Tiểu luận Kỹ thuật sinh học phân tử và bệnh viêm não xốp ở bò

Tóm tắt Tiểu luận Kỹ thuật sinh học phân tử và bệnh viêm não xốp ở bò: ...nh: Thụy Sỹ 205 trường hợp, Ailen 12 con, Bồ Đào Nha 30 con. Các trường hợp có bệnh lẻ tẻ là Pháp, Đức, Italia, Đan Mạch, Canada, Oman và quần đảo Falkland. Trong số các nước có bệnh, nhiều trường hợp do nhập bò có bệnh từ nước Anh. 2.1.3. Tác nhân gây bệnh. Trong quá trình nhận diện tác n...thời gian gần đây, người ta mới chứng minh được rằng bệnh chỉ truyền qua con đường tiêu hóa. Neen Singh và nhóm nghiên cứu tại ĐH Case Western Reserve đã mô phỏng quá trình ăn và tiêu hóa thịt bị nhiễm bệnh. Họ nghiền mô não chứa prion của bệnh nhân mắc một dạng bệnh bò điên. Sau đó, mô đư...ược ly trích, khuếch đại, tạo dòng, sắp xếp theo trình tự huyết thanh của protein prion kháng protease. Trình tự của 80bp từ vùng 3’ của Bov-tA SINE. Kỹ thuật PCR đã được sử dụng để phân tích huyết thanh từ 4 trường hợp liên quan của bệnh BSE, 137 động vật cùng họ biểu hiện bệnh BSE kết hợp vớ...

pdf21 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 481 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tiểu luận Kỹ thuật sinh học phân tử và bệnh viêm não xốp ở bò, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
) . Xác định chuỗi của protein gây bệnh này cho thấy nó giống hệt 
cấu trúc của protein PrPc, và được đặt tên là PrPsc. 
Normal and diseased prions 
PrPc là protein với cấu trúc khoảng 253 ạcid amin ở người và 250 acid amin ở các 
loài hữu nhũ khác . Nó được kiểm soát bởi một gene ở nhiễm sắc thể số 2 ở chuột 
và nhiễm sắc thể số 20 ở người. Gene này chứa 2 exon, trong đó exon thứ 2 mã 
hóa toàn bộ trình tự protein. Nó được bảo tồn ở các loài vật. Ở vật khoẻ phần 
glucide của prion protein gắn vào màng của tế bào bằng liên kết cộng hoá trị với 
chuỗi phospholipid. Ở bệnh gãi cừu protein prion nằm ở giữa màng tế bào và có 
hình dạng cáu trúc khác hẳn. Sự thay đổi này làm protein có thể chịu nhiệt, kháng 
với các loại enzim phân huỷ protein, tia tử ngoại, 135OC trong 18 phút, khi dùng 
proteinase K (1 loại enzyme phân huỷ protein cực mạnh) nó bị cắt làm 2 tiểu phần 
27-30 KĐ (Kilodalton- đơn vị đo khối lượng protein =1 đơn vị oxy). Protein Prion 
ở người mắc bệnh GSS (Gerstmann - Strauxler Scheinker) thì axit amin proline 
được thay bằng Leucine tại vị trí 102. Nghiên cứu cấu trúc của prion, người ta chia 
ra 2 phần, phần 100 acid amin ở đầu carboxyl được gắp lại gồm 3 chuỗi xoắn 
anpha và 2 chuỗi đối song gấp nếp beta , 100 acid amin ở đầu amino có cấu trúc tổ 
chức ngẫu nhiên. Nghiên cứu bằng quang phổ cho thấy PrPc chủ yếu có cấu trúc 
 9
xoắn alpha trong khi PrPsc có chủ yếu cấu trúc xoắn beta và giảm cấu trúc alpha. 
Như thế có sự chuyển đổi từ cấu trúc alpha sang cấu trúc beta khi tạo PrPsc. Đầu 
kỵ nước của PrPc có lẽ tham gia vào việc chuyển đổi từ alpha sang beta. Gen cấu 
trúc của protein prion giống hệt nhau ở người, khỉ, chuột nhắt, chuột cống, chuột 
hang, chồn, bò và gà. Vùng khởi đầu, giải mã của gen này bao gồm 253 codon ở 
người và 257 codon ở chồn. 
