Tiềm năng phát triển du lịch nông nghiệp tỉnh An Giang

Tóm tắt Tiềm năng phát triển du lịch nông nghiệp tỉnh An Giang: ...ưới thủy văn với mật độ 0,72km/km2, chỉ số cao nhất trong vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Chế độ thủy văn của tỉnh phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ nước của sông và ảnh hưởng của thủy triều. Sông Cửu Long hàng năm vẫn nhận được con nước lũ kéo dài, khoảng 70% diện tích tự nhiên bị...thuật múa dù, quạt, lân sư rồng và hát Hồ Quảng. Đây được xem là lợi thế to lớn để xây dựng nhiều điểm du lịch văn hóa quan trọng của tỉnh. 2.1.4. Tiềm năng về sản xuất nông nghiệp An Giang có nhiều thế mạnh về sản xuất nông nghiệp, tạo tiền đề khai thác phát triển các loại hình du lịc...động tích cực của chương trình đã tạo nên mô hình phát triển kinh tế - xã hội hữu ích, giúp nông dân tại địa phương có thêm mô hình kinh doanh mới. Thu nhập hộ nông dân tăng từ 2 triệu đồng/tháng lên 10 - 15 triệu đồng/tháng [4]. Đến nay đã có 15/156 phường, xã, thị trấn trong tỉnh đượ...

pdf9 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 340 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tiềm năng phát triển du lịch nông nghiệp tỉnh An Giang, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hình đồng 
bằng rộng lớn vùng Tây Nam Bộ khi có 
sự xen kẽ giữa địa hình đồng bằng châu 
thổ và đồi núi. Đây là một yếu tố có sức 
hấp dẫn đối với du khách. 
Đồi núi ở An Giang gồm nhiều đỉnh 
có hình dạng, độ cao và độ dốc khác 
nhau, phân bố theo vành đai cánh cung 
kéo dài gần 100km ở hai huyện Tri Tôn 
và Tịnh Biên với nhiều núi có độ cao 
khác nhau. Núi Cấm là núi lớn nhất có tới 
6 đỉnh với độ cao từ 142m đến 705m, 
liên kết với các núi khác thành một mạch 
núi liên tục, trải dài 35km và rộng 17km 
với diện tích gần 600km2, là vùng đất địa 
linh “Bảy Núi – Thất Sơn” với nhiều di tích 
lịch sử, văn hóa, tôn giáo và huyền thoại bí 
ẩn, có sức hấp dẫn lớn đối với du khách 
tham quan trong toàn vùng và cả nước. 
Địa hình đồng bằng là đặc trưng 
của vùng đồng bằng châu thổ sông 
Mekong. Về hình dạng, đồng bằng phù sa 
ở An Giang có 3 dạng chính và 1 dạng 
phụ: Dạng cồn bãi (Cù lao) có hình dạng 
như chiếc thuyền úp, ở giữa cao và thấp 
dần sang hai bên như cù lao Mỹ Hòa 
Hưng, cù lao Tiên, Phó Ba (Long 
Xuyên), Bà Hòa (Châu Thành), Bình 
Thủy, Khánh Hòa (Châu Phú), Vĩnh 
Trường (An Phú) của sông Hậu và cù lao 
Giêng (Chợ Mới), cù lao Tây, cù lao Ma, 
Cái Vừng, Cồn Cỏ (Tân Châu) của sông 
Tiền. Cảnh quan ở các dạng đồng bằng 
cù lao sông nước là điều kiện để phát 
triển nền nông nghiệp đa dạng, từ đó làm 
cơ sở để hình thành các loại hình du lịch 
sinh thái sông nước như du lịch miệt 
vườn, du lịch tham quan cù lao ... 
- Khí hậu 
Các yếu tố của khí hậu ở An Giang 
như chế độ bức xạ, nắng, nhiệt độ, độ ẩm, 
sức gió... nhìn chung khá phù hợp với sự 
phát triển du lịch nông nghiệp. 
