Tinh thần nhập thế trong tư tưởng phật giáo của Trần Nhân Tông

Tóm tắt Tinh thần nhập thế trong tư tưởng phật giáo của Trần Nhân Tông: ...nh cao trong công cuộc dựng nước và giữ nước bằng lý tưởng Phật giáo. Dưới triều đại ông, chẳng những xã tắc ổn định, lòng dân vững bền, trung hiếu, mà Phật quốc cũng phát triển rực rỡ. Tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân Tông không chỉ dừng lại ở “tại thế gian gi...ên” nơi trần tục. Chính sự vận dụng khéo léo, linh hoạt đó đã đem lại cho vua quan nhà Trần (thời Trần Nhân Tông) sức mạnh tinh thần để thu phục lòng người một cách hiệu quả. Đó là cách sử dụng tiềm năng của Phật giáo để phục vụ chính trị. Sự xuất gia của nhà vua cũng như những năm hàn... thửa nhân nghì, ba phiến ngói yêu hơn lầu gác; Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca”(9). Như vậy, nhân, nghĩa, hiếu, trung là những nguyên lý cơ bản nhất của nền đức trị Nho giáo đã được Trần Nhân Tông khéo léo vận dụng trở thành các phạm trù của đạo đức Phật giáo, v...

pdf8 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 198 | Lượt tải: 1download
Nội dung tài liệu Tinh thần nhập thế trong tư tưởng phật giáo của Trần Nhân Tông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộng 
các công trình thuỷ lợi, chia lại ruộng đất 
cho dân, khuyến khích học hành, thi cử, 
tuyển chọn nhân tài, đại xá cho tất cả 
những người phạm tội... Để tôn vinh sự 
đóng góp sức người, sức của to lớn của 
quân dân Đại Việt trong hai cuộc kháng 
chiến, Trần Nhân Tông cho chép sử 
“Trung hưng thực lực” và vẽ tượng các 
tướng lĩnh, vương hầu có nhiều công lao. 
Với những người từng có tư tưởng hàng 
giặc, nhà vua cũng khoan thứ, lệnh cho đốt 
hết những tờ biểu tư thông với giặc để xoá 
bỏ mọi hiềm nghi, nhằm tập hợp mọi 
người chung sức xây dựng đất nước. 
Suốt thời gian trị vì trên ngai vàng, ta 
thấy Trần Nhân Tông đã có những hành xử 
thể hiện sâu sắc giáo lý đạo Phật và ứng 
dụng rất linh hoạt vào công cuộc trị quốc, 
an dân cả trong chiến tranh cũng như lúc 
hòa bình. Có lẽ chính bởi thấy được vai trò 
nhập thế của Phật giáo, nên Người đã quyết 
định nhường ngôi cho con, lên núi Yên Tử 
thành lập Thiền phái Trúc Lâm và thống 
nhất Phật giáo Đại Việt với tư cách Quốc 
giáo chính thức. Đây là chiến lược rất khôn 
ngoan của ông. Từ đây, ông tiếp tục vận 
dụng Phật giáo để giáo hóa vua, quan, dân 
nhà Trần sống “tốt đời, đẹp đạo”. Không 
chỉ vậy, từ vị trí này, ông đã có những chiến 
lược ngoại giao mới nhằm mở mang bờ cõi 
đất nước.(1) 
Năm 1301, Nhân Tông vân du Chiêm 
Thành trên cương vị một Thiền sư, nhưng 
vượt lên trên vai trò của một nhà truyền 
giáo, ông còn vì mục đích thiết lập quan hệ 
bang giao Việt - Chiêm. Tại đây, ông đã 
hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua 
Chiêm để giữ tình hữu hảo lâu bền. Mặc dù 
gặp sự chống đối của hầu hết triều đình, chê 
cười ông đã mang cô con gái duy nhất của 
mình gả cho vua Chiêm - một tên “mọi”, 
một giống người “hạ cấp”, nhưng ông 
không thay đổi lời hứa của mình. Hành 
động của ông không những thể hiện tư 
tưởng “bình đẳng về con người”, mà còn 
thể hiện rõ tấm lòng vì dân, vì nước. Vua 
Chiêm đã đem dâng hai châu Ô và Lý làm 
sính lễ. Việc sáp nhập hai châu Ô, Lý vào 
bản đồ Đại Việt một cách hoà bình mà 
(1) Viện Triết học (2004), Lịch sử tư tưởng Việt Nam 
văn tuyển, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 
tr.102. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(94) - 2015 
 88 
không tốn một hòn tên mũi đạn đã thể hiện 
cái nhìn chiến lược của một nhà quân sự 
thiên tài Trần Nhân Tông. Sách lược của 
ông đã đem lại những thành quả chính trị, 
ngoại giao và an ninh to lớn trong hoà bình. 
