Tiểu luận Vaccine phòng bệnh viêm não Nhật Bản
Tóm tắt Tiểu luận Vaccine phòng bệnh viêm não Nhật Bản: ...bản myelin (MBP) hàm lượng 2ng/ml, bao gồm các chỉ định rõ khác. Thành phần chính của vaccine được pha loãng với 199 môi trường và đệm phosphate để đạt hiệu lực tiêu chuẩn. Mặc dù số lượng của protein E của JE là không kiểm soát được, trong một nghiên cứu, một liều ước tính có chứa khoảng 50µg...hoát khỏi sự trung hòa chọn lọc. Sự làm yếu có liên quan tới các thay đổi base duy nhất mang đến kết quả thay đổi amino acid của protein E duy nhất và liên kết với thay đổi tương tác tế bào-virus. Sự gây độc thần kinh giảm của giống SA 14-14-2 được xác nhận chuột ba tuần tuổi và khỉ. So với ...ết quả mức độ cao kháng thể trung hòa trong tất cả các đứa trẻ được chủng ngừa trước đó với vaccine não chuột và đưa vào một liều BK-VJE. Kakestunken, một nhà sản xuất vaccine JE thu từ não chuột người Nhật đã sản xuất được vaccine từ tế bào Vero không có tá dược tinh sạch làm thành công thứ...
ủa virus SA14 bố mẹ gây độc thần kinh không giống của SA14-14-2 và hai virus vaccine được thu nhận từ SA14-14-2 bị làm yếu khác ở 7 acid amin được thay thế tìm thấy ở cả 3 giống bị làm yếu. 4 trong protein vỏ (E138, E176, E315 và E439 ) , 1 trong NS protein 2B(NS2B63) , 1 trong NS3 (NS3105) và 1 trong NS4B (NS4B106). Những đột biến này được biểu hiện rất ổn định. Sự thay đổi amino acid ở E-138 ở virus SA 14-14-2 được biểu hiện đầy đủ để làm yếu thần kinh chuột khi đưa vào các dòng nhiễm cDNA của JE tip hoang dại. Trình tự nucleotide của các protein cấu trúc mà các virus được làm yếu biểu hiện và virus cha mẹ không giống do sự đột biến của 8 và 9 amino acid. Virus làm yếu cũng 12 thu được nhờ các biến thể thoát khỏi sự trung hòa chọn lọc. Sự làm yếu có liên quan tới các thay đổi base duy nhất mang đến kết quả thay đổi amino acid của protein E duy nhất và liên kết với thay đổi tương tác tế bào-virus. Sự gây độc thần kinh giảm của giống SA 14-14-2 được xác nhận chuột ba tuần tuổi và khỉ. So với giống SA 14 bố mẹ, cái mà giết chết chuột đang còn bú do tiêm vào não hoặc dưới da với liều trung bình gây chết (LD50) trong giới hạn 105.5 tới 108,3 LD50/ml, virus SA 14-14-2 không gây chết và chỉ có dấu hiệu bệnh lý nhỏ ở vài động vật được tiêm vào não. Kết hợp tiêm vào trong xương sống và trong vùng đồi thị của khỉ nâu không gây ra dấu hiệu bệnh lý mà chỉ có phản ứng viêm nhỏ ở dây thần kinh tủy sống thuộc vùng cổ và chất có màu đen. Chuột thì nhạy cảm hơn so với khỉ để nhiễm vào trong não, với một số động vật biểu hiện các thương tổn thần kinh nhẹ trong vỏ não, vùng cá ngựa và hạch cơ bản. So với các thương tổn mô bệnh được tạo ra do virus SA 14 bố mẹ, phản ứng viêm do virus SA14-14-2 lớn hơn và hoại tử tế bào thần kinh thì ít hơn. Bằng chứng xa hơn của sự giảm kích thích thần kinh của dòng từ các nghiên cứu thí nghiệm trên chuột trần tuyến ức. Không chết hoặc bất thường mô bệnh được khảo sát sau khi tiêm vào trong bụng và tiêm vào dưới da tăng tính nhạy cảm của chuột với virus JE gây độc, ngăn cản miễn dịch với Cyclophosphamide không dẫn tới viêm 13 não ở chuột được tiêm chủng ngoại vi với virus SA 14-14-2. Chủng này cũng không giết chết chuột đồng đang bú được tiêm vào trong não. Đặc điểm của giống vaccine (PHK8) như là một vệt kích thước nhỏ, làm giảm gây độc thần kinh chuột và đặc tính di truyền được ổn định qua ít nhất 10 lần cấy truyền trên tế bào PHK. Virus huyết SA 14-14-2 không được nghiên cứu trong