Lượng bức xạ tương đối lớn, tổng 
lượng nhiệt trong năm là 10.0000C. Số 
giờ nắng An Giang dao động từ 100 đến 
gần 300 giờ nắng. Trong năm có hai mùa 
rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Chế độ 
gió được đặc trưng bởi tác động luân 
phiên của hệ thống hoàn lưu gió mùa nên 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
84 
rất ổn định. Trong mùa khô thịnh hành 
gió mùa Đông Bắc kéo dài từ tháng 11 
đến tháng 4 năm sau, thời tiết ít mưa, chỉ 
chiếm 10% lượng mưa của cả năm. Vào 
mùa mưa, gió mùa Tây Nam mang khối 
khí biển nhiệt đới và xích đạo, lượng ẩm 
dồi dào, mưa nhiều, chiếm tới 90% lượng 
mưa cả năm, tập trung cao nhất vào tháng 
7, 8, 9, 10. Với đặc điểm nằm sâu trong 
đất liền nên An Giang ít chịu ảnh hưởng 
của gió bão. Đây là điều kiện cơ bản để 
phát triển nền nông nghiệp đa dạng, ổn 
định, làm tiền đề cho việc xây dựng các 
hình thức du lịch dựa trên thế mạnh nông 
nghiệp nhiệt đới của tỉnh. Căn cứ vào chỉ 
số sinh khí hậu đối với con người [2], các 
yếu tố khí hậu của An Giang cho thấy 
mức độ thích nghi và phù hợp cho việc 
phát triển các loại hình du lịch như du 
lịch tham quan, vui chơi, giải trí... 
- Thủy văn 
Ở An Giang, nguồn nước mặt rất 
phong phú nhờ hệ thống sông ngòi, kênh 
rạch phát triển, làm tiền đề cho việc hình 
thành và phát triển các loại hình du lịch 
liên quan đến sông nước như du lịch miệt 
vườn, du lịch sinh thái, du lịch chợ nổi. 
An Giang nằm ở vị trí hạ lưu của sông 
Mekong, với các hệ thống sông Tiền, 
sông Hậu chảy qua, nhiều kênh rạch tự 
nhiên và kênh đào tạo nên mạng lưới 
thủy văn với mật độ 0,72km/km2, chỉ số 
cao nhất trong vùng đồng bằng sông Cửu 
Long (ĐBSCL). Chế độ thủy văn của tỉnh 
phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ nước của 
sông và ảnh hưởng của thủy triều. Sông 
Cửu Long hàng năm vẫn nhận được con 
nước lũ kéo dài, khoảng 70% diện tích tự 
nhiên bị ngập lũ với mức nước phổ biến 
từ 1 đến 2,5m, thời gian ngập lũ từ 2,5 
đến 5 tháng, thường là từ 15-8 tới 20-12. 
Mùa nước nổi là một đặc trưng của toàn 
vùng, đồng thời cũng là thời điểm quan 
trọng cho việc khai thác thủy sản cũng 
như thực hiện kết hợp các tour du lịch 
nông nghiệp như tham quan, tham gia 
sinh hoạt sản xuất cùng người dân địa 
phương... 
- Sinh vật 
An Giang có hệ thống sinh vật đa 
dạng và phong phú với nhiều hệ động 
thực vật có giá trị khoa học. Các thảm 
thực vật tiêu biểu bao gồm: Thảm thực 
vật đất ngập nước bưng trũng; thảm thực 
vật đồi núi; thảm thực vật ven sông rạch; 
thảm thực vật nổi [4]. Hệ động thực vật 
phong phú sẽ tạo sức hút đối với du 
khách trong và ngoài nước, trên cơ sở đó 
hình thành các điểm du lịch sinh thái như 
rừng Tràm Trà Sư, Núi Cấm... 