Trần Nhân Tông đã rất khéo léo sử dụng 
Phật giáo trong chiến lược ngoại giao. Dưới 
con mắt của ông, Phật giáo không chỉ là 
một học thuyết tôn giáo đơn thuần. Vì vậy, 
dưới bàn tay của một nhà chính trị sắc sảo 
như ông, Phật giáo đã được sử dụng rất linh 
hoạt không chỉ trong việc giữ vững nền ổn 
định chính trị trong nước, mà còn trong khu 
vực, đem lại lợi ích chính trị và hòa bình 
cho Đại Việt. 
Tư tưởng nhập thế của Trần Nhân Tông 
là kết hợp lý tưởng Phật quốc và lý tưởng 
đất nước. Vì vậy, xuất gia hay tại gia với 
ông không quan trọng, mà quan trọng là 
hiểu và đem giáo lý Phật giáo vào ứng dụng 
nhằm giải quyết các vấn đề của cuộc đời 
như thế nào. Có thể nói, ông đã đạt được 
đỉnh cao trong công cuộc dựng nước và giữ 
nước bằng lý tưởng Phật giáo. Dưới triều 
đại ông, chẳng những xã tắc ổn định, lòng 
dân vững bền, trung hiếu, mà Phật quốc 
cũng phát triển rực rỡ. Tinh thần nhập thế 
trong tư tưởng Phật giáo của Trần Nhân 
Tông không chỉ dừng lại ở “tại thế gian 
giác”, mà còn là “giúp thế” có hiệu quả và 
tích cực: “Sống không giúp thế trượng phu 
buồn”(2). Ông cho rằng, sống mà không làm 
gì cho đời là điều đáng hổ thẹn. Vì vậy: 
“Đừng để tầm thường xuân luống qua”(3). 
Ta thấy ông là vị vua, nhưng tâm luôn 
hướng về Phật; ông là tu sĩ mà luôn nghĩ 
đến vận nước. Vua và Phật, đạo và đời, tôn 
giáo với dân tộc đã hòa quện trong con 
người Trần Nhân Tông. 
Trần Nhân Tông đã diễn tả triết lý, cách 
sống nhập thế một cách sinh động trong 
“Cư trần lạc đạo” (ở đời mà vui đạo). Đó là 
quan điểm của một vị vua, đồng thời là một 
lãnh tụ Phật giáo về đạo và đời từ tầm nhìn 
của triết lý Phật giáo. Ông đã kết hợp hài 
hòa chính trị - tôn giáo khi kêu gọi các quan 
lại trong triều “phải dùng mười điều thiện 
để làm “Quốc pháp”, làm “Quốc chính”. 
“Triều đình Đại Việt đã sống theo tinh thần 
“cư trần lạc đạo” và mở ra một phong trào 
phật tử cư sĩ trong triều đình nhà Trần”(4). 
Trần Nhân Tông đã phát triển Phật giáo để 
khơi dậy trách nhiệm với đời. Người đề cao 
tính nhập thế của Phật giáo, gắn đạo với đời 
qua phương châm “cư trần lạc đạo”, chan 
hòa trên dưới (“hòa quang đồng trần”). Khi 
đạo được đưa vào đời để thực nghiệm, được 
hành xử trong đời, thì đạo mới hoàn thành 
được chức năng cao cả của nó. Và cũng 
chính bởi dựa trên nhận thức ấy mà trong 
đường hướng lãnh đạo muôn dân của ông, 
“thế quyền” và “thần quyền” đã nhập làm 
một, đạo và đời không còn ranh giới. 
