Thói quen sử dụng thông tin trong thư viện của sinh viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh

Tóm tắt Thói quen sử dụng thông tin trong thư viện của sinh viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh: ... số 344 sinh viên được khảo sát, có đến 189 sinh viên chọn mức đánh giá này. Đây là một chỉ số đáng ngạc nhiên và mang tính báo động trong bối cảnh giáo dục đại học ngày càng đề cao phương thức tự học và tự nghiên cứu ở sinh viên. Có 75 sinh viên trên tổng số 344 chọn mức “ít khi”, c... Sử dụng hàng tuần, trong suốt quá trình học tập và sử dụng trên 2 giờ 2,37 5 3 Loại hình sử dụng thông tin Tài liệu thông tin dạng in, sách chuyên ngành là chủ yếu 2,75 4 4 Việc sử dụng ngôn ngữ thông tin Tiếng Việt 2,08 6 5 Cách tiếp cận và tra cứu thông tin Xem lướt qua nhữn... sinh viên và số lượng cũng chiếm ưu thế trong thư viện. Đa số các tài liệu mà giảng viên bộ môn giới thiệu cho sinh viên nghiên cứu cũng là “tài liệu thông tin dạng in”. Nhóm biểu hiện “Tần số và thời gian sử dụng thông tin” cũng không có một chỉ số theo hướng năng động (ĐTB = 2,37). ...

pdf5 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 342 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Thói quen sử dụng thông tin trong thư viện của sinh viên trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
106 
THÓI QUEN SỬ DỤNG THÔNG TIN TRONG THƯ VIỆN CỦA SINH VIÊN 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
LÊ QUỲNH CHI*, ĐẶNG HOÀNG AN** 
TÓM TẮT 
Bài báo đề cập thực trạng thói quen sử dụng thông tin trong thư viện của sinh viên 
Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHSP TPHCM). Kết quả nghiên cứu 
cho thấy sinh viên Trường ĐHSP TPHCM “thỉnh thoảng” mới sử dụng thông tin trong thư 
viện với mục đích chính là học tập; sử dụng thông tin trong suốt quá trình học với tần số 
hàng tuần; thông tin dạng in và ngôn ngữ tiếng Việt; tìm kiếm bằng tất cả các hình thức và 
thường xem lướt qua những ý chính, nội dung thông tin trọng tâm phù hợp với mục đích sử 
dụng của mình và photo hay in ra để về nhà xem cho đỡ mất thời gian. 
Từ khóa: thói quen, sử dụng thông tin, thói quen sử dụng thông tin. 
ABSTRACT 
Information behavior at the library 
of students’ Ho Chi Minh City University of Education 
The article presents a research on the current information behavior at the library of 
students’ HCMC of University of Education. The research results show that “sometime” is 
the frequency of students’ information usage at the library; the main purpose of 
information usage is for studying, “weekly” is the frequency of information usage during 
their university studying, printed materials in Vietnamese language are mostly used, the 
searching ways are all available ways, browsing main contents is mostly used, the content 
of used information is relevant with their purpose of information usage. 
Keywords: behavior, information usege, information behavior. 
* TS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM; Email: qchisupham@yahoo.com 
** ThS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM 
1. Đặt vấn đề 
Trong những năm gần đây, Trường 
ĐHSP TPHCM triển khai công tác hoàn 
thiện hệ thống thông tin thư viện, nhằm 
góp phần đổi mới phương pháp dạy và 
học, phục vụ mục tiêu đào tạo và nghiên 
cứu khoa học chất lượng cao. Người 
dùng tin là một bộ phận quan trọng, 
không tách rời của hệ thống thông tin, 
bởi vì họ vừa là đối tượng phục vụ, vừa 
là người tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ 
thông tin, đồng thời cũng là người sản 
sinh ra thông tin. 