2.1.3. Tiềm năng về nhân văn 
- Di tích lịch sử - văn hóa và danh thắng 
Tỉnh có 27 di tích lịch sử - văn hóa 
được xếp hạng cấp quốc gia và 48 di tích 
xếp hạng cấp tỉnh. Ngoài ra, tỉnh còn có 5 di 
tích lịch sử - văn hóa chưa được công nhận 
nhưng có tiềm năng khai thác du lịch: 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Sơn và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
85 
Bảng 1. Các di tích lịch sử - văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia [3] 
STT Di tích Số lượng 
1 Di tích khảo cổ 03 
2 Di tích văn hóa – lịch sử 11 
3 Di tích kiến trúc 11 
4 Di tích thắng cảnh 01 
5 Di tích lưu niệm danh nhân 01 
Tổng cộng 27 
- Các lễ hội sinh hoạt văn hóa và các đối tượng gắn liền với dân tộc học 
An Giang là tỉnh có đến 17 dân tộc sinh sống, đông nhất là người Kinh (94,3%), 
người Khmer (4,07%), người Chăm (0,65%), người Hoa (1,009%) và nhiều dân tộc 
khác [3]. Mỗi dân tộc đều có những lễ hội đặc trưng. Vì vậy An Giang hiện nay là nơi 
tổ chức nhiều lễ hội đặc sắc, có quy mô lớn nhất Nam Bộ. Toàn tỉnh có tổng cộng 41 lễ 
hội, gồm các lễ hội dân gian, lễ hội tôn giáo, lễ hội lịch sử cách mạng. Trong đó có 1 lễ 
hội thuộc cấp Bộ quản lí, 6 lễ hội thuộc cấp tỉnh quản lí. Một số lễ hội tiêu biểu là: Lễ 
hội Bà Chúa Xứ, hội đền Nguyễn Trung Trực, lễ hội Chol Chnam Thmay, lễ Đôn Ta, 
lễ hội Hát Gi, hội đua bò dân tộc Khmer 
Bảng 2. Một số lễ hội trên địa bàn tỉnh An Giang [3] 
TT Tên lễ hội Thời gian 
1 Lễ hội Bà Chúa xứ (Lễ vía Bà) 23/27 tháng 4 âm lịch 
2 Lễ hội Chol Chnam Thmay 12 – 15/04 âm lịch 
3 Hội đền Nguyễn Trung Trực 18 – 19/10 âm lịch 
4 Lễ hội đua bò của người Dân tộc Khmer 09 – 10/10 âm lịch hàng năm 
5 Lễ Hội Hát Gi (Haji hay còn gọi Roya Hadji) 7 – 10/12 theo Hồi lịch 
6 Lễ hội Kỳ An đình Châu Phú 10/5 âm lịch 
7 Lễ Ramadan của đồng bào Chăm 1 – 30/9 Hồi lịch 
- Các làng nghề thủ công 
An Giang có 34 làng nghề tiểu thủ 
công, trong đó có 25 làng nghề được Ủy 
ban nhân dân tỉnh công nhận với 6300 hộ 
tham gia, thu hút trên 18.600 lao động 
[4]. Sản phẩm của làng nghề tập trung 
vào bốn nhóm: dệt, sản xuất tư liệu lao 
động, vật dụng sinh hoạt gia đình, mộc và 
đan lát. Nổi bật là các làng nghề như tơ 
lụa Tân Châu, dệt thổ cẩm Khmer Văn 
Giáo... Các làng nghề truyền thống là một 
yếu tố quan trọng trong việc xây dựng 
các tour tham quan kết hợp như tham 
quan sinh thái với làng nghề . 
- Văn hóa ẩm thực 
An Giang có nhiều món ăn ngon 
mang đặc trưng ẩm thực vùng Nam Bộ. 
Cư dân của vùng đất này sáng tạo nhiều 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
86 
món ngon như bún mắm Châu Đốc, bánh 
xèo rau rừng núi Cấm, cá linh kho mía... 
Ngoài ra, các món ăn phổ biến của người 
Việt, các món ăn đặc sản của đồng bào 
Khmer, Chăm, Hoa cũng góp phần làm 
giàu thêm cho văn hóa ẩm thực của vùng 
đất này. Đây cũng là một yếu tố quan 
trọng để thu hút khách du lịch. 
- Các loại hình nghệ thuật 
An Giang là nơi hội tụ tinh hoa văn 
hóa độc đáo của bốn cộng đồng dân tộc 
anh em: Kinh, Chăm, Khmer, Hoa. Với 
nhiều đặc trưng văn hóa truyền thống 
khác nhau đã hình thành bức tranh văn 
hóa nghệ thuật sinh động, nhiều màu sắc. 
