khỏi việc công thức hoá, tính biệt lập thiếu móc xích và quan hệ giữa các 94 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG KHOA H“C & C«NG NGHª chương- hay các bộ phận chính- xuất hiện trong quá trình truyền đạt thông tin đến người học. Việc bắt buộc triển khai chi tiết cấu tạo trong đồ án là rất cần, tuy nhiên có phần lơi lỏng do việc dành thời gian tập trung vào nội dung chính của đồ án, và đến cuối thì thường làm cho có lệ- kể cả trong một số đồ án tốt nghiệp. Năng lực nhận thức, thẩm thấu kiến thức của sinh viên trong đầu học kỳ 3 (đầu năm thứ 2) còn chưa đủ để hiểu thấu chiều sâu kiến thức của môn học, kéo theo sự thụ động trong tiếp nhận thông tin và chiều hướng bất lực khi chạm vào những kiến thức đòi hỏi năng lực tư duy, suy luận, kỹ năng xử lý thoả hiệp. Thiếu sự trải nghiệm và thực hành mang tính cần thiết, bắt buộc trong trường đại học, không nói đến sự trải nghiệm, thực hành thực tế sau này. Để căn bản tiếp cận tới bản chất của việc truyền thụ và tiếp thu, tìm kiếm kiến thức thì còn cần những nghiên cứu, tìm hiểu để dần có cách nhìn và định hướng cụ thể nhằm đổi mới học phần Cấu tạo kiến trúc trong đào tạo kiến trúc sư, cụ thể trong trường đại học Kiến trúc Hà Nội. Vì vậy bài viết này mong muốn gợi ra được những cách nhìn bao quát cho việc tiếp cận đổi mới nội dung và phương thức giảng dạy, học tập môn cấu tạo kiến trúc cho đào tạo kiến trúc sư trong trường Đại học kiến trúc Hà Nội. 2. Những yếu tố ảnh hưởng đến phương thức chuyển tải và tiếp nhận kiến thức môn học 2.1 Các yêu cầu của chuẩn đầu ra theo định hướng tiếp cận mô hình CDIO CDIO là tên viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Conceive – Design – Implemant- Operate, có nghĩa là: hình thành ý tưởng, thiết kế ý tưởng, thực hiện và vận hành. Khởi nguồn từ Viện Công nghệ MIT (Hoa Kỳ), cho đến nay, mô hình này đã được các trường ĐH, CĐ trên thế giới áp dụng ngày càng nhiều. Về bản chất, CDIO là một giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng yêu cầu xã hội (XH) trên cơ sở xác định chuẩn đầu ra, từ đó thiết kế chương trình và kế hoạch đào tạo. Quy trình này được xây dựng một cách khoa học, hợp lý, logic, có thể áp dụng cho nhiều lĩnh vực đào tạo khác nhau. Theo mô hình CDIO, chuẩn đầu ra cho học phần Cấu tạo kiến trúc trong chương trình đào tạo Kiến trúc sư cần được xác định như sau: - Về Kiến thức: Sinh viên có thể hiểu được các thuật ngữ, khái niệm, chức năng, yêu cầu kỹ thuật và nguyên tắc thiết kế các bộ phận chính của công trình kiến trúc. Sinh viên có khả năng nhận biết về ý nghĩa, vai trò và đưa ra các giải pháp về cấu tạo của các bộ phận công trình. Qua đó sẽ thể hiện được cấu trúc công trình và các bộ phận phục vụ cho sáng tác kiến trúc và triển khai các bản vẽ kỹ thuật về công trình. - Về Kỹ năng: Môn học cho sinh viên cơ hội rèn kĩ năng Nhớ các thuật ngữ và khái niệm về cấu trúc, thành phần công trình kiến trúc, Hiểu các phương pháp để tiếp cận phân tích, sáng tạo và đề xuất giải pháp và Áp dụng chúng trong một công trình thực tế do sinh viên tự đề xuất. Sinh viên có khả năng thể hiện bản vẽ và ghi chú bằng