Tại trường ĐHSP TPHCM, người 
dùng tin là cán bộ, giảng viên, nghiên 
cứu sinh, học viên cao học, sinh viên..., 
trong đó sinh viên là đối tượng chủ yếu. 
Sinh viên đến thư viện như thế nào, tần 
số bao nhiêu, với mục đích gì?..., hay gọi 
chung là thói quen sử dụng thông tin 
trong thư viện của sinh viên, là những cơ 
sở hết sức quan trọng trong việc hình 
thành kĩ năng khai thác thông tin ở đối 
tượng độc giả này. Vì vậy, với vai trò là 
cầu nối giữa tri thức và sinh viên, chúng 
tôi xem việc nghiên cứu “Thói quen sử 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Quỳnh Chi và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
107 
dụng thông tin trong thư viện của sinh 
viên Trường Đại học Sư phạm Thành phố 
Hồ Chí Minh” là cần thiết. 
2. Nội dung 
2.1. Phương pháp và khách thể nghiên 
cứu 
Nghiên cứu của chúng tôi dựa trên 
sự phối hợp của nhiều phương pháp, 
trong đó điều tra bằng bảng hỏi là 
phương pháp chính. Bảng hỏi gồm các 
câu hỏi để sinh viên tự đánh giá về thói 
quen sử dụng thông tin trong thư viện và 
các câu hỏi nhằm đánh giá thói quen đó 
thông qua các biểu hiện cụ thể. 
Khách thể nghiên cứu bao gồm 344 
sinh viên của Trường ĐHSP TPHCM 
được lựa chọn ngẫu nhiên. 
2.2. Kết quả nghiên cứu 
2.2.1. Tự đánh giá về thói quen sử dụng 
thông tin trong thư viện của sinh viên 
Trường ĐHSP TPHCM (xem Bảng 1) 
Bảng 1. Tự đánh giá của sinh viên về thói quen sử dụng thông tin 
tại thư viện Trường ĐHSP TPHCM 
STT Mức độ N % 
1 Rất thường xuyên 15 4,4 
2 Thường xuyên 56 16,3 
3 Thỉnh thoảng 189 54,9 
4 Ít khi 75 21,8 
5 Không bao giờ 9 2,6 
 Tổng 344 100,0 
Bảng 1 cho thấy mức “thỉnh 
thoảng” với tỉ lệ 54,9%, chiếm hơn 1/2 số 
lượng mẫu nghiên cứu. Cụ thể, trên tổng 
số 344 sinh viên được khảo sát, có đến 
189 sinh viên chọn mức đánh giá này. 
Đây là một chỉ số đáng ngạc nhiên và 
mang tính báo động trong bối cảnh giáo 
dục đại học ngày càng đề cao phương 
thức tự học và tự nghiên cứu ở sinh viên. 
Có 75 sinh viên trên tổng số 344 
chọn mức “ít khi”, chiếm tỉ lệ 21,8%, ít 
hơn 1/2 so với mức “thỉnh thoảng”, 
nhưng cũng chiếm gần 1/4 số sinh viên 
được khảo sát. Một lần nữa chúng ta 
chứng kiến một chỉ số khá lớn theo 
hướng tiêu cực, và nó khẳng định tính 
báo động đã nêu trên. 
Khoảng gần1/4 số sinh viên đánh 
giá thói quen sử dụng thông tin của mình 
ở mức “rất thường xuyên” và “thường 
xuyên”, trong đó có 56/344 ở mức 
“thường xuyên”, chiếm 16,3%, và 15/344 
ở mức “rất thường xuyên”, chiếm 4,4%. 
Đây là những con số không quá nhỏ 
nhưng cũng không thực sự lớn. Nó không 
cho thấy hiệu quả rõ ràng của các biện 
pháp đổi mới mà hệ thống giáo dục, nhất 
là ở bậc đại học, đã cố gắng thực hiện từ 
nhiều năm nay. 