vaccine mặc dù những nghiên cứu được thực hiện và vaccine dùng được vào cuối 2006. Nhân giống SA 14- 14-2 trong tế bào thận chó sơ cấp (PDK) có thể được phân lập từ máu rút ra từ vaccine, nhưng ở độ chuẩn xâm nhiễm dưới ngưỡng nhiễm ở miệng thông thường của muỗi. Kết luận từ một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng khả năng không đáng kể cho sự truyền của muỗi của virus JE bị làm yếu từ heo hay người được chủng ngừa; tuy nhiên, các thí nghiệm cuối cùng là cần thiết. Giống SA14-14-8 có liên quan mật thiết với SA14-14-2, nhân giống tốt ở muỗi Culex tritaeniorhynchus sau khi cấy vào trong ngực nhưng không thể chuyển. Ở những thí nghiệm xâm nhiễm ở miệng, chỉ có 11% của muỗi Cx tritaeniorhynchus theo đường ăn uống chủng ngừa trở thành nhiễm được so sánh với 100% với JE tip hoang dại. Virus không trở lại phenotype gây độc thần kinh sau khi truyền qua muỗi. ¾ Sản xuất vaccine. Hạt virus được chuẩn bị từ mức độ cấy truyền lần thứ 6 của virus SA 14-14-2, được duy trì ở NICPBP ở Beijing. Virus hạt được làm khô lạnh (PHK5) được cung cấp để viện sản xuất, nơi mà nó được cấy truyền một lần cho sản xuất hạt (PHK6). Tế bào BHK thu được từ chuột Syrian vàng 10-12 ngày tuổi được duy trì ở dạng colony ở viện Chengdu và Wuhan Production. Tế bào một lớp được tiêm chủng với virus được pha loãng và tế bào được cung cấp dinh dưỡng với dung dịch thiết yếu rất nhỏ có chứa albumin người, gentamicin và kanamycin. Dòng tế bào nuôi cấy được nhiễm với độ chuẩn (hiệu giá) nhiễm xấp xỉ 107,2 đơn vị tạo hình vệt (điểm) (PFU)/ml được thu hoạch ở 78-96 giờ và được lọc thô và mang lại kết quả vaccine dịch lõng được làm khô lạnh. Gelatin (1%) và sucrose (5%) được thêm vào như là chất ổn đinh. Vaccine được làm khô lạnh được tái tạo lại và pha loãng với nước vô trùng cho thuốc tiêm. Vaccine tái tạo nên là dịch lõng cam-đỏ thấy rõ. PFU của vaccine không thấp hơn 105,7 PFU trong vaccine tái tạo. 14 ¾ Kết hợp với các vaccine phòng bệnh khác. Cấp vaccine JE đồng thời với vaccine Bacille Calmette-Guérin (BCG), bệnh sởi hoặc DTP ở 6-10 tháng tuổi thì không làm tăng khả năng gây hại và so với vaccine JE được cấp một mình. Cấp vaccine JE hiện nay không dẫn tới các thay đổi đáng kể trong đáp ứng hiệu giá kháng thể DTP hoặc bệnh sởi hoặc phạm vi của phản ứng BCG. Ở Trung Quốc không có sự khác nhau trong khả năng gây phản ứng liên hệ miễn dịch (reactogenicity) của vaccine ở trẻ em nhận vaccine sởi, JE hoặc JE và sởi kết hợp. ¾ Liều dùng và đường cấp. Ở Trung Quốc, vaccine được cấp phép cho liều 0.5 ml cấp dưới da cho trẻ 8 tháng tuổi và liều lặp lại lần hai thích hợp lúc hai năm. Ở một vài khu vực, liều nhắc lại được đưa vào khoảng 7 năm. Giông như vaccine thu từ tế bào PHK bị bất hoạt , vaccine SA 14-14-2 được phân phối vào chiến dịch mùa xuân hàng năm hơn là chương trình dựa trên tuổi. ¾ Ổn định vaccine. Hiệu giá nhiễm của vaccine làm khô lạnh là không thay đổi đáng kể sau khi trữ ở 370C để 7-10 ngày, ở nhiệt độ phòng trong 4 tháng hoặc 2-80C để được ít nhất là 1.5 năm. Sau khi khôi phục lại với nước được chưng cất hoặc nước muối vô trùng và trữ ở 230C, hiệu giá nhiễm của vaccine ổn định trong 2-4 h hoặc 2h. Vaccine nên được 15 dự trữ và vận chuyển ở 80C, tránh ánh sáng mặt trời và sử dụng trong vòng 18 tháng sau khi kiểm tra hiệu lực hoàn chỉnh. II.2.1.4. Một số vaccine cải tiến Một số vaccine JE đang phát triển, bao gồm cả những virus bị bất hoạt, vaccine DNA và vaccine kỹ thuật di truyền. Các ứng cử