tiếng Anh (như bản vẽ quốc tế), có khả năng giao tiếp sử dụng ngoại ngữ bằng việc tìm tài liệu ngoài nước ngoài để lấy thông tin về Cấu tạo kiến trúc. - Về Thái độ: Sau khi kết thúc môn học, sinh viên có tính kiên trì, làm việc có tính chuyên nghiệp cao, có tình yêu và say mê với các công trình kiến trúc, qua đó hiểu về ý nghĩa của công trình nới chung các bộ phận công trình nới riêng, có tính kỉ luật và cẩn thận trong công việc. 2.2 Thông tin, học liệu cho môn học và phương thức tiếp cận mới Đến năm 2008, VOCW (Vietnam Open Courseware) đã có 208 môn học được đưa lên website. Một nửa số môn học này là do các thầy cô giáo thuộc các trường thành viên của VOCW chủ động đưa lên, nửa còn lại có được thông qua các hoạt động tài trợ và chuyển đổi các kho giáo trình đã có. Về cơ sở hạ tầng, mô hình hệ thống của VOCW, hiện có 3 trung tâm dữ liệu của dự án đặt tại Hà Nội, Đà Nẵng và TP.HCM và 20 trường đại học khắp cả nước tham gia vào dự án. Trong số đó, có 14 trường thành viên có máy chủ do Quỹ Giáo dục Việt Nam (VEF) tài trợ đã đi vào hoạt động và 06 trường đã có sẵn máy chủ giúp cho giảng viên và sinh viên của các trường này có thể tiếp cận ngay đến các nguồn tài nguyên đã được xuất bản trên VOCW. Internet là nguồn tìm kiếm thông tin vô cùng rộng lớn và đa dạng, đã và đang thay đổi mạnh mẽ phương thức tiếp cận thông tin trong đào tạo. Các sinh viên có thể dễ dàng tìm kiếm thông tin ở mức độ “nhận biết” và tiến dần tới mức độ “nhận thức” khi giảng viên đưa ra những chủ đề và từ khoá liên quan đến môn học. Đây là một phương thức hay công cụ cực kỳ mạnh mẽ và hiệu quả, làm thay đổi căn bản phương thức chuyển tải và tiếp cận, tiếp nhận thông tin trong đào tạo, nhất là môn học cấu tạo kiến trúc- với nhiều hình vẽ và chi tiết và những phương thức giải quyết đa dạng và đặc thù cho từng tình huống, từng công trình riêng biệt. 2.3 Xu hướng phát triển của thiết kế, thi công xây dựng công trình. - Thiết kế chuyên sâu, chuyên nghiệp, chuyên môn hoá Xu thế chung của thế giới đang và đang diễn ra là chuyên sâu, chuyên nghiệp và chuyên môn hoá trong thiết kế kiến trúc, bản thân một tổ chức thiết kế không muốn và cũng không thể ôm đồm quá nhiều phần việc trong quy trình thiết kế cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Vì vậy, hiện nay trên thế giới hình thành nên các tổ chức thiết kế có sự phân tách rõ ràng về vai trò chuyên môn- nó như đa khoa và chuyên khoa trong nghề bác sĩ, ngay cả ở Việt nam cũng không khó để thấy những tổ chức thiết kế như vậy. Bản thân trong trường Đại học Kiến trúc Hà nội, từ những thập niên 90 của thế kỷ trước cũng đã dần phân tách các chuyên ngành chuyên sâu trong đào tạo, và hiện nay xu thế đó ngày càng thấy rõ và quyết liệt hơn nhằm đáp ứng nhu cầu và bối cảnh hoạt động nghề thực tế. - Công nghệ, vật liệu xây dựng, phương thức thi công Sự biến đổi phát triển mạnh mẽ của công nghệ- vật liệu xây dựng và phương thức thi công có ảnh hưởng rất lớn đến việc đào tạo kiến trúc sư- những người khi ra trường phải hoà nhập vào hệ thống vận hành và phát triển của nó. Công nghệ xây dựng- vật liệu và phương thức thi công