Có tỉ lệ thấp nhất trong nội dung 
khảo sát này là mức “không bao giờ”, 
chiếm 2,6%. Thật vậy, chỉ có 9/344 sinh 
viên được khảo sát cho biết việc sử dụng 
thông tin tại thư viện hoàn toàn không 
nằm trong thói quen học tập của họ. Chỉ 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
108 
số này, tự thân nó, không gây ra cảm giác 
đáng lo ngại. Song, cùng với kết quả của 
các mức “thỉnh thoảng” và “ít khi” - có 
tổng là 79,3% - nó góp phần tạo nên một 
bức tranh “không sáng sủa” về tính năng 
động của sinh viên trong việc tự học và 
tự nghiên cứu. 
2.2.2. Kết quả đánh giá về thói quen sử 
dụng thông tin trong thư viện của sinh 
viên Trường ĐHSP TPHCM qua các biểu 
hiện (xem Bảng 2) 
Thói quen sử dụng thông tin trong 
thư viện của sinh viên Trường ĐHSP 
TPHCM được thể hiện qua các mặt: 
- Mục đích và mức độ sử dụng thông 
tin; 
- Tần số và thời gian sử dụng thông 
tin; 
- Loại hình sử dụng thông tin phổ 
biến và mức độ sử dụng thông tin đối với 
từng loại hình; 
- Ngôn ngữ chủ yếu trên thông tin và 
mức độ sử dụng thông tin với từng ngôn 
ngữ; 
- Cách tiếp cận thông tin chủ yếu 
trong thư viện và mức độ sử dụng thông 
tin đối với từng cách tiếp cận; cách tra 
cứu thông tin chủ yếu và mức độ sử dụng 
thông tin đối với từng cách tra cứu; 
- Cách tìm kiếm thông tin chủ yếu và 
mức độ sử dụng thông tin đối với từng 
cách tìm kiếm. 
Bảng 2. Đánh giá chung về thói quen sử dụng thông tin của sinh viên tại thư viện 
STT Các mặt biểu hiện Biểu hiện cao nhất 
ĐTB 
chung 
từng mặt 
biểu hiện 
Xếp hạng 
1 Mục đích sử dụng thông tin 
Học tập 3,11 2 
2 Tần số và thời gian sử dụng thông tin 
Sử dụng hàng tuần, trong suốt 
quá trình học tập và sử dụng 
trên 2 giờ 
2,37 5 
3 Loại hình sử dụng thông tin 
Tài liệu thông tin dạng in, sách 
chuyên ngành là chủ yếu 2,75 4 
4 Việc sử dụng ngôn ngữ thông tin 
Tiếng Việt 2,08 6 
5 Cách tiếp cận và tra cứu thông tin 
Xem lướt qua những ý chính, 
nội dung thông tin trọng tâm 
phù hợp với mục đích sử dụng 
của mình và photo hay in ra để 
về nhà xem cho đỡ tốn thời 
gian 
2,80 3 
6 Cách tìm kiếm thông 
tin trong thư viện 
Tìm kiếm bằng tất cả các hình 
thức 3,22 1 
 ĐTB chung 2,72 
(ĐTB: Điểm trung bình) 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Quỳnh Chi và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
109 
Kết quả nghiên cứu cho thấy ĐTB 
chung tìm được là 2,72. Con số này phản 
ánh chính xác thói quen sử dụng thông 
tin của sinh viên tại thư viện ở mức 
“thỉnh thoảng”. 
Trong các biểu hiện cụ thể của thói 
quen sử dụng thông tin tại thư viện, 
“Cách tìm kiếm thông tin trong thư viện” 
có ĐTB cao nhất, với “Tìm kiếm bằng tất 
cả các hình thức” (ĐTB = 3,22, mức 
“thỉnh thoảng”). Biểu hiện có ĐTB thấp 
nhất là “Việc sử dụng ngôn ngữ thông 
tin” (ĐTB = 2,08, mức “ít khi”). Điều 
này cho thấy phương thức tìm kiếm 
thông tin có biểu hiện phong phú hơn so 
với việc sử dụng ngôn ngữ thông tin. 