viên mà đưa ra hứa hẹn nhất và xa nhất trong sự phát triển đơn giản là vaccine bất hoạt với 3 nhà sản xuất ở thử nghiệm giai đọan ba và vaccine Chimeric sửa đổi cũng đang trong giai đoạn 3. a. Vaccine bất hoạt. Một số nhóm làm thí nghiệm với vaccine hạt virus bất hoạt từ nuôi cấy tế bào Vero bị nhiễm. Dịch nuôi cấy tế bào với độ chuẩn nhiễm virus cao, liên tục thu hoạch từ giá thể nuôi cấy, bất hoạt với formalin và cô đặc, mang lại các vaccine ứng cử viên với các tiêu chuẩn hiệu lực bảo hộ chuột được đưa vào trong vaccine não chuột bất hoạt. Vaccine IC52 đang được phát triển bởi Intercell, công ty kỹ thuật bố trí ở Viema, Austria, là dựa trên dòng virus vaccine SA 14-14-2. Nó được tinh sach, bất hoạt và đưa vào công thức với phèn. Một phần của phase mở rộng tế bào, quy trình là sử dụng huyết thanh dê bào thai. Chỉ dẫn cho người trưởng thành, các nghiên cứu phase I và phase II được hướng dẫn của Investigational New Drug (IND) ở Mỹ thông qua Walter Reed Army Institute of Research (WRAIR). Dữ liệu chứng minh sự gia tăng của tỉ lệ chuyển đổi huyết thanh với các liều bậc thang của vaccine. Nghiên cứu trong phase I, các liều 0.4 -2 µg được đưa ra với 2-3 liều uống. Các nghiên cứu trong phase II, các liều 6-12 µg cho kết quả tỉ lệ chuyển đổi huyết thanh cao trong một tháng với sự bền vững của kháng thể trung hòa của các dòng tương đồng khoảng 2 năm trong 85% ở các đối tượng. Sử dụng cho người trưởng thành sẽ chứng minh là không thấp hơn dựa trên tỉ lệ chuyển đổi huyết thanh và độ chuẩn kháng thể . Công ty đang xin được cấp bằng sớm ở Mỹ và Châu Âu. Thêm vào đó, sự cộng tác của Biological E sẽ dẫn tới điều kiện thuận lợi cho sản xuất ở Ấn Độ và các nghiên cứu phase II và III ở em bé và trẻ em dưới 7 tuổi ở các địa phương bệnh. Cơ sở nghiên cứu bệnh vi sinh vât của trường đại học Tokyo, Biken đã sản xuất vaccine Biken BK-VJE dựa trên tế bào vero làm thành công thức có phèn và sử dụng 16 dòng Beijing -1 JE. 2001 nghiên cứu phase I của hai liều uống đưa ra vaccine để dự trữ tốt, chỉ tăng nhẹ chức năng của gan và gây miễn dịch, với các chuyển đổi huyết thanh kháng thể trung hòa được quan sát ở các đối tượng huyết thanh âm tính. Thử nghiệm 2 liều ở phase III ở 110 đứa trẻ nhạy cảm với flavivirus đã tạo được kháng thể trung hòa ở 100% đối tượng không có các điều kiện bất lợi. Lần thứ hai phase III mở rộng thử nghiệm đánh dấu kết quả mức độ cao kháng thể trung hòa trong tất cả các đứa trẻ được chủng ngừa trước đó với vaccine não chuột và đưa vào một liều BK-VJE. Kakestunken, một nhà sản xuất vaccine JE thu từ não chuột người Nhật đã sản xuất được vaccine từ tế bào Vero không có tá dược tinh sạch làm thành công thức không có gelatin và thimersol. Nồng độ DNA và protein Vero là vài picogram trên một liều trong sản phẩm cuối cùng. Ở phase I , 30 người trưởng thành nhạy cảm bệnh được đưa vào 3 iều vaccine ở 0.4 tuần và 6 tháng được khảo sát không có các trường hợp chống lại nghiêm trọng và tất cả các đối tượng đều phát triển kháng thể trung hòa JE. Nghiên cứu phase II bao gồm 200 đứa trẻ từ 6-90 tháng tuổi đã nhận 3 liều với 100% huyết thanh chuyển đổi. Các trường hợp chống lại nhẹ được ghi chú là 45% sau lần cấp đầu tiên. Tương tự, vaccine bất hoạt tế bào Vero hiện đang được sản xuất tại Trung Quốc bởi viện sản phẩm sinh học Beijing. b. Vaccine Chimeric. Rất xa định hướng di truyền hứa hẹn nhất được xây dựng của chimeric flavivirus trong bộ gene của YF 17D đóng góp của gene NS và SA 14-14-2 