Vai trò của PrPc vẫn chưa được hiểu rõ. Cắt bỏ gene mã hóa PrPc ở chuột (gen 
Prnp) vẫn không ảnh hưởng tăng trưởng của thú, ngoại trừ có trí nhớ kém và có 
vấn đề về giấc ngủ. Chuột thiếu PrP0/0 ( chuột thiếu PrPc) đề kháng với prion và 
không thấy dấu vết của nhiễm prion ở não của chúng . Điều này có thể do PrPc là 
 10
thụ thể tiếp nhận prion. 
Một prion bệnh được nhuộm màu (đỏ) được đưa vào qua đường tiêu hóa hoặc tự 
phát. Một prion nội sinh của cơ thể (màu xanh) đi vào tương tác với prion bệnh, 
chúng được ép sát vào nhau để thay đổi hình dạng của chúng thành prion bị bệnh. 
Cuối cùng prion bệnh càng ngày càng tăng do sự chuyển đổi từ prion bình thường 
sang prion bệnh, gây ra những thiệt hại cho mô. 
Về vị trí, PrPc thường có ở tế bào thần kinh. Protein này hiện diện trên bề mặt tế 
bào thần kinh trong khi PrPsc ở trong tế bào chất. Prion protein bệnh được tích luỹ 
ở trong tế bào tạo thành những túi gọi là Lysosome. Trong não khi tế bào đầy 
Lysosome có thể dẫn đến phá vỡ và làm chết tế bào. Khi tế bào chết nó tạo ra các 
hố ở trong não. Các prion bệnh được giải phóng và nó xâm nhập vào các tế bào 
khác. Như thế, PrPsc có thể đã biến thành PrPsc khi PrPc đi vào tế bào chất trong 
quá trình tạo PrPc. 
 11
Những tế bào liên quan đến bệnh của prion. Nhiều loại tế bào liên quan đến quá 
trình vận chuyển của prion (tế bào lympho B và T, tế bào thần kinh, tế bào M) 
trong quá trình sao mã của tác nhân lây lan (các neuron, các tế bào follocular 
dendritic) trong khoảng trống của prion (vi tế bào thần kinh, tế bào đơn nhân lớn) . 
Vì thế, để dẫn truyền tới não, tác nhân lây nhiễm này phải qua ít nhất 2 hàng rào 
không thấm, hàng rào của ruột và máu não. 
Chuỗi cấu trúc của prion là rào cản giữa các loài. PrPc của ký chủ càng gần cấu 
trúc với prion thì càng dễ nhiễm. Khi phân tích trình tự các gen Prnp ở các loài 
người ta thấy rằng khi prion protein của 2 loài càng giống nhau thì bệnh càng dễ 
lây truyền. Cừu và bò chỉ khác nhau 7 vị trí, người và bò khác nhau 30 vị trí và có 
lẽ như vậy khả năng truyền bệnh từ bò sang người sẽ lâu hơn nhưng không phải là 
không thể. Người ta đã quan sát thấy sự chuyển prion protein của người sang Prnp 
bệnh với sự có mặt của prion protein của bò trong phòng thí nghiệm. 
 12
2.2. Các đặc điểm về dịch tễ. 
2.2.1. Ổ chứa mầm bệnh. 
Ổ chứa chính là các lòm mắc bệnh bò điên và bột thịt bột xương của các lò này. 
Ngoài ra còn ở thịt và óc cừu mắc bệnh gãi ngứa. 
2.2.2. Bệnh lý. 
Các chứng cứ về dịch tễ cho thấy bệnh bò điên không phải do truyền từ bò này 
sang bò khác mà có nhiều khả năng do thức ăn đậm đặc chứa protein động vật có 
mầm bệnh. Trong một trại bò, được cùng ăn một lô thức ăn có bột thịt, bột xương 
của loài nhai lại nhưng chỉ có một số ít con mắc bệnh. Có giả thuyết cho rằng đó là 
do mầm bệnh phân phối không đều trong thức ăn, hoặc tính mẫn cảm khác nhau 
của từng cá thể bò. 
Sự nhân lên của mầm bệnh có thể xảy ra ở các tế bào lympho trong ruột và các tế 
bào của hệ lưới nội mô trước khi căn bệnh xâm nhập vào hệ thần kinh trung ương. 
Về đường truyền bệnh, cho đến thời gian gần đây, người ta mới chứng minh được 
rằng bệnh chỉ truyền qua con đường tiêu hóa. 