Trên thực tế, trong những lần đầu sinh 
viên sử dụng thông tin tại thư viện, họ 
được cán bộ thư viện hướng dẫn tận tình 
về cách thức tìm mã số thông tin và lấy 
sách tại kệ/quầy, do vậy sinh viên gần 
như có kinh nghiệm nhất định trong việc 
này. Trong khi đó, các tài liệu được xuất 
bản bằng những ngôn ngữ không phải là 
tiếng Việt được sinh viên sử dụng ở mức 
thấp, có thể do tính chất của môn học, 
nhu cầu của sinh viên và đặc thù của các 
nguồn tài liệu có tại thư viện. Ngoài 
những tài liệu bằng tiếng Việt vốn chiếm 
đa số, thư viện sở hữu một số lượng 
không nhiều tài liệu bằng tiếng Anh, và 
rất ít tài liệu bằng tiếng Pháp, tiếng Trung 
Quốc, tiếng Nga. Bản thân sinh viên cũng 
ít khi tìm đến các loại tài liệu bằng 3 loại 
ngôn ngữ kể trên. Trao đổi với chúng tôi, 
sinh viên N. T. L cho biết: “Em chỉ toàn 
sử dụng tài liệu bằng tiếng Việt, tài liệu 
tiếng Anh thì chỉ đối với môn tiếng Anh 
thôi, còn mấy ngôn ngữ khác thì chưa 
bao giờ sử dụng cả”. 
ĐTB cao thứ 2 là “Mục đích sử 
dụng” (ĐTB = 3,11), có biểu hiện cao 
nhất là “học tập”; cao thứ 3 là nhóm 
“Cách tra cứu thông tin” (ĐTB = 2,80), 
kế đến là nhóm “Loại hình sử dụng thông 
tin” (ĐTB = 2,75). Trong các loại hình 
thông tin chung, sinh viên sử dụng “tài 
liệu thông tin dạng in” nhiều nhất. Điều 
này là dễ hiểu, bởi lẽ đây là loại hình 
thông tin phổ biến, gần gũi với sinh viên 
và số lượng cũng chiếm ưu thế trong thư 
viện. Đa số các tài liệu mà giảng viên bộ 
môn giới thiệu cho sinh viên nghiên cứu 
cũng là “tài liệu thông tin dạng in”. 
Nhóm biểu hiện “Tần số và thời gian sử 
dụng thông tin” cũng không có một chỉ 
số theo hướng năng động (ĐTB = 2,37). 
Nhìn chung, chỉ số thấp khiến các nhóm 
biểu hiện này đều có ĐTB ở mức “thỉnh 
thoảng” nếu đối chiếu với thang đánh giá. 
Những nhận định tiếp theo mà chúng tôi 
có thể rút ra, đó là sinh viên chủ yếu sử 
dụng thông tin tại thư viện với mục đích 
học tập; cách tra cứu thông tin hướng đến 
việc tiết kiệm thời gian; loại hình sử dụng 
chủ yếu là tài liệu thông tin dạng in mà 
cơ bản nhất là sách giáo trình; sinh viên 
thường có thói quen đi thư viện hàng 
tuần, với thời lượng trung bình cho mỗi 
lần là trên 2 giờ. 