luôn thay đổi theo hướng ngày càng hiện đại, rộng và sâu về chuyên môn, dần hướng tới tính chia tách thành nhiều phạm vi và mức độ, và trong số đó có thể nằm ngoài khả năng giải 95 S¬ 40 - 2021 quyết trọn vẹn vấn đề của một kiến trúc sư. Đơn cử như người viết bài này phải thiết kế vách kính dựng bao ngoài cho một ngôi nhà 22 tầng, việc đầu tiên là kết nối với một đơn vị uy tín, chuyên nghiệp và có kinh nghiệm về kính vách dựng, trao đổi phác thảo và đề xuất của người thiết kế, sau đó lựa chọn thoả hiệp phương án tiếp cận tối ưu do họ đề xuất lại, và họ sẽ hoàn thiện dần bản vẽ thi công theo sự phối hợp năng lực của cả hai phía- người đề xuất (kiến trúc sư) và người có chuyên môn sâu đưa ra giải pháp và hoàn thiện nó. 3. Những vấn đề cần nghiên cứu để đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy học phần cấu tạo kiến trúc - Xu hướng dạy học- nghiên cứu theo vấn đề Dạy học dựa trên vấn đề (Problem- Based Learning) là hoạt động dạy học trong bối cảnh thực tiễn nhằm cung cấp kỹ năng giải quyết vấn đề tăng cường năng lực tự học và khả năng làm việc nhóm. Các vấn đề có liên quan đến thực tiễn được lựa chọn cẩn thận và được sử dụng làm nền tảng cho chương trình học. Nó giúp người học tiếp nhận tri thức và kỹ năng thông qua một quá trình học- hỏi. Xu hướng này cho tới giờ được ứng dụng rộng rãi trong cả dạy học phổ thông chứ không nói là trong đào tạo bậc đại học, nó rèn luyện những tư duy và kỹ năng giải quyết một hay nhóm vấn đề một cách tổng hợp, đòi hỏi sự đa dạng về kiến thức tổng hợp và khả năng tìm kiếm, chắt lọc nhưng kiến thức đó, dần loại trừ tính phiến diện trong giải quyết vấn đề- để có được những kết quản tối ưu và đúng đắn nhất. - Xu hướng giảng dạy nguyên lý Nguyên lý hay nguyên tắc (principle) là những ý tưởng hoặc lý thuyết ban đầu, quan trọng, được coi là xuất phát điểm cho việc xây dựng những lý thuyết khác. Thực ra xu hướng này đã được gắn với tên môn học từ lâu (chỉ biết thời khoá 1983, 1984 ở trường Đại học Kiến trúc Hà Nội đã có), đó là môn “Nguyên lý cấu tạo kiến trúc”, nhưng dần dà do gọi ngắn gọn lại mà giờ đây được gọi là môn “Cấu tạo kiến trúc”. Các giảng viên luôn tâm niệm là phải giảng nguyên lý chứ không giảng theo kiểu cụ thể hoá hay hiện tượng hoá. Nhưng đấy mới chỉ là tâm niệm và được thực hiện phần nào- do nhiều lý do. Cuối cùng thì những hiện tượng như những lời giải mang tính cụ thể, một kết quả cụ thể được sinh viên xem như một công thức cần phải nhất nhất làm theo, thiếu hẳn đi tính phân tích đánh giá so sánh lựa chọn giải pháp theo hoàn cảnh. Với thời lượng môn học như hiện nay, với bối cảnh hoạt động nghề nghiệp như hiện nay, cùng với đòi hỏi của chuẩn đầu ra và định hướng CDIO thì xu hướng giảng dạy môn cấu tạo kiến trúc cho sinh viên ngành kiến trúc theo nguyên lý là bắt buộc, nó cho sinh viên một cách nhìn, một hạt mầm của tư duy hơn là cho họ một vài trái chín. - Xu hướng nghiên cứu đánh giá Trong thử nghiệm của giảng viên, khi cho sinh viên hoặc nhóm sinh viên lựa chọn một chủ đề- bộ phận hay tập hợp các bộ phận cấu tạo kiến trúc để tìm kiếm sưu tầm, nhận xét và đánh giá