Neen Singh và nhóm nghiên cứu tại ĐH Case Western Reserve đã mô phỏng quá 
trình ăn và tiêu hóa thịt bị nhiễm bệnh. 
Họ nghiền mô não chứa prion của bệnh nhân mắc một dạng bệnh bò điên. Sau đó, 
mô được tiếp xúc với một loạt enzym tiêu hoá mạnh ở miệng, dạ dày và ruột, có 
tác dụng phân huỷ protein thành các mẩu nhỏ hơn nữa. Kết quả cho thấy: Prion 
cũng như một loại protein thứ hai tên là ferritin vẫn nguyên vẹn. Ferritin chứa sắt 
và có rất nhiều trong thịt. Hai protein trên dường như bám vào nhau. 
Tiếp theo, nhóm nghiên cứu bổ sung một màng tế bào lót ở thành ruột vào mô 
hình ruột người. Bằng cách gắn nhãn phát sáng cho prion và ferritin, họ chỉ ra rằng 
 13
hai protein ''dắt tay nhau'' đi qua tế bào lót nói trên. Singh cho rằng một lượng lớn 
prion trong thịt bò nhiễm bệnh đã xâm nhập vào cơ thể bằng con đường này. Một 
cuộc nghiên cứu tiến hành năm 2001 cũng cho thấy prion có thể đi qua thành ruột. 
Nghiên cứu của Singh có thể giải thích cách prion vượt qua rào cản của các loài 
động vật. Nhiều loài động vật có protein ferritin gần như giống hệt nhau, cho phép 
ferritin bám vào và vận chuyển các prion lạ từ bò. Singh cho rằng ferritin có thể 
vận chuyển prion của những động vật hoang dã mắc bệnh xốp não, chẳng hạn như 
hươu, nai, vào cơ thể người. 
Theo Singh, chặn đứng quá trình vận chuyển ferritin có thể ngăn prion xâm nhập 
vào cơ thể người. Tuy nhiên, điều này rất khó có thể thực hiện do mọi người phải 
được điều trị vào thời điểm đang bị phơi nhiễm. 
Thời kì ủ bệnh: cũng như nhiều bệnh do virus chậm, bệnh bò điên có thời kì ủ 
bệnh khá dài, thường là trên 18 tháng.Trong gây bệnh thực nghiệm, thời gian ủ 
bệnh của cừu và dê ngắn nhất là 440 ngày và dài nhất là 1720 ngày. Thời gian ủ 
bệnh nhân tạo ở bò cũng tương tự như trên. 
Tính cảm nhiễm và sức đề kháng. 
Có sự khác nhau đáng kể về tuổi của bò đối với sự cảm nhiễm bệnh. Bê non và bò 
dưới 3 năm tuổi hình như ít bị cảm thụ với bệnh hơn là bò trưởng thành. Tỷ lệ mắc 
bệnh cao nhất là bò từ 4 năm tuổi trở lên. Tuy nhiên trong một đàn bò thì tỷ lệ mắc 
bệnh rất thấp. Đó là điều đặc biệt khác với các bệnh truyền nhiễm khác. Chính vì 
thế mà trong thời gian đầu, khi bệnh mới được phát hiện, người ta không cho đây 
là một bệnh truyền nhiễm. Chỉ đến khi gây được bệnh thực nghiệm cho bò thì tính 
truyền nhiễm của bệnh mới được khẳng định. 
Có một thực tế là đàn bò có số lượng lớn thì tỷ lệ mắc bệnh cao hơn là những đàn 
bò có số lượng ít. 
Bệnh xảy ra không phụ thuộc vào các tháng trong năm. Bò đực hay bò cái đều 
không có sự khác biệt với tỷ lệ mắc bệnh. Bò đang khai thác sữa hay đang có thai 
cũng không khác với bò không trong thời kỳ sản xuất về tỷ lệ bệnh. Riêng về 
 14
giống bò thì người ta thấy rằng hầu hết các ca bệnh là giống bò sữa Holstein 
F.Friesian. Đó là giống bò phổ biến được nuôi ở nước Anh. 
Bệnh tích 
Triệu chứng lâm sàng khác nhau nhưng thuộc 3 loại: 
- Thay đổi về hành vi. 
- Thay đổi về tư thế, dáng đi, và các vận động khác. 