đóng góp của gene prM và E (ChimeriVax-JE; Acambis, Cambridge, MA, USA). Chimera được xây dựng từ cDNA, phiên mã ngược từ RNA và dùng điện trường nhiễm vào tế bào 17 Vero. Kết quả các dòng nhiễm có thành phần trung hòa độc tố của SA 14-14-2, nhưng sự phát triển của tế bào Vero đặc trưng của 17D. Sự làm yếu virus chimeric được thực hiện dựa trên các mô bất định của protein E JE có tối thiểu 3-6 acid amin bị thay đổi. Chimera YF/JE chứng minh gây miễn dịch cao hơn ở khỉ rhesus và bảo vệ chống lại các nguy cơ nhiễm vào trong não và trong mũi sử dụng dòng virus hoang dại. Chimera không thể truyền bằng vật truyền muỗi của virus JE hoặc YF. Hyderabad, Ấn Độ sẽ hoàn chỉnh vaccine đầy đủ và hoàn thiện ở Good Manufacturing Practices (GMP). Các thử nghiệm bệnh lý của bệnh nhi dự định Ấn Độ sẽ ước định an toàn và khả năng tồn trữ của ChimeriVax-JE ở trẻ em tăng lên từ nhóm tuổi lớn hơn tới nhóm tuổi nhỏ hơn. Những nghiên cứu cấp phát đồng thời vaccine sởi với ChimeriVax-JE được dự định. c.Vaccine DNA. Một định hướng khác đang được thăm dò tiêm vào trong cơ hoặc trong da các plasmid DNA trần mã hóa cho protein M và E dưới sự kiểm soát của promoter ngay cạnh virus cự bào. Sử dụng plasmid JE chuột được miễn dịch bảo vệ chống lại các thách thức của chủng virus hoang dại. Ở heo con, hai liều tiêm vào cơ tạo hiệu giá kháng thể cao và đáp ứng kí ức bệnh cao để kích thích vaccine nhược độc sống. Vaccine khác đang phát triển bao gồm tạo ra trình tự tín hiệu kích thích tiết các chất hoạt hóa plasminogen từ mô nối với một phần gen protein vỏ JEV hoặc một gen có chiều dài đầy đủ. Các tế bào được chuyển sau đó xây dựng tạo protein E và gây ra bảo hộ tốt hơn chống lại các kích thích não chuột. d.Vaccine nhược độc sống. Tiềm tàn các tác nhân ngẫu nhiên trong chất nền tế bào PHK của vaccine nhược độc SA14-14-2 yêu cầu mở rộng kiểm tra thăm dò sự phóng thích. Kết quả, đây là kích thích cố gắng để lắp virus vào hệ thống tế bào. Dòng virus được lắp vào tế bào PDK và sau đó chuyển virus gây độc thần kinh vào khỉ và làm các kiểm tra an toàn khác, được tạo ra dưới GMP chuyển qua tế bào PDK 19 của nó nhờ WRAIR như là vaccine ứng cử. Vaccine IND có chứa độ chuẩn nhiễm hơn 105.5 PFU/ml, đưa vào an toàn cho người trưởng thành và trẻ em trong các thử nghiệm phase I ở người, nhưng đáp ứng kháng thể trung hòa với một liều duy nhất được phát hiện trong chỉ 2 18 của 4 và 14 của 45 (31%), với hiệu giá kháng thể trung bình nhân (GMTs) thay đổi từ 7 tới 40 (YX Yu, personal communication, 1997). Thấy được bên ngoài các đáp ứng miễn dịch kém, dòng được chuyển PDK được xem xét qua sự suy yếu và phát triển không được tiếp tục. Sau đó, virus được kết hợp với tế bào Vero và nó tiềm tàng như là virus sống hoặc bất hoạt cả hạt virion đang được khảo sát. e.Vaccine vector đậu mùa. Virus đậu mùa thiếu khả năng sao chép (Replication-deficient canary pox :ALVAC) và virus đậu mùa nhược độc cao (highly attenuated vaccinia viruses: NYVAC) được sử dụng như một vector mang gene prM-E và prM-E-NS1. Các ứng cử viên vaccine tái tổ hợp được xây dựng nhờ chèn 4 gene prM, E, NS1 và NS2 vào virus vaccine đậu mùa NYVAC hoăc virus đậu mùa hoàng yến ALVAC được đánh giá rộng rãi. Cả hai thể tái tổ hợp được biểu hiện mã hóa các sản phẩm gene NS và gene cấu trúc JE và kích thích kháng thể bảo hộ JE trong chuột; hai liều trước cũng bảo vệ khỉ rhesus chống lại thách thức của các virus gây chết. Trong các thử nghiệm phase I ở người, vaccine gây phản