Tính phổ biến và tính đặc thù của con đường đi lên xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Tóm tắt Tính phổ biến và tính đặc thù của con đường đi lên xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: ... Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.162. (7) C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, t.18, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.220. Tính phổ biến và tính đặc thù... 5 Sự kết hợp giữa tính phổ biến và đặc thù của con đường đi lên xã hội xã hội chủ nghĩa đã được các nhà kinh điển Mác - Lênin...i tư bản chủ nghĩa, nhất là vào thời kỳ hiện đại, so với xã hội phong kiến và xã hội nô lệ. Xã hội nô lệ và xã hội phong kiến trước đó được nhìn nhận ở hai mặt đối lập trong quá trình phát triển của xã hội loài người: các nhà nước “thống trị” và các xã hội “bị trị”. Kinh tế thị trường,... lên xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng chưa được nhận thức và vận dụng một cách sáng tạo phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của đất nước. Chẳng hạn như các vấn đề về truyền thống đoàn kết, sự khoan dung và tính cộng đồng của dân tộc Việt Nam đã chưa được đánh giá đúng mức và phát huy...

pdf7 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 336 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tính phổ biến và tính đặc thù của con đường đi lên xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghĩa 
Mác - Lênin về con đường đó - nguyên tắc 
thống nhất giữa lý luận với thực tiễn - để từ 
đây mọi nước có thể vận dụng, định hướng 
phát triển cho riêng mình. Các nhà kinh 
điển Mác - Lênin đã khẳng định rằng, mọi 
quốc gia, dân tộc sớm muộn đều sẽ đi đến 
xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là một tất yếu 
mang tính phổ biến của lịch sử xã hội loài 
người. Điều đó cũng có thể hiểu, tính phổ 
biến của con đường đi lên xã hội xã hội chủ 
nghĩa được nhìn nhận là con đường phát 
triển theo hướng đi lên tất yếu của xã hội 
loài người, và chỉ có “phong trào hiện thực” 
mới xây dựng nên.(*)Đó cũng không phải là 
con đường với “khuôn” mẫu có sẵn để rồi 
mỗi quốc gia phải đi theo. Các ông đã 
khẳng định rằng: “Đối với chúng ta chủ 
nghĩa cộng sản không phải là một trạng thái 
cần phải sáng tạo ra, không phải là một lý 
tưởng mà hiện thực cần phải khuôn theo. 
Chúng ta coi chủ nghĩa cộng sản là một 
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Chính trị học, Học viện 
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. ĐT: 0983600506. 
Email: nguyenhuudong52@gmail.com. 
(**) Tiến sĩ, Viện Chính trị học, Học viện Chính trị 
quốc gia Hồ Chí Minh. ĐT: 0912749928. 
Email: theluchvct@gmail.com. 
CHÍNH TRỊ - KINH TẾ HỌC 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 
 4 
phong trào hiện thực, nó xóa bỏ trạng thái 
hiện nay. Những điều kiện của phong trào 
ấy là kết quả của những tiền đề hiện đang 
tồn tại”(1). Về vấn đề này, V.I.Lênin đã khẳng 
định: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý 
luận), vì nó có ưu điểm không những của 
tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực 
tiếp”(2). Theo V.I.Lênin, xã hội tư bản chủ 
nghĩa cũng chỉ là một xã hội đang trên con 
đường đi đến xã hội cộng sản chủ nghĩa. 
Ông đã nêu rõ: “Chủ nghĩa cộng sản sinh ra 
từ chủ nghĩa tư bản, chỉ có dùng những cái 
do chủ nghĩa tư bản để lại thì mới có thể 
xây dựng nên chủ nghĩa cộng sản được”(3). 