- Tăng nhạy cảm. 
Khi bệnh mới bắt đầu, sự thay đổi về tính tình hành vi và sự vận động khó nhận 
thấy. Các triệu chứng ban đầu không rõ ràng bao gồm sự nhút nhát, sợ sệt, có vẻ lơ 
đễnh, nghễnh ngãng, run cơ nhẹ ở các vùng cổ, vai hoặc hông, nghiến răng thường 
xuyên, hoặc cử động không mục đích ở đầu và chân. Bò đi lắc lư chân sau, hay đá 
chân khi vắt sữa, đi hụt bước, mất nhịp nhàng khi vận động, không tuân theo sự 
điều khiển của chủ nuôi. Bò bệnh có vẻ cảnh giác khi có người đến gần và thường 
do dự không vào khoang vắt sữa, đôi khi có thể tấn công người khi bị bắt buộc 
phải vào. Khi đi, đầu nghiêng sang một phía, kêu rống. Bò hay tỳ móng vào thành 
chuồng, uể oải, cử động mất phối hợp, loạng choạng. Lúc nằm nghỉ bò bệnh rất 
thận trọng và thường chọn một chỗ riêng. Bò bệnh đôi khi đứng cúi đầu, cổ vươn 
thẳng, tai chĩa về phía sau, các cử chỉ bất thường, phần sau không phối hợp, đặc 
biệt dễ quan sát khi bò đang ăn cỏ bãi chăn. Triệu chứng tiến triển đôi khi làm bò 
ngã, nằm nghiêng. Một tiếng động bất ngờ có thể làm con vật co giật. Đa số bò bị 
bệnh bị giết chết trong giai đoạn này vì sản lượng sữa giảm thấp, giảm trọng lượng 
và tính tình trở nên không kiểm soát được. Diến biến của bệnh kéo dài khoảng 2- 3 
tuần lễ hoặc hàng tháng, cuối cùng bò bị bại liệt dần. Thường nếu bệnh xuất hiện 
càng gần thời điểm cai sữa thì càng diễn biến nhanh hơn. 
Các triệu chứng cũng có thể tiến triển theo một chiều hướng khác như con vật trở 
nên hung dữ, chạy loạn lên, lao đầu vào tường, run rẫy, ngã, bại liệt rồi chết. 
Các biến đổi bệnh lý học chỉ thấy được dưới kính hiển vi và giới hạn ở não. Chúng 
bao gồm các thoái hóa đối xứng ở 2 bên não, có thoái hóa không bào ở tế bào chất 
ở phần chất xám. Khi quan sát dưới kính hiển vi một miếng cắt từ não, có cảm 
 15
giác như nhìn mặt cắt miếng bọt biển ( đệm mút), vì thế có tên gọi là bệnh viêm 
não dạng xốp. 
Vị trí bệnh tích thường gặp nhất là ở hành tủy, chiếm 99% trường hợp. Các bệnh 
tích của BSE cho thấy đó là một phản ứng viêm mô liên kết thần kinh. 
Một đặc điểm nổi bật của bệnh BSE là khi quan sát dưới kính hiển vi điện tử, chất 
chiết từ não có các sợi fibrin có kích thước từ 100 – 500nm chiều dài, được gọi là 
SAF ( scrapie associated fibrils). Các sợi này gồm 2 đến 4 sợi kết với nhau, có bề 
ngang 4-6 nm, sắp xếp theo hình xoắn ốc. 
2.3. Các kỹ thuật sinh học phân tử xác định bệnh viêm não xốp ở bò 
Bệnh do prion xảy ra bởi sự thay đổi cấu hình của một protein không độc (PrPc) 
thành protein độc ( PrPsc). Điều này cho thấy sự không ổn định trong cấu trúc của 
PrPc.Người ta dùng các acid nucleic hiện diện (Circulating nucleic acids (CNA)) 
để phát hiện yếu tố SINEs (cell stress-related short interspersed nucleotide 
elements) một đoạn ngắn các nucleotide có tính mất ổn định hiện diện ở vùng 
trung tâm bảo toàn của PrPc trong huyết thanh gia súc liên quan đến bệnh BSE. 
Acid nucleic được ly trích, khuếch đại, tạo dòng, sắp xếp theo trình tự huyết thanh 
của protein prion kháng protease. Trình tự của 80bp từ vùng 3’ của Bov-tA SINE. 