ứng hơn vaccine não chuột một ít nhưng an toàn. Hai liều của vaccine tái tổ hợp NYVAC-JE gần như gây miễn dịch bằng ba liều của vaccine não chuột bất hoạt, nhưng chỉ ở những người tình nguyện chưa bị đậu mùa. Mặc dù virus tái tổ hợp NYVAC-JE được chứng minh là an toàn và có hiệu lực với các đối tượng không miễn dịch đậu mùa, sự thất bại của bố mẹ để sao chép trong các đối tượng miễn dịch đậu mùa đã đặt ra vài giới hạn có lợi. II.2.2. Một số nghiên cứu phát triển vaccine JE cho động vât a. Phát triển triển giống nhược độc để làm vaccine virus JE sống cho heo. Phát triển triển giống nhược độc làm vaccine virus JE sống để ngăn ngừa heo chết khi sinh, một nổ lực để tạo ra virus nhược độc. Nuôi cấy tế bào thận bò sơ cấp để tiến hành cấy truyền giống ở 300C trong một thời gian dài. Trong quá trình cấy truyền tạo dòng này được lặp lại với đặc tính của khả năng tái sinh ở nhiệt độ đưa vào (rct) và kích thước vệt như là marker. Kết quả, giống S nhược độc được tạo thành công. Nó là rct/37 và rct/40 ( rct: ở nhiệt độ vẫn còn khả năng sinh sản) và hình thành các điểm nhỏ. Ở giống này sự làm yếu đánh dấu được thấy gây nhiễm ở ngoại vi chuột còn bú và gây nhiễm bên trong chuột trưởng thành. Khi được tiêm với giống này những con heo con mới sinh không biểu hiện dấu hiệu bệnh lý bất thường hoặc thay đổi bệnh lý của mô não. Một thời gian ngắn một số virus được tìm thấy ở 19 các nốt bạch huyết và máu. Một ít virus còn được phát hiện ở các cơ quan khác nhau. Không có virus huyết được phát hiện từ heo con hơn là heo một tháng tuổi được tiêm với virus được phục hồi. Không có sự nhiễm ở nhau hoặc bào thai được phát hiện ở heo nái mang thai được tiêm với virus hồi phục. Heo nái được tiêm sinh ra heo con bình thường. Từ những kết quả này, có thể nói rằng giống S có đủ an toàn để sử dụng như một virus vaccine sống cho heo. b. Ứng cử viên vaccine DNA JE biểu hiện gen vỏ và gen tiền màng tạo thành tế bào B nhớ chuyên biệt virus và tạo kháng thể bền vững ở heo. Heo là một bộ máy khuyếch đại của virus JE trong môi trường vật nuôi. Ở nghiên cứu này, hai ứng cử viên vaccine DNA được đánh giá gây miễn dịch cho heo. Cả hai plasmid vaccine mã hóa một ca xét gồm có tín hiệu của vùng mã hóa cho protein tiền màng prM và protein vỏ E của virus JE. Một plasmid được thiểt kế pcJEME dựa trên vector thương mại pcDNA3 và một plasmid khác được thiết kế pNJEME dựa trên vector pNBVL4a. Không có sự khác nhau được phát hiện trong việc gây miễn dịch của 2 plasmid này ở chuột và heo. Heo được miễn dịch với vaccine DNA với một liều 100-400 μg khoảng 3 tuần phát triển hiệu giá kháng thể trung hòa và hiệu giá kháng thể HAI (hemagglutination-inhibitory) của 1:40 và 1:160 một tuần sau khi tiêm chủng lần hai. Tuy nhiên, heo được cấp hai liều vaccine JE thương mại ( chuẩn bị virus bị bất hoạt bằng formalin; JEVAX-A) tăng thấp 1:10 hoặc đáp ứng kháng thể dưới khả năng có thể phát hiện sau tiêm nhắc lại chúng. Thú vị là hiệu giá kháng thể của huyết thanh gây ra nhờ vaccine DNA ở heo cao hơn được phát hiện ở chuột. Sau 8 ngày tiêm nhắc lại với kháng nguyên virus (JEVAX- A) để phát hiện đáp ứng kí ức bệnh, heo được chủng ngừa hai lần với vaccine DNA biểu hiên tăng gấp >100 lần trong độ chuẩn HAI, chỉ ra khả năng nhớ mạnh mẻ của đáp ứng kháng thể. Heo duy trì mức có thể phát hiện của kháng thể HAI tối thiểu là 245 ngày sau 2 lần chủng ngừa với vaccine DNA. Các kết quả này chỉ ra các vaccine DNA này có thể làm tăng tế bào B nhớ chuyên