Xuất phát từ thực tiễn, các nhà kinh điển 
của chủ nghĩa Mác - Lênin còn chỉ ra quy 
luật “thống nhất và đấu tranh giữa các mặt 
đối lập” trong quá trình phát triển của thực 
tiễn khách quan, tất yếu để đi đến các xã 
hội tốt đẹp, tiến bộ. V.I.Lênin nêu rõ: “Sự 
phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các 
mặt đối lập”(4). Các mặt đối lập được hiểu 
là các cặp (hai mặt) đối lập. Các cặp đối lập 
là tồn tại vĩnh viễn với sự hoàn thiện, biến 
đổi thành các cặp khác do những tác động, 
chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng một cách 
khách quan trong quá trình phát triển. Đấu 
tranh (mâu thuẫn) giữa các mặt này là biểu 
hiện của sự mâu thuẫn có tính chất đối lập 
hay đối kháng. Sự mâu thuẫn, đấu tranh này 
cũng tồn tại vĩnh viễn với nhiều hình thức 
khác nhau. Các nhà kinh điển Mác - Lênin 
đã từng cho rằng: “Sự đấu tranh của các 
mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, 
cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt 
đối”(5). Sự thống nhất được hiểu là sự kết 
hợp hài hòa, gắn bó ở mức cao nhất (tuyệt 
đối) giữa các mặt đối lập. Tuy nhiên, những 
sự thống nhất như vậy cũng chỉ là tương 
đối, tạm thời. Bởi vì, không có sự kết hợp 
hài hòa (phù hợp) nào là tuyệt đối, cũng 
như không có sự cân bằng nào là vĩnh viễn, 
vì bản thân các mặt đối lập tự nó đã chứa 
đựng những sự khác biệt. 
Tính đặc thù của con đường đi lên xã hội 
xã hội chủ nghĩa được hiểu là sự vận dụng 
một cách sáng tạo nguyên lý có giá trị bền 
vững, xuất phát từ nguyên tắc phương pháp 
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con 
đường đó vào hoàn cảnh cụ thể ở mỗi nước, 
để từ đó làm nên tính đa dạng về các mô 
hình khác nhau của con đường đó. Thực tế, 
các nhà kinh điển Mác - Lênin đã thường 
nhấn mạnh đến vấn đề thực tiễn, hoàn cảnh 
lịch sử cụ thể để nhằm đạt tới mục đích 
phát triển theo hướng ngày càng tiến bộ, 
văn minh hơn ở mỗi nước. Các ông cho 
rằng, ngay ở cả những nước có cơ sở kinh 
tế như nhau, vẫn có những sự khác biệt về 
hình thức phát triển của dân tộc ấy. Các ông 
đã viết: “Cơ sở kinh tế xét về điều kiện chủ 
quan là giống nhau có thể do có nhiều khác 
nhau về kinh nghiệm, điều kiện tự nhiên, 
quan hệ chủng tộc cùng với những ảnh 
hưởng lịch sử do tác động bên ngoài gây 
ra... mà biểu hiện ra nhiều kiểu biến đổi và 
sự khác biệt về mức độ, xét về mặt hiện 
tượng”(6); vì thế, “chúng tôi không bao giờ 
quyết đoán rằng để đạt tới mục đích đó, đâu 
đâu cũng phải dùng những biện pháp như 
nhau... Chúng tôi biết rằng cần phải chú ý 
đến những thiết chế, phong tục và truyền 
thống của các nước khác nhau”(7). 
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, t.3, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.51. 
(2) V.I.Lênin (1978), Toàn tập, t.29, Nxb Tiến bộ, 
Mátxcơva, tr.230. 
(3) Sđd, t.40, tr.250. 
(4) Sđd, t.29, tr.379. 
(5) Sđd, t.29, tr.380. 
(6) (2000), Hội thảo khoa học Trung - Việt: Chủ 
nghĩa xã hội - cái phổ biến và cái đặc thù, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.162. 
(7) C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, t.18, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.220. 
Tính phổ biến và tính đặc thù... 
 5 
Sự kết hợp giữa tính phổ biến và đặc thù 
của con đường đi lên xã hội xã hội chủ 
nghĩa đã được các nhà kinh điển Mác - 
Lênin phân tích trong các luận điểm có giá 
trị phương pháp luận như sau: “Tất cả các 
dân tộc đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là 
điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân 
tộc đều tiến lên chủ nghĩa xã hội không 
phải một cách hoàn toàn giống nhau”(8); 
“Chúng ta không kỳ vọng rằng Mác hay 
những người theo chủ nghĩa Mác đều hiểu 
biết mọi mặt cụ thể của con đường tiến lên 
chủ nghĩa xã hội. Như thế sẽ là phi lý. 
Chúng ta chỉ biết phương hướng của con 
đường đó và những lực lượng giai cấp nào 
dẫn đến con đường đó; còn như về cụ thể 
và trên thực tế con đường đó ra sao, thì kinh 
nghiệm của hàng triệu con người sẽ chỉ rõ, 
khi họ bắt tay vào hành động”(9); “nhiệm vụ 
của những người cộng sản là phải biết áp 
dụng những nguyên tắc phổ biến và cơ bản 
của chủ nghĩa cộng sản vào đặc điểm của 
những mối quan hệ giữa các giai cấp và các 
đảng, vào đặc điểm của sự phát triển khách 
quan hướng tới chủ nghĩa cộng sản, những 
đặc điểm riêng của mỗi nước...”(10). 