Nếu như ở vùng đất Ấn Độ xa xôi có vua 
Asoka giác ngộ giữa trận chiến đẫm máu 
Lalinga mà từ bỏ binh đao, dùng đạo đức 
Phật giáo để giảng cho dân chúng, thì vua 
Nhân Tông không phải đợi sau khi trải qua 
hai cuộc chiến chống Nguyên Mông đầy ác 
liệt và gian khổ mới đủ để thể nghiệm ý 
nghĩa sinh tử, vô thường, mộng mị của 
nhân tình thế thái. Song, “lửa thử vàng, 
gian nan thử sức”, có qua chiến tranh gian 
khổ với bao mất mát đau thương mới tràn 
đầy thiện tâm khoan dung, lòng từ bi trỗi 
dậy. Người quyết định từ bỏ danh sắc, lợi 
lộc trần thế, quyết tâm sống cuộc đời đạo 
(2) Lê Mạnh Thát (2000), Toàn tập, Trần Nhân Tông, 
Nxb Tp. Hồ Chí Minh, tr.384. 
(3) Sđd, tr.398. 
(4) Sđd, tr.202 - 209. 
Tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo... 
 89 
hạnh và xây dựng kỷ cương, đạo đức cho xã 
hội, lấy lời Phật dạy làm lý tưởng. 
Tuy Trần Nhân Tông rất đề cao Phật 
giáo, nhưng ông luôn cởi mở, tôn trọng và 
tiếp thu các tôn giáo và học thuyết khác trên 
cơ sở Thiền Phật giáo. Bên cạnh Phật giáo 
được suy tôn làm quốc giáo, thì Nho giáo 
và Lão giáo cũng rất phát triển. Đây chính 
là sự gắn bó, hòa hợp của hai thực thể, giữa 
một bên là phần đời được ràng buộc bởi thể 
chế chính trị của Nho giáo và một bên là 
phần đạo với tinh thần từ, bi, hỉ xả của đạo 
Phật. Trần Nhân Tông đã hài hòa gắn kết 
khéo léo cả hai thực thể này: “Lo hoán cốt 
ước phi thăng, đan thần mới phục; Nhắm 
trường sinh, về thượng giới, thuốc thơ còn 
đan; Sách dịch xem chơi, yêu tính sáng hơn 
yêu châu báu; Kinh nhàn đọc dấu, trọng 
lòng rồi trọng nữa hoàng kim”(5). 
Nếu sách Dịch cung cấp cho ông hiểu 
biết và hành động sáng suốt xứng tầm của 
một ông vua anh minh, thì kinh Phật giúp 
ông đạt tới cái Tâm trong sáng mà ông gọi 
là Lòng. Cái Tâm sáng (của Phật) và tính 
sáng (của Nho) đều được ông hiểu sâu sắc 
và tiếp thu để hoàn thành sứ mệnh của một 
ông vua (một chính trị gia), một lãnh tụ 
Phật giáo (tôn giáo). Cái Tâm sáng, tính 
sáng ấy được ông quý hơn vàng bạc châu 
báu, giúp ông sống thanh thản tự tại giữa 
đời thường. “Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai 
hay chẳng Thích Ca; Cầm giới hạnh, đoạn 
ghen tham, chỉn thực ấy là Di Lặc”(6). 
Tuy mục đích cuối cùng có khác nhau về 
đạt đạo, song hơn ai hết, Trần Nhân Tông 
hiểu sâu sắc rằng: con đường tu thân sửa 
mình của bất kỳ học thuyết nào cũng đều 
phải thực hiện bằng những điều răn giới. Vì 
vậy, với tư cách là một lãnh tụ chính trị, 
ông rất khéo léo kết hợp tam giáo trong 
đường lối, sách lược trị quốc trên cơ sở của 
Thiền Phật giáo. Sự tổng kết giáo lý “cư 
trần lạc đạo” của ông là để xây dựng một 
triều đại bằng Phật giáo, nhưng tiếp thu linh 
hoạt các học thuyết Nho và Đạo. Sự chi 
phối của mối quan hệ tam giáo làm tinh 
thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo của 
Trần Nhân Tông càng được nâng cao hơn 
nữa, từ đó kéo theo tính tự do tự tại trong 
đời sống trần tục. Tính tự do tự tại ấy đã 
làm cho hoạt động thực tiễn của ông đạt 
đến vô vi theo tinh thần Thiền Phật giáo 
bằng tâm thế sống “tùy duyên” nơi trần tục. 