theo nhưng tiêu chí mà giảng viên đặt ra, kết quả cho thấy những gì sinh viên thu được có giá trị hơn là họ được giao vẽ bộ phận đó- trong trạng thái chập chững của một người mới bước vào học kỳ đầu của năm thứ hai. Điều này có vẻ mâu thuẫn với việc trải nghiệm thực hành bằng cách vẽ nó, nhưng nếu xem trình bầy mới thấy lượng thông tin mà sinh viên chuyển tải tới người xem- nghe nhiều hơn rất nhiều so với chừng ấy thời gian để vẽ nó (vẫn là trong điều kiện của đầu học kỳ 1 của năm thứ 2) Không phủ nhận giá trị mang lại của việc trải nghiệm thực hành theo lối vẽ bài, nhưng với bối cảnh hiện nay, việc tăng cường các bài sưu tầm đánh giá là việc cần làm. Thực chất việc này bám sát một cách căn bản các cấp độ trong thang nhận thức Bloom và cho sinh viên thu nhận được lượng thông tin lớn cả về chiều rộng và chiều sâu cũng như tính thực tế của những thông tin ấy. Họ làm cái gì? Họ làm thế nào? Tại sao họ làm thế? Có cách nào khác hay hơn không?... và cuối cùng đương nhiên sẽ là sự sáng tạo, hoặc mầm mống của sự sáng tạo- cái mà mục đích của trường đại học luôn phải hướng tới, và các Kiến trúc sư cần phải đạt được. - Xu hướng phân tách giai kỳ Như đã nêu ở phần đầu, các sinh viên tiếp cận môn học vào đầu học kỳ 3- tức là vừa bước qua năm thứ nhất, chưa thể nói là họ đủ năng lực để thẩm thấu được những kiến trức của môn học được coi là môn chuyên ngành và cốt lõi trong hành trang của một kiến trúc sư. Bản thân giảng viên cũng bối rối khi mà nêu ra các vấn đề trong bài giảng ở một mức độ được cho là cần thiết, nhưng họ gần như tự nêu tự giải quyết, vì cấu tạo kiến trúc đòi hỏi dần sâu và rộng, đi suốt quãng đời hành nghề của kiến trúc sư- mà các sinh viên chỉ như người ngồi xem, khó tiếp cận và hoà mình với bài giảng của giảng viên. Phần đầu mang tính đại cương và phần sau mang tính đi sâu hơn, cụ thể giai kỳ đầu là vào cuối học kỳ 2 hoặc đầu học kỳ 3, khi mà bắt đầu học đồ án đầu tiên, giai kỳ sau vào cuối học kỳ 5 hoặc đầu học kỳ 6, khi mà sinh viên đã trải qua 4 đến 5 đồ án. Mục đích cũng là hướng tới tính hiệu quả của môn học. Nhưng có ý kiến cho rằng “phải học rồi mới vẽ được”, điều này hoàn toàn đúng, nhưng cũng phải nghĩ theo hướng có những thứ “phải vẽ rồi mới học được” thì mới đủ. Vậy phải phân tách giai kỳ. Thực tế thì trường Đại học Kiến trúc Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã đi đầu trong việc chia hai giai kỳ cho môn học cấu tạo kiến trúc, mỗi phần 3 tín chỉ, phần đầu vào cuối học kỳ 2 và phần hai vào cuối học kỳ 3- cách nhau đúng một kỳ. Phần cấu tạo kiến trúc 2 học song song với đồ án kiến trúc 2, như vậy thực tế vẫn chưa thể gọi là sinh viên đã đủ năng lực thẩm thấu môn cấu tạo 2. Căn cứ chương trình đào tạo kiến trúc sư của trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, việc đặt giai kỳ 2 (cấu tạo kiến trúc 2) sau đồ án kiến trúc 4, song song với đồ án kiến trúc 5 là hợp lý, thoả mãn việc hội tụ năng lực thẩm thấu và nhu cầu tìm hiểu của sinh viên theo hướng “phải vẽ rồi mới học được” đã nêu trên. 4. Kết luận Như vậy, có thể thấy được những nét bao quát mang tính xu thế tất yếu của việc