Nói về sự kết hợp giữa tính phổ biến và 
đặc thù hay lý luận liên hệ với thực tiễn 
của con đường đi lên xã hội xã hội chủ 
nghĩa, sinh thời, Hồ Chí Minh cũng đã từng 
nêu rõ: “Thống nhất giữa lý luận và thực 
tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ 
nghĩa Mác - Lênin..., lý luận cách mạng 
không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam 
cho hành động cách mạng; và lý luận không 
phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính 
sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ 
sung bằng những kết luận mới rút ra từ 
trong thực tiễn sinh động. Những người 
cộng sản các nước phải cụ thể hóa chủ 
nghĩa Mác - Lênin cho thích hợp với điều 
kiện hoàn cảnh từng lúc và từng nơi”(11). 
2. Vấn đề kết hợp giữa tính phổ biến và 
đặc thù của con đường đi lên xã hội mà 
trong đó có mục tiêu cốt lõi như nêu ở trên 
đã được nhiều quốc gia trên thế giới thực 
hiện với nhiều hình thức đa dạng. Để đạt tới 
xã hội tốt đẹp như vậy, hay nói cách khác là 
tới xã hội có “tự do, bình đẳng và bác ái...”, 
các quốc gia đều phải phát triển trên nền 
tảng của kinh tế thị trường hiện đại, xây 
dựng, hoàn thiện nhà nước “pháp quyền” và 
xã hội “dân sự”. Ba vấn đề này được coi là 
các yêu cầu khách quan tất yếu, mang tính 
phổ biến mà mỗi quốc gia đều phải thực 
hiện để có thể đạt tới các xã hội tốt đẹp đó. 
Kinh tế thị trường là bước phát triển tiến 
bộ, văn minh hơn nhiều với trình độ công 
nghiệp hiện đại so với nền kinh tế hàng hóa 
phát triển ở mức thấp với trình độ nông 
nghiệp lạc hậu. Kinh tế thị trường được coi 
là sản phẩm khách quan tất yếu trong quá 
trình phát triển của xã hội loài người. Ông 
Buri, một nhà nghiên cứu kinh tế, chính trị 
người Đức, sau khi đúc kết từ thực tiễn đã 
khẳng định rằng: “Bất cứ một xã hội nào 
cũng đều tồn tại thị trường, không có xã hội 
không tồn tại thị trường”(12). Sự phôi thai 
của kinh tế thị trường cũng được nhìn nhận 
là đã xuất hiện ở ngay thời kỳ đầu của nền 
văn minh nhân loại. C. Mác đã viết rằng: 
“Sự trao đổi các sản phẩm phát sinh ở 
những điểm tiếp xúc giữa các gia tộc, thị 
tộc, cộng đồng khác nhau, vì ở thời kỳ đầu 
của nền văn minh không phải là những cá 
nhân riêng biệt, mà là các gia tộc, thị tộc, 
(8) V.I.Lênin (1978), Toàn tập, t.30, Nxb Tiến bộ, 
Mátxcơva, tr.160. 
(9) Sđd, t.34, tr.152-153. 
(10) Sđd, t. 41, tr. 93. 
(11) Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, tr.496. 
(12) (2006), “Phát triển và sáng tạo: Chủ nghĩa xã hội 
thế giới ở đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Thông tin công 
tác tư tưởng lý luận, số 4, tr.53. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 
 6 
v.v.. mới tiếp xúc với nhau như những đơn 
vị độc lập”(13); rằng: “Sự chuyển hóa sản 
phẩm thành hàng hóa là kết quả của sự trao 
đổi giữa các công xã khác nhau, chứ không 
phải giữa những thành viên của cùng một 
công xã”(14). 
Nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự 
là hai mặt đối lập xuất hiện vào thế kỷ thứ 
XVIII cùng với việc diễn ra các cuộc cách 
mạng tư sản - cách mạng đem lại nhiều tiến 
bộ xã hội trong xã hội tư bản chủ nghĩa, 
nhất là vào thời kỳ hiện đại, so với xã hội 
phong kiến và xã hội nô lệ. Xã hội nô lệ và 
xã hội phong kiến trước đó được nhìn nhận 
ở hai mặt đối lập trong quá trình phát triển 
của xã hội loài người: các nhà nước “thống 
trị” và các xã hội “bị trị”. 
Kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền 
và xã hội dân sự ở các quốc gia phát triển 
hiện đại chính là các vấn đề mang tính phổ 
biến trong quá trình phát triển khách quan 
tất yếu, theo xu hướng ngày càng tiến bộ 
của xã hội loài người. Mục tiêu của các 
quốc gia đó đều hướng tới xây dựng các xã 
hội có tự do, bình đẳng và bác ái... Đồng 
thời, ở các quốc gia phát triển hiện đại này 
cũng có những nét mang tính đặc thù riêng 
trong quá trình phát triển cả về mặt kinh tế 
và chính trị. Chẳng hạn, về kinh tế, có quốc 
gia thiên về phát triển kinh tế thị trường tự 
do (tự do mới), có quốc gia lại thiên về kinh 
tế thị trường xã hội, có quốc gia kết hợp cả 
hai yếu tố đó. Về chính trị, có quốc gia 
thiên về xây dựng chính thể theo mô hình 
đại nghị với quyền hành pháp và quyền lập 
pháp gắn kết với nhau, quyền lực chính trị 
tập trung trong tay thủ tướng; có quốc gia 
thiên về mô hình tổng thống, nơi quyền 
hành pháp và quyền lập pháp tách biệt 
nhau, quyền hành pháp tập trung trong tay 
tổng thống; có quốc gia lại thiên về mô hình 
hỗn hợp (lưỡng tính), nơi cả tổng thống và 
thủ tướng đều có quyền hành pháp. 
3. Thực tiễn qua những năm xây dựng xã 
hội xã hội chủ nghĩa thời kỳ đổi mới cho 
thấy, đất nước ta tuy có những bước phát 
triển đáng kể về mặt kinh tế, xã hội nhưng 
nhìn chung sự phát triển đó còn thấp và 
chậm so với nhiều nước quanh ta, nhất là về 
chất lượng phát triển cũng như sự bền vững 
của sự phát triển đó. Đặc biệt sự đổi mới về 
lĩnh vực chính trị có phần chưa tương xứng 
với đổi mới trong lĩnh vực kinh tế. Bởi thể 
chế chính trị hiện nay vẫn mang nặng các 
yếu tố gắn với thể chế kinh tế cũ, chưa đáp 
ứng theo các yếu tố mới mang tính phổ biến 
phù hợp với yêu cầu xây dựng nhà nước 
pháp quyền và xã hội dân sự. Đây có thể 
được coi là nguyên nhân chủ yếu làm kém 
hiệu quả việc kiểm soát đối với sự tha hóa 
của quyền lực dẫn tới tình trạng quan liêu, 
tham nhũng, lãng phí khá nhiều trong điều 
kiện phát triển nền kinh tế thị trường; đồng 
thời còn làm cho sự phát triển thiếu ổn định 
và bền vững. (13) 
Hiện nay chúng ta vẫn chủ yếu dựa trên 
nền tảng lý luận về hình thái kinh tế - xã hội 
của các nhà kinh điển Mác - Lênin để xây 
dựng thể chế kinh tế và chính trị. Trong khi 
đó, cách tiếp cận sự phát triển của xã hội 
loài người theo hình thái này đang bộc lộ 
những khiếm khuyết, không còn phù hợp 
với thực tiễn. Bởi theo cách tiếp cận này, 
thì hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa mà 
giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa 
phải là xã hội trong đó có lực lượng sản 
xuất (năng suất lao động) cao hơn so với xã 
hội tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, thực tiễn 
lại cho thấy, năng suất lao động trong xã 
hội xã hội chủ nghĩa giai đoạn đầu hiện 
nay, hay ở Liên Xô và các nước Đông Âu 
trước đây đều luôn thấp hơn các nước tư 
(13) C. Mác và Ph. Ăngghen (1994), Toàn tập, t.23, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.510 - 511. 
(14) Sđd, t.25, tr.270. 
Tính phổ biến và tính đặc thù... 
 7 
bản chủ nghĩa phát triển cùng thời điểm. 