Như đã nêu trên, ĐTB chung 2,72 ở 
bảng 2 hoàn toàn trùng hợp với đánh giá 
về thói quen của sinh viên trong việc sử 
dụng thông tin ở mức “thỉnh thoảng”, có 
tỉ lệ 54,9%. Sự tương đồng này cho thấy 
bản thân sinh viên có những nhìn nhận 
tương đối chính xác về những đặc điểm 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 7(85) năm 2016 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
110 
của chính mình trong việc sử dụng thông 
tin tại thư viện. Họ cũng có đánh giá khá 
khách quan về những biểu hiện của thói 
quen đó, cụ thể về mục đích sử dụng, về 
tần số thời gian sử dụng, loại hình sử 
dụng, ngôn ngữ thông tin, cách tra cứu và 
tìm kiếm thông tin. Dưới góc độ của 
người nghiên cứu, thái độ trung thực và 
khách quan của sinh viên là một yếu tố 
quan trọng giúp sinh viên nhận thức được 
những điểm yếu của bản thân, cũng như 
hình thành cho mình những thói quen 
mới theo hướng tích cực. 
3. Kết luận 
Nghiên cứu này cho phép chúng tôi 
nhận định rằng mục đích học tập là yếu 
tố quan trọng nhất, có tính chi phối đối 
với việc sử dụng thông tin của sinh viên 
tại thư viện, song điều đó không biện hộ 
được cho việc sinh viên xuất hiện ở thư 
viện với một tần số thấp. Loại hình thông 
tin mà sinh viên thường sử dụng nhất là 
tài liệu dưới dạng truyền thống, chủ yếu 
là tài liệu bằng tiếng mẹ đẻ. Điều này 
buộc chúng ta phải suy nghĩ, một mặt, về 
phương pháp học tập của sinh viên, mặt 
khác, về khả năng tiếp cận thông tin bằng 
ngoại ngữ của sinh viên ở thời kì được 
Nhà nước chủ trương là mở cửa và hội 
nhập. Nghiên cứu cũng cho thấy rằng 
trong quá trình tìm kiếm thông tin, sinh 
viên rất chú trọng đến vấn đề tiết kiệm 
thời gian và dành những điều kiện thuận 
tiện nhất cho việc nghiên cứu tại nhà, 
một dấu hiệu cho thấy thư viện chưa thực 
sự là một môi trường gần gũi đối với 
những người đang có nhiệm vụ “đắm 
mình vào không gian học thuật”. Đây 
chắc chắn không phải là những biểu hiện 
cho phép chúng ta lạc quan, vì ở một 
trường đại học, không có đơn vị nào có 
thể thay thế thư viện trong việc cung cấp 
thông tin. Bên cạnh đó, khuynh hướng 
giáo dục đại học ngày càng tập trung vào 
người học và đòi hỏi khả năng tự tìm đến 
tri thức của anh ta. Do đó, việc hình 
thành ở sinh viên một thói quen có tính 
năng động, khoa học và thông minh trong 
hoạt động tìm kiếm thông tin là trách 
nhiệm, đồng thời là một đề tài cần được 
tiếp tục phát triển bởi tất cả những đơn 
vị, những cá nhân có liên quan đến vấn 
đề được nêu ở đây. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2001), Quy chế số 31/2001. 
2. Vũ Dũng (chủ biên) (2009), Từ điển Tâm lí học, Nxb Từ điển Bách khoa. 
3. Lê Thị Hân, Huỳnh Văn Sơn (chủ biên) (2012), Giáo trình Tâm lí học đại cương, 
Nxb Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. 
4. Lê Văn Hiếu (2010), Nghiên cứu nhu cầu thông tin của cán bộ quản lí tại Trường 
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, đề tài khoa học cấp Trường, mã số: 
CS.2010.19.93, 2010. 
5. Nguyễn Huỳnh Mai (2015), “Thói quen sử dụng Internet của sinh viên trường Đại 
học Cần Thơ”, Tạp chí Thư viện Việt Nam, số 2 (52), tr.56-60. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 05-4-2016; ngày phản biện đánh giá: 08-6-2016; 
ngày chấp nhận đăng: 23-7-2016) 

File đính kèm:

  • pdfthoi_quen_su_dung_thong_tin_trong_thu_vien_cua_sinh_vien_tru.pdf