Kỹ thuật PCR đã được sử dụng để phân tích huyết thanh từ 4 trường hợp liên 
quan của bệnh BSE, 137 động vật cùng họ biểu hiện bệnh BSE kết hợp với 8 
trường hợp liên quan đến bệnh BSE, những con bò đối chứng âm của PrPres được 
kiểm tra. 
QUY TRÌNH THỰC HIỆN. 
Thu nhận huyết thanh : 
Máu từ tĩnh mạch đuôi hoặc động mạch đã thu được vào tube nhựa 18ml được 
giữ ở nhiệt độ phòng trong 30 phút để đảm bảo đông máu thích hợp. Những cái 
ống này được cất giữ tại 2 tới 8°C không quá 24h để thực hiện các thí nghiệm 
khác . Ly tâm được làm ở 2 tới 8°C với 1000g trong 15 phút. Huyết thanh nổi 
 16
trên mặt được chuyển vào trong những cái chén ly tâm nhỏ 1.5ml vào phân chia 
đều thành 0.5ml và bảo quản lạnh ngay lập tức ở 20°C hoặc 80°C cho đến khi sử 
dụng. 
Chuẩn bị những phần nhỏ huyết thanh 
Huyết thanh đông lạnh được xả ở 4°C trong nước đá và 250μL được chuyển 
thành những ống ly tâm nhỏ 1,5ml. Ống được ly tâm 4000 vòng trong 25 phút ở 
4°C trong một mô hình đầu máy ly tâm 5.214 ghế (Eppendorf, Hamburg, Đức) để 
loại bỏ các mảnh vụn tế bào. Phần nổi trên mặt được chuyển vào một ống sạch và 
ly tâm 2000 vòng trong 35 phút. Phần nổi trên mặt đã được lấy ra cẩn thận và viên 
kết được sử dụng để phân tích xa hơn. 
 Tách chiết Nucleic acid 
Sử dụng 20.000 × g bột viên với một silica chuẩn dựa trên chiết xuất axit nucleic 
theo hướng dẫn của nhà sản xuất . Các axit nucleic được sử dụng ngay lập tức 
hoặc đông lạnh ở -80 ° C cho đến khi tiếp tục sử dụng. 
Primers. 
Mồi được sử dụng trong nghiên cứu này đã được bắt nguồn từ trước khi điều tra 
Một thời gian ngắn, hai súc vật bị bệnh BSE và bốn đối chứng bình thường được 
sử dụng; dùng mồi CHX-1F và CHX-1R. 1F và CHX-CHX-1R. CHX-1F thì 
tương đồng với cDNA của bò tương tự như calmodulin trong khi CHX-1R thì 
tương đồng với các đơn vị monomer của Bov-tA. 
 Giải trình tự. 
Mồi CHX-1F và CHX-1R đã được sử dụng trên chiết xuất axit nucleic trong 20μl 
PCR với 30-35 chu kỳ ở 48-55°C bắt cặp (60 seconds), 68°C kéo dài (2 min), 
and 94°C biến tính (1 min). Mẫu lấy từ các trường hợp bị bệnh BSE , bò khỏe 
mạnh làm đối chứng được phủ lên gel polyacrylamide gel electrophoresis (PAGE) 
và phân tích như mô tả. Band được cắt ra khỏi gel, tách rửa , và phải chịu sự 
reamplification. Các sản phẩm được kết thúc với polymerase T7 DNA và 
phosphoryl hóa với polynucleotide kinase và ATP. Hỗn hợp phản ứng này đã được 
sử dụng cho việc thắt đầu bằng vào một enzyme tiêu hóa SmaI, vector pGEM-
 17
4Z khử gốc phospho .Ủ qua đêm ở 4 ° C bằng cách sử dụng 1 U T7 DNA ligase, 1 
μg của vector, và các sản phẩm PCR. Sản phẩm này được chuyển vào Escherichia 
coli c và phủ trên TAXI LB-agar có chứa tetracyclin, ampicillin, 5-bromo-4-
cloro-3-indolyl-β-d-galactopyranoside (X-Gal), và isopropylthiogalactopyranoside 
(IPTG). Sau khi ủ qua đêm ở 37°C, những dòng dương tính được chọn và nuôi 
cấy trong môi trường LB 1,5ml với ampicillin. Vi khuẩn được thu hoạch, và 
plasmid đã được phân lập theo quy trình chuẩn và hoàn nguyên trong 50μl Tris-
borat-EDTA đệm. Các plasmid đã được trình tự sử dụng hoặc là một mô hình 
LICOR 4200 trình tự của DNA với IRD700-M13 có nhãn phía trước và mồi 
ngược M13 hay với một mô 3.100 trình tự mao quản nhỏ ABI sử dụng mồi không 
nhãn với vùng kết thúc Big-Dye . Trình tự này đã được xử lý bằng cách sử dụng 
Sequencher (Mac OSX). Sau một thời gian ngắn thiết kế các vector tạo dòng sử 
dụng , một contig tự động được thực hiện bằng cách sử dụng các thông số mặc 
định nghiêm ngặt. Từ contigs kết quả, chỉ các dòng từ ít nhất hai mẫu khác nhau 
đã được chọn. Homologs sau đó đã được định nghĩa như là phần của chuỗi contig 
đã được bao phủ bởi hơn 50% của các dòng cá thể. Các trình tự đã homologous 
cuối cùng được kiểm tra cho sự hiện diện của các mồi sử dụng. tất cả homologs 
có một trình tự mồi; 18 homologs có trình tự mồi hiện diện. 