Hơn nữa, xã hội tư bản chủ nghĩa (thực hiện 
chế độ tư hữu là chủ yếu) và xã hội xã hội 
chủ nghĩa (thực hiện chế độ công hữu là 
chủ yếu) chỉ là hai mặt đối lập về cách nhìn 
nhận, quan điểm sử dụng các công cụ - 
“công hữu” và “tư hữu” - ở mỗi quốc gia 
trong quá trình phát triển. Điều đó đã chỉ ra 
rằng, “mục tiêu” đạt tới xã hội xã hội chủ 
nghĩa mà các nhà kinh điển Mác - Lênin 
xác định ban đầu đã chưa được phân tích 
sâu sắc, nhìn nhận rõ. Trong khi đó, những 
người kế thừa di sản lại đã không có những 
phát triển sáng tạo để nhận thức rõ, vận dụng 
đúng đắn các quan điểm. Mục tiêu xã hội xã 
hội chủ nghĩa khi đạt được là “không còn 
giai cấp”, “công hữu hóa” toàn bộ nền kinh 
tế dường như đã được coi là “phương tiện”, 
“công cụ” để đạt tới chính mục tiêu đó, tức 
là đã có sự nhầm lẫn giữa “mục tiêu” và 
“con đường” (cách thức) đạt tới mục tiêu. 
Ngoài ra, hiện nay những vấn đề mang 
tính phổ biến, đặc biệt là những vấn đề 
mang tính đặc thù của con đường đi lên xã 
hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta cũng chưa 
được nhận thức và vận dụng một cách sáng 
tạo phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn của đất 
nước. Chẳng hạn như các vấn đề về truyền 
thống đoàn kết, sự khoan dung và tính cộng 
đồng của dân tộc Việt Nam đã chưa được 
đánh giá đúng mức và phát huy cao độ 
trong điều kiện mới, khi thực hiện phát triển 
nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước 
pháp quyền và xã hội dân sự. Đây được coi 
là nguyên nhân có thể đã dẫn đến sự đoàn 
kết còn mang tính “xuôi chiều”, chứ chưa 
đạt tới sự đoàn kết “thật sự” (chân thực, 
chân chính) như một “nghệ thuật chính trị” 
mà lúc sinh thời, Hồ Chí Minh đã nói đến. 
4. Con đường đi lên xã hội xã hội chủ 
nghĩa là xu hướng tất yếu của lịch sử xã hội 
loài người. Cương lĩnh của Đảng đã xác định 
rõ: “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài 
người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã 
hội”(15). Để thực hiện con đường đi lên xã 
hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, điều quan 
trọng hiện nay là cần phải có sự tiếp tục vận 
dụng, kết hợp một cách đúng đắn tính phổ 
biến và tính đặc thù của con đường đó. 
Dưới đây chúng tôi xin đưa ra một số yêu 
cầu mang tính giải pháp chủ yếu như sau: 
Thứ nhất, về mặt quan điểm lý luận, cần 
kết hợp, giải quyết một cách hài hòa các 
yếu tố mang tính phổ biến và đặc thù trong 
quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. 
Trước hết, đó là kết hợp, giải quyết một 
cách hài hòa giữa hai mặt đối lập là lý luận 
và thực tiễn để từ đó đạt tới chân lý như các 
nhà kinh điển Mác - Lênin đã chỉ rõ; cần 
nhận thức và thực hành theo tư tưởng Hồ 
Chí Minh: “Không chú trọng đến đặc điểm 
của dân tộc mình trong khi học tập kinh 
nghiệm của các nước anh em, là sai lầm 
nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều. 
Nhưng nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân 
tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những 
kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh 
em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của 
chủ nghĩa xét lại. Vì vậy, song song với 
việc nhấn mạnh sự quan trọng của học tập 
lý luận, chúng ta phải luôn luôn nhấn mạnh 
nguyên tắc lý luận liên hệ với thực tế”(16). 
Ngoài ra, cần có sự đổi mới phương pháp 
luận trong việc nhìn nhận sự phát triển của 
xã hội loài người từ cách tiếp cận các hình 
thái kinh tế - xã hội sang cách tiếp cận “quy 
luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt 
đối lập” mà các nhà kinh điển Mác - Lênin 
đã nêu ra. 
Thứ hai, về mặt thực tiễn trong lĩnh vực 
kinh tế, cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện 
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại 
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, tr.69. 
(16) Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, tr.499. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 
 8 
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội 
chủ nghĩa. 