Người Khmer có loại hình nghệ thuật đặc 
trưng như hát Dù Kê, múa trống, múa 
Chằng... Người Kinh nổi tiếng với đờn ca 
tài tử đã được UNESCO công nhận là di 
sản phi vật thể. Người Chăm nổi tiếng 
với dân ca Chăm và biểu diễn kèn 
Saranai, Trống Pànà, Paranưng theo 
phong cách Hồi giáo, người Hoa với 
nghệ thuật múa dù, quạt, lân sư rồng và 
hát Hồ Quảng. Đây được xem là lợi thế 
to lớn để xây dựng nhiều điểm du lịch 
văn hóa quan trọng của tỉnh. 
2.1.4. Tiềm năng về sản xuất nông nghiệp 
An Giang có nhiều thế mạnh về sản 
xuất nông nghiệp, tạo tiền đề khai thác 
phát triển các loại hình du lịch nông 
nghiệp. An Giang là 1 trong 2 tỉnh có 
diện tích lúa cao nhất ĐBSCL và cả 
nước, chiếm 14,9% diện tích và 41,1% 
sản lượng lúa của toàn vùng ĐBSCL [1]. 
Diện tích các loại cây ăn quả ngày càng 
mở rộng, góp phần đa dạng hóa cơ cấu 
trồng trọt [1]. Bên cạnh lúa, An Giang 
còn là 1 trong những tỉnh dẫn đầu về sản 
lượng nuôi trồng thủy sản của vùng 
ĐBSCL và cả nước. Năm 2010, sản 
lượng nuôi trồng thủy sản của tỉnh đạt 
279,775 nghìn tấn, tăng 3,5% so với năm 
2000 (chiếm 14,4% sản lượng nuôi trồng 
thủy sản vùng ĐBSCL và 10,1% cả 
nước) [1]. Các hình thức tổ chức sản xuất 
nông nghiệp ngày càng đa dạng, hộ gia 
đình và trang trại đang được chú trọng 
phát triển. Đến năm 2010, toàn tỉnh có 
365.469 hộ nông thôn trong đó 201.695 
hộ nông nghiệp (chiếm 55,1%), 481 hộ 
lâm nghiệp (chiếm 0,13%) và 8.077 hộ 
sản xuất thủy sản (chiếm 2,2%). An 
Giang là tỉnh có số lượng trang trại đứng 
đầu cả vùng và cả nước, chiếm 11,8% số 
lượng trang trại của cả nước và 24,7% 
của vùng ĐBSCL. Cơ cấu trang trại đa 
dạng, trong đó trang trại trồng cây hàng 
năm và trang trại nuôi trồng thủy sản 
chiếm tỉ trọng cao hơn. Sự phát triển của 
loại hình trang trại trong nông nghiệp đã 
thúc đẩy hiệu quả kinh tế sản xuất, đồng 
thời tạo ra tiền đề bước đầu cho việc xây 
dựng các tour du lịch tham quan, học hỏi 
kinh nghiệm sản xuất giữa nông dân 
trong vùng và cả nước. 
Trên cơ sở khai thác các thế mạnh 
về nông nghiệp, nhiều sản phẩm du lịch 
được tạo ra từ sản xuất nông nghiệp có 
sức thu hút khách du lịch trong và ngoài 
nước. Các loại hình du lịch sinh thái, các 
tour tham quan mô hình trang trại, miệt 
vườn, tham gia sản xuất cùng nông dân, 
tổ chức chài lưới bắt cá, dịch vụ 
homestay được đầu tư phát triển và 
ngày càng hấp dẫn du khách. 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Sơn và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
87 
Nhìn chung, sự phát triển mạnh về 
nông nghiệp và thủy sản đã tạo ra những 
tiền đề quan trọng để xây dựng các loại 
hình du lịch nông nghiệp đa dạng. Việc 
phát triển nông nghiệp gắn liền với hoạt 
động du lịch có tác động to lớn trong việc 
phát huy thế mạnh, nâng cao thu nhập, đa 
dạng hóa cơ cấu sản xuất, góp phần thúc 
đẩy kinh tế xã hội của tỉnh phát triển. 