biệt cho virus và tạo kháng thể bền vững trong thời gian dài ở heo, mức độ bảo hộ cao hơn so với vaccine JE bất hoạt bằng formalin thương mại. 20 III. KẾT LUẬN Như vậy có thể nói dưới sự nổ lực không ngừng của các nhà khoa học thì bệnh viêm não Nhật Bản ở cả người và động vật đều đã được chủ động kiểm soát bằng vaccine. Hiện nay, trên thị trường cũng có nhiều loại vaccine chủng ngừa viêm não Nhật Bản để người và động vật được tiêm chủng có được hiệu quả bảo hộ cao nhất. Dưới sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật thì vaccine viêm não Nhật Bản cũng đang ngày càng được hoàn thiện hơn. Kết hợp với kỹ thuật di truyền, kỹ thuật sản xuất vaccine DNA, vaccine tái tổ hợp đang mở ra một hướng mới để sản xuất vaccine phòng bệnh viêm não Nhật Bản hiệu quả cao với chỉ một liều duy nhất. Tuy vậy, trong quá trình nghiên cứu và xây dựng các loại vaccine bằng công nghệ mới cũng mang đến một số rủi ro có thể làm thay đổi serotype của virus JE làm chúng trở nên nguy hiểm hơn. Bên cạnh đó, ở các nước đang phát triển ở Châu Á vẫn chưa chủ động sản xuất vaccine JE đủ đáp ứng cho nhu cầu trong nước mà còn phải nhập từ nước ngoài. Vì vậy giá thành cũng cao hơn gây ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của ngành chăn nuôi cũng như sức khỏe con người. 21 Tài liệu tham khảo. ©The Medical Journal of Australia 2004 www.mja.com.au Journal of clinical microbiology, Jan. 1975, p. 96-101 www.thelancet.com 22 MỤC LỤC I. ĐẶT VẤN ĐỀ. ......................................................................................................................................2 II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ......................................................................................................................3 II.1. Bệnh viêm não Nhật Bản ( Japanese encephalitis: JE)...........................................................................3 II.1.1. Lịch sử bệnh ........................................................................................................................................3 II.1.2. Virus JE ...............................................................................................................................................4 II.2. Vaccine phòng bệnh JE ..........................................................................................................................6 II.2.1. Vaccine JE cho người..........................................................................................................................6 II.2.1.1.Vaccine JE thu từ não chuột bị bất hoạt ............................................................................................7 II.2.1.2. Vaccine JE từ tế bào thận chuột đồng sơ cấp bị bất hoạt. ................................................................9 II.2.1.3. Vaccine viêm não Nhật Bản nhược độc, sống................................................................................10 II.2.1.4. Một số vaccine cải tiến...................................................................................................................15 II.2.2. Một số nghiên cứu phát triển vaccine JE cho động vât .....................................................................18 III. KẾT LUẬN......................................................................................................................................20
File đính kèm:
- tieu_luan_vaccine_phong_benh_viem_nao_nhat_ban.pdf