Yêu cầu mang tính giải pháp này đòi hỏi 
phải có sự nhận thức và xác định rõ hơn 
mục tiêu của xã hội xã hội chủ nghĩa mà 
chúng ta đang xây dựng. Theo đó, mục tiêu 
cốt lõi lâu dài của xã hội đó cần phải được 
xác định rõ và nhất quán là “dân giàu, nước 
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Từ 
mục tiêu lâu dài này cần xác định rõ các 
mục tiêu trước mắt, mục tiêu ngắn hạn, dài 
hạn khác nhau trong quá trình xây dựng xã 
hội xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, cần phân 
biệt rõ các khái niệm “xã hội xã hội chủ 
nghĩa” và “chủ nghĩa xã hội”. Xã hội xã hội 
chủ nghĩa về thực chất cần phải được hiểu 
là mục tiêu lâu dài với những tiêu chí, yêu 
cầu cụ thể, rõ ràng đối với xã hội cần phải 
đạt tới; đồng thời, trong mục tiêu đó lại 
phải xác định các mục tiêu trước mắt, mục 
tiêu chung, cụ thể, ngắn hạn, dài hạn khác 
nhau. Còn chủ nghĩa xã hội về thực chất là 
chủ yếu nói tới các quan điểm về xác định 
con đường, cách thức để đạt tới các mục 
tiêu. Xác định rõ các vấn đề này là cơ sở 
cực kỳ quan trọng để xây dựng các thể chế 
kinh tế, chính trị, xác định đường lối, chính 
sách phù hợp, đáp ứng với yêu cầu để hiện 
thực hóa trong thực tiễn các mục tiêu đặt ra. 
Thứ ba, về mặt thực tiễn trong lĩnh vực 
chính trị, cần xây dựng và hoàn thiện, đồng 
thời kết hợp giải quyết một cách hài hòa 
các yếu tố mang tính phổ biến và đặc thù 
giữa hai mặt đối lập là nhà nước pháp 
quyền và xã hội dân sự. 
Cần tham khảo kinh nghiệm xây dựng 
nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự ở các 
quốc gia trên thế giới có nhà nước pháp 
quyền hoàn thiện hiện nay. Trên cơ sở đó 
xác định rõ, áp dụng hợp lý mô hình chính 
thể (cộng hòa tổng thống, cộng hòa đại nghị 
hay cộng hòa lưỡng tính...) phù hợp với thực 
tiễn Việt Nam. Đồng thời, cần xây dựng nhà 
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và 
xã hội dân sự thích hợp với điều kiện có 
Đảng cầm quyền là “đảng của toàn dân”(17); 
có sự hiện diện của Mặt trận Tổ quốc Việt 
Nam - một tổ chức chính trị, xã hội đặc thù, 
tổ chức liên minh rộng lớn, tập hợp mọi tổ 
chức, mọi lực lượng trong xã hội, biểu tượng 
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong 
công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa. 
Tài liệu tham khảo 
1. (2000), Hội thảo khoa học Trung - Việt: Chủ 
nghĩa xã hội - cái phổ biến và cái đặc thù, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
2. Nguyễn Hữu Đổng (2010), “Tính phổ biến và 
tính đặc thù của kinh tế thị trường định hướng xã hội 
chủ nghĩa”, Tạp chí Lý luận chính trị, số 01. 
3. Nguyễn Hữu Đổng - Phạm Thế Lực (Đồng 
chủ biên) (2013), Tính phổ biến và đặc thù của con 
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
4. Nguyễn Hữu Đổng (2014), “Đổi mới phương 
thức lãnh đạo của Đảng trong tổ chức Mặt trận và xã 
hội giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Mặt trận, số 127 
(tháng 5). 
5. Nguyễn Hữu Đổng (2014), “Tư tưởng Hồ Chí 
Minh về “Chính trị là đoàn kết””, Tạp chí Mặt trận, 
số 128 (tháng 6). 
6. Nguyễn Hữu Đổng (2014), “Bàn thêm về khái 
niệm “Đảng lãnh đạo” ở nước ta”, Tạp chí Lý luận 
chính trị và Truyền thông, số 6. 
7. Nguyễn Hữu Đổng (2014), “Đổi mới phương 
thức cầm quyền của Đảng đáp ứng yêu cầu xây dựng 
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí 
Nghiên cứu Lập pháp, số 16 (tháng 8). 
8. Nguyễn Hữu Đổng (2014), “Khéo lãnh đạo: 
nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa 
lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”, Tạp chí Khoa học 
xã hội Việt Nam, số 10. 
9. Nguyễn Hữu Đổng (2014), “Vấn đề bảo đảm 
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong cơ 
chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân 
làm chủ””, Tạp chí Mặt trận, số 133 (tháng 11). 
(17) Sđd, t.7, tr.231. 
Tính phổ biến và tính đặc thù... 
 9 

File đính kèm:

  • pdftinh_pho_bien_va_tinh_dac_thu_cua_con_duong_di_len_xa_hoi_xa.pdf