2.1.5. Bước khởi đầu và những thành tựu 
đạt được từ phát triển du lịch nông 
nghiệp 
Dựa trên cơ sở đánh giá về tiềm 
năng du lịch nông nghiệp, tỉnh An Giang 
bước đầu đã thu hút các nhà đầu tư nước 
ngoài áp dụng hình thức du lịch mới và 
đạt được những thành tựu cơ bản. 
Để khai thác tiềm năng du lịch 
nông nghiệp tại An Giang, giai đoạn 
2007- 2009, tổ chức Nông dân Hà Lan 
(Agriterra) đã triển khai đầu tư dự án 
Phát triển Du lịch nông nghiệp giai đoạn 
1 tại 3 tỉnh Lào Cai, Tiền Giang, An 
Giang. Trên cơ sở đó, Hội Nông dân An 
Giang đã xây dựng các điểm du lịch nông 
nghiệp tại 3 xã Mỹ Hòa Hưng (thành phố 
Long Xuyên); Tân Trung (huyện Phú 
Tân) và Văn Giáo (huyện Tịnh Biên); 
mỗi xã có từ 10-15 hộ nông dân tham gia 
làm du lịch. Các dịch vụ bao gồm 
homestay, ẩm thực đồng quê, du thuyền 
trên sông, tham quan rừng tràm Trà Sư, 
săn cá bông lau... thu hút nhiều du khách 
trong và ngoài tỉnh, kể cả khách quốc tế. 
Nối tiếp thành công của giai đoạn 1, 
Agriterra tiếp tục đầu tư dự án Phát triển 
Du lịch nông nghiệp giai đoạn 2. Dự án 
được triển khai trong thời gian 3 năm, từ 
ngày 1-7-2011 đến 30-6-2014 với tổng 
ngân sách 676.400 Euro (khoảng hơn 
18,4 tỉ đồng), trong đó đóng góp của 
Agriterra là 328.000 Euro (khoảng 9 tỉ 
đồng). Mục tiêu của dự án là xây dựng 
Trung tâm du lịch nông dân nằm trong 
Hội Nông dân An Giang, góp phần thúc 
đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho các 
hoạt động du lịch nông nghiệp của hội 
viên, đồng thời tăng thu nhập và tạo thêm 
việc làm cho nông dân trong vùng dự án; 
Hình thành một hệ thống tour du lịch 
nông nghiệp mang tính liên kết chặt chẽ 
giữa những điểm du lịch nông dân qua 
vai trò điều phối của Trung tâm du lịch 
nông dân; vừa nâng cao năng lực nông 
dân các điểm trong giới thiệu, quảng bá 
hình ảnh sông nước, con người An Giang 
với du khách trong và ngoài nước, vừa 
giúp nông dân tăng thu nhập gia đình, 
thay đổi bộ mặt nông thôn theo hướng 
tiến bộ, bền vững. 
Kết quả bước đầu cho thấy, hoạt 
động của dự án phát triển du lịch nông 
nghiệp ở An Giang đạt hiệu quả cao, 
những tác động tích cực của chương trình 
đã tạo nên mô hình phát triển kinh tế - xã 
hội hữu ích, giúp nông dân tại địa 
phương có thêm mô hình kinh doanh 
mới. Thu nhập hộ nông dân tăng từ 2 
triệu đồng/tháng lên 10 - 15 triệu 
đồng/tháng [4]. Đến nay đã có 15/156 
phường, xã, thị trấn trong tỉnh được chọn 
tham gia dự án gắn với các danh lam, 
thắng cảnh, di tích lịch sử. Điển hình như 
ở xã Mỹ Hòa Hưng, thành phố Long 
Xuyên có Khu lưu niệm Bác Tôn Đức 
Thắng, có vườn cây ăn trái, du khách 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
88 
đến đây sẽ được du ngoạn trên sông bằng 
thuyền, ra bờ sông Hậu tắm bùn phù sa, 
mò ốc đắng; thu hoạch hoa màu, trái cây; 
tát mương, kéo lưới, câu cá; tham gia các 
trò chơi dân gian; xem ngư dân đánh bắt 
cá và chế biến, thưởng thức các “chiến 
lợi phẩm” đặc sản do ngư dân đánh bắt 
trên sông Hậu. Mỗi xã có từ 5 đến 10 hộ 
tham gia dự án, tổng số hộ tham gia 
hưởng lợi trực tiếp từ 75 - 100 hộ, chưa 
kể số hộ được hưởng lợi gián tiếp từ 
chương trình đào tạo, cùng tham gia các 
dịch vụ của dự án và bộ mặt nông thôn 
được thay đổi, phát triển của cộng đồng ở 
15 xã trong quá trình triển khai dự án. 