Chính sự vận dụng khéo léo, linh hoạt đó đã 
đem lại cho vua quan nhà Trần (thời Trần 
Nhân Tông) sức mạnh tinh thần để thu phục 
lòng người một cách hiệu quả. Đó là cách 
sử dụng tiềm năng của Phật giáo để phục vụ 
chính trị. Sự xuất gia của nhà vua cũng như 
những năm hành đạo trong dân gian của 
ông đã khiến cho Thiền phái Trúc Lâm trở 
nên một lực lượng tôn giáo hùng mạnh yểm 
trợ cho triều đại.(5) 
Vua Trần Nhân Tông đã làm cho lòng 
người trong thiên hạ quy thuận về một mối 
thống nhất mà không sinh lòng phản trắc; 
hướng con người tới những giá trị chân, 
thiện, mỹ của Phật giáo, nhưng luôn kết 
hợp với trị quốc dựa trên nền tảng của Nho 
giáo. Nhờ vậy, thời nhà Trần đã hội tụ được 
những tướng sĩ tài ba thao lược, dân và 
quân một lòng, đồng tâm hiệp lực. Tinh 
thần ấy không những đã làm nên một bản 
lĩnh chiến đấu, mà còn làm nền tảng cho 
một đường lối chính trị, ngoại giao mềm 
dẻo, đức độ, cao thượng, tạo nên sức mạnh 
tổng hợp của cả dân tộc. 
(5) Viện Triết học (2004), Lịch sử tư tưởng Việt Nam 
văn tuyển, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 
tr.103. 
(6) Sđd, tr.108. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(94) - 2015 
 90 
2. Nhập thế của Phật giáo trong giáo 
dục đạo đức, văn hóa 
Trong quá trình hội nhập và phát triển, 
Phật giáo đã có nhiều đóng góp cho nền 
chính trị, văn hóa, đạo đức, nghệ thuật ở 
Việt Nam. Dưới thời Trần nói chung và vua 
Trần Nhân Tông nói riêng, Phật giáo không 
chỉ trở thành nhu cầu tinh thần, tâm linh, 
mà đã gánh vác trọng trách đoàn kết nhân 
tâm, thu phục lòng người trước những sứ 
mệnh lớn lao của dân tộc. Phật giáo còn 
góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân, lành 
mạnh hóa quan hệ xã hội, hoàn thiện một 
lối sống thuần hậu của dân tộc Đại Việt. 
Năm Giáp Thìn (1304), Tổ Trúc Lâm 
đích thân đi giảng đạo trong nhân gian, 
khuyên dân chúng giữ ngũ giới và tu thập 
thiện. Người thấy được cái lợi chính trị của 
việc đưa Phật giáo vào nhân gian, vì xây 
dựng con người cá nhân tốt, thì gia đình tốt; 
gia đình tốt thì quốc gia tốt. Người luận 
giảng: không sát sinh; không trộm cắp; 
không tà dâm; không nói dối; không uống 
rượu... Người dân trong nước đều giữ được 
năm giới thì đất nước trật tự, thái bình, dân 
chúng vui vẻ hát ca, không phải lo sợ. Vua 
Nhân Tông còn khuyên người dân nên tu 
thập thiện: Thân không sát sinh, không 
trộm cắp, không tà dâm; Miệng không nói 
dối, nói hai lưỡi, nói hung dữ, nói thêu dệt; 
Ý bớt nóng giận, tham lam, si mê. Thân, 
Miệng, Ý tu mười điều lành sẽ trở thành 
hiền nhân. Phật tử tu ngũ giới và thập thiện, 
tức là đóng góp một phần cho quốc gia, xã 
hội tốt đẹp, an vui, chuyển cảnh khổ thành 
cảnh vui, chuyển con người phàm tục thành 
con người thánh thiện. 
Trần Nhân Tông “vân du hành đạo” để 
khuyên người dân thực hành ngũ giới và 
thập thiện, đã dùng Phật giáo để đi sát vào 
việc cải tạo xã hội, chuyển đổi nhận thức con 
người, làm cho xã hội dần được an ổn, người 
dân sẽ suy nghĩ về điều thiện và hành động 
việc thiện. Như vậy, Phật giáo nhập thế thì 
xã hội sẽ dần chuyển hóa từ gốc rễ, và như 
vậy giáo lý của đạo Phật làm cơ bản cho nền 
đạo đức xã hội. Chính sách dùng Phật pháp 
để an dân (mà trước đó hơn một ngàn năm 
đã được ghi vào kinh “Lục độ tập” của 
Khương Tăng Hội) được ông dùng làm 
“chuẩn mực đạo đức” nhằm đem lại sự an 
bình cho xã hội với mục đích: “Rèn lòng làm 
Bụt, chỉn xá tua một sức giồi mài; Đãi cát 
kén vàng, còn lại phải nhiều phen lựa lọc”(7). 