cần phải luôn đổi mới môn học Cấu tạo kiến trúc trong đào tạo kiến trúc sư ở trường Đại học Kiến trúc Hà Nội nhằm bắt kịp và chủ động đáp ứng nhu cầu của xã hội cũng như những tiêu chí đặt ra trong chiến lược đào tạo chung của Nhà trường cũng như Bộ môn- theo xu thế chung của hệ thống đào tạo Việt Nam và thế giới. Được biết hiện nay Bộ môn công nghệ kiến trúc và Khoa kiến trúc- trường Đại học Kiến trúc Hà Nội cũng đang dần điều chỉnh môn học cấu tạo kiến trúc theo hướng đổi mới và hiệu quả, mong rằng những nhận định trên đây có được những đóng góp phần nào cho việc đó và vì vậy đóng góp cho công cuộc đổi mới chung trong đào tạo của nhà trường./. 96 T„P CHŠ KHOA H“C KI¦N TR”C - XŸY D¼NG KHOA H“C & C«NG NGHª T¿i lièu tham khÀo 1. Bộ môn cấu tạo và trang thiết bị công trình, Giáo trình Cấu tạo kiến trúc, khoa Kiến trúc, trường Đại học Kiến trúc Hà Nội 2. Trần Minh Tùng - Trần Tuấn Anh - Ngô Hà Thanh, Hiện đại hoá dạy và học Cấu tạo kiến trúc với sự hỗ trợ của đối tác bên ngoài, Tạp chí Kiến trúc số 04 - 2017) 3. Lê Bá Lâm, Xây dựng sản phẩm thông tin “Hướng dẫn học tập và nghiên cứu theo chủ đề” của các thư viện đại học Việt Nam, Tạp chí Thư viện Việt Nam - 2016 - Số 5 - Tr. 24-28,34 4. Phạm Đình Trúc, Xây dựng “học liệu mở”: mở cách học mới, Đại học Quốc gia TP.HCM 5. Nguyễn Thị Trang Nhung, Phạm Tiến Toàn, Bàn về nguồn học liệu phục vụ sinh viên trong quá trình học tập và nghiên cứu khoa học theo phương thức đào tạo tín chỉ tại các trường đại học, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn Hà Nội 6. Nguyễn Văn Hảo, Phương pháp dạy học dựa trên vấn đề: lý luận và ứng dụng, Đại học Nha Trang 7. Rob Abel, Malcolm Brown and Jack Suess, A new architecture for leaning, EDUCAUSE Review, vol. 48, no. 5 (September/October 2013) 8. The role of architects - https://www.designingbuildings.co.uk/wiki 9. Architectural training - https://www.designingbuildings.co.uk/wiki mình là chủ sở hữu hoặc thuê để sử dụng; Không cho phép chủ sở hữu đăng ký hộ khẩu thường trú, nhưng cho phép đăng ký tạm trú; Việc thiết kế và xây dựng công trình phải đáp ứng được hai yêu cầu vừa để làm văn phòng và vừa để ở; Đối với một tòa nhà mà có kết hợp căn hộ VPKHLT và căn hộ để ở thì nên tách thành hai khu vực riêng biệt, có hệ thống thang máy riêng; Đối với công tác quản lý vận hành và bảo trì tòa nhà tòa nhà hoàn toàn là căn hộ VPKHLT hoặc có một số căn hộ VPKHLT cùng với các căn hộ chung cư việc quản lý vận hành và bảo trì, nên quan niệm căn hộ VPKHLT như những căn hộ chung cư để ở. 5. Kết luận VPKHLT là mộ loại hình bất động sản đã được ra đời và đang phát triển không những ở các nước phát triển thế giới mà còn ngay cả ở Việt Nam. Ở một số nước phát triển trên thế giới, khi VPKHLT mới ra đời cũng chưa được công nhận hợp pháp nhưng đến nay đã có một số nước công nhận nó như một loại hình bất động sản hợp pháp. Ở Việt Nam, Chính phủ và Thủ tướng chính phủ đang quan tâm chỉ đạo các cơ quan ban ngành nghiên cứu để có thể đưa VPKHLT vào các quy định pháp luật có liên quan nhằm thúc đẩy sự pháp triển của nó cho lành mạnh và hợp pháp./. T¿i lièu tham khÀo 