Việc đầu tư cho phát triển nông 
nghiệp được chú trọng trong tương lai. 
Nhiều dự án đầu tư cho phát triển du lịch 
nông nghiệp đã được quy hoạch: Dự án 
phát triển mạng lưới các điểm, tuyến du 
lịch sinh thái và nông thôn mới cù lao Mỹ 
Hòa Hưng với 9 điểm và 3 tuyến (2011 – 
2020); đề án xây dựng điểm, tuyến du 
lịch đường sông An Giang (làng cá bè, cù 
lao, kênh đào) Việc phát triển loại hình 
du lịch nông nghiệp gắn với tín ngưỡng, 
lễ hội được đưa vào quy hoạch như một 
chương trình ưu tiên trọng điểm trong 
giai đoạn 2011 – 2020 [3]. Mặt khác, các 
chính sách thu hút đầu tư trong và ngoài 
nước cho phát triển du lịch nông nghiệp 
được quan tâm. Ngoài nguồn vốn từ ngân 
sách nhà nước, hiện nay tỉnh đang thu hút 
đầu tư khu vực ngoài nhà nước, xã hội 
hóa phát triển du lịch thông qua việc tổ 
chức các sự kiện xúc tiến đầu tư và chính 
sách ưu đãi về đất đai, tài chính, tín dụng 
cho nhà đầu tư. 
2.2. Đánh giá chung về tiềm năng và 
hướng phát triển du lịch nông nghiệp 
tỉnh An Giang 
2.2.1. Đánh giá chung 
 Thế mạnh: 
- Các yếu tố về tự nhiên đa dạng, 
mang đậm tính chất của đồng bằng điền 
trũng với hệ thống sông ngòi dày đặc, khí 
hậu ôn hòa, đồng bằng phù sa màu mỡ, 
cho phép tỉnh có thể phát triển một nền 
nông nghiệp đa dạng với nhiều loại cây 
đặc trưng và hệ thống vườn cây ăn quả, 
từ đó có thể phát triển loại hình du lịch 
tham quan, học tập... 
- Hệ thống các giá trị nhân văn 
phong phú, bao gồm hệ thống các giá trị 
di tích lịch sử, làng nghề và các đối tượng 
liên quan đến dân tộc học..., kết hợp với 
các tiềm năng về tự nhiên, tạo cơ sở cho 
việc xây dựng và phát triển các loại hình 
du lịch nông nghiệp khác nhau như du 
lịch tham quan, sinh thái 
- An Giang có nhiều thế mạnh nông 
nghiệp, đặc biệt là sản xuất lúa và thủy 
sản. Cơ cấu của sản xuất nông nghiệp 
ngày càng đa dạng, nhiều sản phẩm nông 
nghiệp được ứng dụng khoa học công 
nghệ tạo ra sản lượng và chất lượng cao. 
Loại hình trang trại ngày càng được mở 
rộng. An Giang trở thành điểm đến hấp 
dẫn của các hộ sản xuất nông nghiệp 
trong vùng và cả nước. Họ đến để học 
hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm trong 
sản xuất nông nghiệp của tỉnh, qua đó 
góp phần thúc đẩy hình thức du lịch nông 
nghiệp phát triển. 
 Hạn chế: 
- Nguồn nhân lực dành cho phát triển 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Sơn và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
89 
du lịch nông nghiệp nhìn chung còn thiếu 
về số lượng và hạn chế về chất lượng. 
Người nông dân chưa được đào tạo về du 
lịch và các kĩ năng cơ bản về kinh doanh 
tổ chức du lịch. 