BLAST phân tích. 
Phân tích di truyền đã được áp dụng cho các chuỗi bằng cách sử dụng chương 
trình BLAST Advance 
3μl của dịch chiết nucleic acid từ huyết thanh đã được sử dụng mà không cần tiền 
xử lý Dnase trong tổng số 20μl. Mồi CHX-1F và CHX-1R đã được sử dụng 
1μm sử dụng một hệ thống polymerase proofreading (Advantage-2 PCR kit, BD-
Clontech, Heidelberg , Đức). Sau 30 chu kỳ / 95 °C trong 30 giây, 55oC trong 45 
giây, và 68°C trong 1 phút, SybrGreen cđược ghi lại trong một MX4000 PCR hệ 
thống (cửa hàng số 401.260). Diện tích dưới đường cong (AUC) của các chức 
năng nóng chảy bắt nguồn-d (F) / dT giữa 87°C và 90°C đã được sử dụng để phân 
tích. sử dụng cách này vì nó không bị ảnh hưởng bởi các sản phẩm không đặc 
 18
hiệu: mồi-dimers, mà thường xuyên có thể có mặt do việc sử dụng các SybrGreen 
trong PCR. Các mẫu phản ứng của mỗi cá thể đã được tính toán trên cơ sở một 
AUC hơn giới hạn phát hiện, ( +5 độ lệch chuẩn). Tất cả các mẫu ban đầu phản 
ứng đã được lặp lại. Mẫu hiển thị phản ứng khi retesting được định nghĩa là nhiều 
lần. 
Phân tích thống kê. 
Tỷ lệ phản ứng lặp đi lặp lại trong các nhóm lân cận và nhóm đối chứng khỏe đã 
được tính toán và dùng thử nghiệm chi –square . Để so sánh tổng số nhóm thực 
hiện 9 bậc tự do , so sánh hai nhóm 2 nhóm với nhau mức độ tự do hạ xuống đến 
1. 
Điện di. 
Tám μl của hỗn hợp PCR đã được trộn lẫn với đệm và cho vào một gel 
polyacrylamide đúc sẵn 12-20% trong đệm Tris-borat-EDTA (45mM Tris, 
45mM acid boric, 1mM EDTA) (4 đến 20% Tris - borat-EDTA gel; Điện di ở 
nhiệt độ môi trường xung quanh trong 45 phút tại 180V. Các gel được nhuộm màu 
cho 20 phút trong một giải pháp và chụp ảnh dưới tia UV. 
Trình tự của các sản phẩm PCR từ BSE và BSE-tiếp xúc với con bò dựa trên mồi 
CHX-1F và CHX-1R đã được gửi cho cơ sở dữ liệu EMBL (nhập số AJ780924 để 
AJ780929). 
 19
Hình phía trên cho thấy một băng điện di của các sản phẩm PCR sử dụng cặp mồi 
trong các nhóm này. Tương tự như mô hình nhiều băng có thể được quan sát cho 
huyết thanh của BSE và 4 huyết thanh của cohort trong khi các phản ứng không 
được nhìn thấy ở động vật đối chứng bình thường. Hình bên dưới cho thấy các kết 
quả phân tích đường cong nóng chảy (28) của các mẫu. 