1. What is a Korean officetel Case study on Bundang, Emilien Gohaud, Seungman Baek, Southeast University.Frontiers of Architectural Research 2. Sustainable Renovation Strategy for Officetels in Korea, Seokgil Jang*1, Junehyung Je1 and Thorsten Schuetze2, 1Master student, Department of Architecture, Sungkyunkwan University, Republic of Korea, 2Associate Professor, Department of Architecture, Sungkyunkwan University, Republic of Korea 3. Luật nhà ở số 65/2014/QH13; 4. Luật Đất đai số 45/2013/QH13 ngày 29/11/2013; 5. Nghị định 99/2015/NĐ-CP hướng dẫn Luật Nhà ở 2014; 6. Nghị định số 76/2015/NĐ-CP ngày 10/9/2015 của Chính phủ về quy định chi tiết một số điển của Luật Kinh doanh Bất động sản; 7. Thông tư 19/2016/TT-BXD hướng dẫn thực hiện Luật Nhà ở và Nghị định 99/2015; 8. QCVN 04:2012/BXD Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về nhà ở và công trình công cộng; 9. TCVN 4319:2012 Nhà và công trình công cộng – Nguyên tắc cơ bản để thiết kế. (tiếp theo trang 92) Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng loại hình bất động sản... THỂ LỆ VIẾT VÀ GỬI BÀI CHO TẠP CHÍ KHOA HỌC KIẾN TRÚC – XÂY DỰNG 1. Bài gửi đăng tạp chí phải là công trình nghiên cứu của tác giả, chưa đăng và chưa gửi đăng ở bất kỳ tạp chí nào khác. 2. Bài gửi đăng bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh, được đánh máy tính, in trên 1 mặt giấy khổ A4 thành 2 bản (phông chữ Arial (Unicode), cỡ chữ 11; lề trên và lề dưới 3cm; lề phải và lề trái 3cm). 3. Các hình vẽ phải rõ ràng, chuẩn xác. Nếu bài có ảnh thì phải gửi kèm ảnh gốc độ phân giải 200dpi. Hình vẽ và ảnh phải được chú thích đầy đủ. 4. Các công thức và các thông số có liên quan phải được chế bản bằng phần mềm Mathtype (kể cả công thức hoặc các thành phần của công thức có trên các dòng văn bản). 5. Tài liệu tham khảo chính, trích dẫn phải có đủ các thông tin theo trình tự sau: Họ tên tác giả (hoặc chủ biên), tên sách (tên bài báo/ tạp chí, tên báo cáo khoa học), nơi xuất bản, nhà xuất bản, năm xuất bản, trang trích dẫn (tối đa 10 tài liệu tham khảo chính). 6. Ghi rõ họ, tên, học hàm, học vị, nơi làm việc, số điện thoại, e-mail của tác giả kèm theo một file chứa nội dung bài báo. 7. Bài viết phải có tên bằng tiếng Việt và tiếng Anh, các từ khóa tìm kiếm. Mỗi bài cần kèm theo phần tóm tắt bằng tiếng Việt và tiếng Anh (cỡ chữ 10, tối đa là 150 từ) cung cấp những nội dung chính của bài viết. 8. Cấu trúc bài báo gồm các phần: dẫn nhập, nội dung khoa học và kết luận (viết thành mục riêng). Bài báo phải đưa ra được các kết quả nghiên cứu mới hoặc các ứng dụng mới hay phải nêu được hiện trạng, những hướng phát triển cơ bản của vấn đề được đề cập, khả năng nghiên cứu, phát triển và ứng dụng tại Việt Nam. Bài giới thiệu tổng quan không quá 10 trang; công trình nghiên cứu và triển khai ứng dụng không quá 8 trang. 9. Với bài thông tin khoa học, tin ngắn: Là các bài dịch tổng thuật, tổng quan về các vấn đề khoa học công nghệ xây dựng kiến trúc có tính thời sự. 10. Không trả lại bản thảo cho những bài không đăng./. Š
File đính kèm:
- tap_chi_khoa_hoc_kien_truc_va_xay_dung_so_402021.pdf