- Các điều kiện về cơ sở hạ tầng, 
quảng bá hình ảnh còn chưa đáp ứng 
được các yêu cầu của phát triển du lịch. 
Cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở lưu trú, 
tham quan còn yếu. Các hình thức quảng 
bá còn hạn chế. 
- Việc đầu tư cho phát triển du lịch 
nông nghiệp còn mới ở dạng thử nghiệm. 
Việc quy hoạch và định hướng tổ chức 
phát triển du lịch nông nghiệp còn chưa 
được thực hiện để phát huy các thế mạnh 
sẵn có của du lịch nông nghiệp tại tỉnh. 
2.2.2. Định hướng khai thác phát triển du 
lịch nông nghiệp tỉnh An Giang 
- Xác định các thế mạnh trọng tâm 
của tỉnh về du lịch nông nghiệp, từ đó 
đầu tư có trọng điểm nhằm tạo nên hiệu 
quả đối với phát triển du lịch nông 
nghiệp. 
- Nâng cao việc đào tạo nguồn nhân 
lực cho phát triển du lịch nông nghiệp 
dựa trên việc mở rộng các loại hình đào 
tạo, mở các lớp tập huấn ngắn hạn, kết 
hợp với việc học hỏi và phổ biến kinh 
nghiệm về phát triển du lịch nông nghiệp 
trong nước và thế giới cho các nông hộ, 
chủ trang trại làm du lịch. 
- Nâng cao chất lượng và phát triển 
đa dạng hơn nữa các sản phẩm du lịch 
nông nghiệp. Kết hợp các loại hình du 
lịch gắn liền với hệ sinh thái sông, núi, 
rừng, đồng quê và văn hóa, tín ngưỡng. 
Xây dựng các sản phẩm du lịch nông 
nghiệp đặc thù, tạo lợi thế so sánh của 
tỉnh An Giang so với các tỉnh khác. 
- Tiếp tục hoàn thiện cơ chế và hệ 
thống chính sách cũng như các ưu đãi 
nhằm thu hút hơn nữa việc đầu tư vào 
phát triển du lịch nông nghiệp. Phát triển 
cơ sở hạ tầng du lịch, đẩy mạnh việc 
quảng bá xúc tiến du lịch nông nghiệp. 
3. Kết luận 
Tỉnh An Giang có nhiều tiềm năng 
to lớn để phát triển du lịch nông nghiệp 
và thực tế bước đầu áp dụng đã cho thấy 
tác động to lớn của du lịch nông nghiệp 
đối với đời sống của người nông dân và 
nền kinh tế xã hội. Để tiếp tục biến tiềm 
năng thành các nguồn lực cơ bản, tỉnh An 
Giang cần xây dựng chiến lược và quy 
hoạch cụ thể, phát triển nguồn nhân lực 
có chất lượng, áp dụng các hình thức sản 
xuất tiên tiến, đa dạng hóa các kênh 
quảng bá về du lịch nông nghiệp. 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 63 năm 2014 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
90 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Cục Thống kê tỉnh An Giang (2010, 2011), Niên giám thống kê tỉnh An Giang 2009, 2010. 
2. Nguyễn Minh Tuệ và nnk (2010), Địa lí du lịch Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
3. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch An Giang (2012), Quy hoạch phát triển ngành du 
lịch An Giang giai đoạn đến 2020, định hướng 2030. 
4. Trung tâm Du lịch Nông dân tỉnh An Giang (2012), Báo cáo tóm lược tình hình dự 
án du lịch nông nghiệp giai đoạn 2007 - 2009. 
5. Brian J. Schilling, Lucas J. Marxen, Helen H. Heinrich, Fran J. A. Brooks (2006), 
The Opportunity for Agritourism Development in New Jersey, Food Policy Institute, 
pp.7-28. 
6. Christine Tew (2010), Importance of Agritourism for agripreneur goal 
accomplishment, Thesis of Faculty of the Graduate School University of Missouri, 
pp.5-20. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 19-5-2014; ngày phản biện đánh giá: 02-6-2014; 
ngày chấp nhận đăng: 24-10-2014) 

File đính kèm:

  • pdftiem_nang_phat_trien_du_lich_nong_nghiep_tinh_an_giang.pdf