Kết quả. 
Một mồi bắt nguồn từ một vùng sine 3 '(CHX-1R) được đánh giá bởi PCR tách từ 
huyết thanh gia súc khỏe mạnh và bệnh. Mẫu của bò bị bệnh BSE, những động vật 
thân cận có nguy cơ mắc BSE, và động vật khỏe được sử dụng Một cặp mồi 
(CHX-1F/CHX-1R) cho thấy không có phản ứng với nhóm đối chứng là động vật 
khỏe mạnh, nhưng đã khuếch đại, phù hợp với BSE-tiếp xúc với gia súc. CHX-
1F/CHX-1R đã được sử dụng để khuyếch đại CNA từ hai mẫu có bệnh BSE, 
huyết thanh chứa đối chứng âm của PrPre , những con bò đối chứng khỏe mạnh. 
 20
Hiện nay người ta sử dụng phương pháp immuno-polymerase chain reaction 
(IPCR) để phát hiện sự hiện diện của PrPsc. IPCR là một kỹ thuật nhờ đó mà khả 
năng khuếch đại của PCR là đi đôi với phát hiện của các protein do kháng thể 
trong một định dạng ELISA. Khả năng phát hiện nhạy cảm gấp 1.000.000 lần so 
với mức phát hiện bởi western blot hoặc ELISA. 
Cách tiến hành. 
Sơ đồ của các kỹ thuật IPCR 
Bắt giữ kháng kháng thể của PrP , được hấp phụ lên tấm microwell, được sử 
dụng để nắm bắt các kháng nguyên PRP. Các cầu nối của Streptavidin-HRP giữa 
một máy dò -kháng thể kháng PRP và phóng 500bp biotinylated. Reporter DNA 
được khuếch đại bằng PCR sử dụng một probe huỳnh quang để phân tích thời 
gian thực. 
III/ KẾT LUẬN. 
Bệnh viêm não xốp ở bò là một bệnh truyền nhiễm khá đặc biệt mới được phát 
hiện ở Anh vào nửa cuối thập kỷ 80.Tác nhân gây bệnh còn nhỏ hơn cả virus gọi 
là prion là các tiểu phần protein có khả năng gây nhiễm. Bệnh đã được phát hiện ở 
nhiều trại nuôi bò của nước Anh. Sau đó có lẽ do việc xuất bò sống hoặc sản phẩm 
 21
của bò, bệnh đã được phát hiện ở nhiều nước Châu Âu và các lục địa khác tuy số 
lượng không nhiều. 
Người ta sử dụng nhiều kỹ thuật khác nhau để phát hiện ra bệnh viêm não xốp ở 
bò. Kỹ thuật PCR được dùng được dùng để phát hiện yếu tố SINEs (cell stress-
related short interspersed nucleotide elements) một đoạn ngắn các nucleotide có 
tính mất ổn định hiện diện ở vùng trung tâm bảo toàn của PrPc trong huyết thanh 
gia súc liên quan đến bệnh BSE. Sử dụng một cặp mồi (CHX-1F/CHX-1R) cho 
thấy không có phản ứng với nhóm đối chứng là động vật khỏe mạnh nhưng có 
phản ứng với nhóm mang bệnh BSE. 
Ngoài ra người ta còn sử dụng kỹ thuật IPCR là một kỹ thuật nhờ đó mà khả năng 
khuếch đại của PCR là đi đôi với phát hiện của các protein bệnh cho kháng thể 
trong một định dạng ELISA. 
IV/ TÀI LIỆU THAM KHẢO. 
1. Trần Thị Dân, ,2005,công nghệ sinh học trong chăn nuôi gia súc, NXB 
Nông nghiệp. 
2. 1.
rezSystem2.PEntrez.Pubmed.Pubmed_ResultsPanel.Pubmed_SingleItemSu
pl.Pubmed_Discovery_RA&linkpos=3&log$=rela. 
3. www.jbc.org/content/early/2009/08/19/jbc.M109.031559.abstrac 
4. 
positiveconfirmati.cfm 
5.  

File đính kèm:

  • pdftieu_luan_ky_thuat_sinh_hoc_phan_tu_va_benh_viem_nao_xop_o_b.pdf