Người luôn ý thức giữ gìn nguồn tâm trong 
sáng hơn cả quyền uy tối thượng, khai thác 
nguồn tâm trong sáng của chính mình có lợi 
nhất cho mình và tha nhân. Phật giáo đã đáp 
ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của người 
Việt trong bối cảnh lịch sử cả dân tộc độc 
lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, 
chính trị đến văn hóa, giáo dục, và nhất là cả 
dân tộc ra sức chấn hưng xây dựng và phát 
triển mọi giá trị văn hóa truyền thống. 
Trần Nhân Tông đã đề cập rất sâu sắc 
đến những giá trị đạo đức của Phật giáo 
như: “Dứt trừ nhân ngã”, “hết tham sân”, 
“biết chân như”, “săn hỷ xả, nhuyễn từ bi”... 
Đó là những nguyên tắc làm người cao cả 
của đạo Phật và cũng là những chuẩn mực 
đạo đức chung mà xã hội Việt Nam cần; 
nhưng, bên cạnh đó, ông không quên đưa 
đạo làm người của Nho giáo, một đạo làm 
người mang tính nhập thế, vào tiêu chuẩn 
đạo lý: “Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ 
mới trượng phu trung hiếu; Học đạo làm 
thầy, dọt xương óc chưa thông của báo; 
Vâng ơn thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học 
đạo; Nghĩa hãy nhớ, đạo chẳng quên, 
hương hoa cúng xem còn nên thảo”(8). 
Ngoài ra, ông còn nhấn mạnh tư tưởng nhân 
(7) Sđd, tr.116. 
(8) Sđd, tr.113 - 115. 
Tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo... 
 91 
nghĩa đối với con người: “Dầu hay mến 
thửa nhân nghì, ba phiến ngói yêu hơn lầu 
gác; Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này 
chẳng Thích Ca”(9). 
Như vậy, nhân, nghĩa, hiếu, trung là 
những nguyên lý cơ bản nhất của nền đức 
trị Nho giáo đã được Trần Nhân Tông khéo 
léo vận dụng trở thành các phạm trù của 
đạo đức Phật giáo, và được ông coi là 
nguyên lý tu tập, thực hành của con người, 
của Thiền phái Trúc Lâm. Đây là điểm 
dung hòa đặc sắc giữa hành Thiền Trúc 
Lâm và Nho học, tạo lập nên cơ sở, điều 
kiện để thiền giả thực hành phương châm 
“cư trần lạc đạo” mang tính thiền phóng 
khoáng mà đầy trách nhiệm cuộc đời. 
Đạo đức của Phật giáo và đạo đức của 
Nho giáo vốn khác nhau, nhưng Trần Nhân 
Tông đã vận dụng hai đạo đức đó cho cùng 
một mục đích cao cả, khiến chúng không 
những không chống đối nhau mà còn hỗ trợ 
cho nhau để trở thành một đạo đức hoàn 
thiện hơn, phù hợp với yêu cầu xã hội Đại 
Việt lúc bấy giờ. Đó là quan điểm giáo dục 
nhập thế của vua Trần Nhân Tông cũng như 
của Phật giáo Đại Việt đời Trần. Mẫu người 
lý tưởng được giáo dục toàn diện cả kinh 
nhà Phật và kinh điển nhà Nho, coi đó như 
hai nguồn tri thức bổ trợ, tương hỗ lẫn nhau 
vì mục tiêu xây dựng và phát triển xã hội. Ở 
thời ông, sự hòa quyện của tam giáo đã tạo 
thành con người đạo đức Việt Nam có dấu 
ấn từ, bi, hỉ, xả của Phật giáo, ý thức trách 
nhiệm cộng đồng của Nho giáo và sự tiêu 
dao thoát tục, coi nhẹ lợi danh của Lão 
giáo. Với tinh thần nhập thế cởi mở và khai 
phóng như vậy, Trần Nhân Tông đã khiến 
Thiền phái Trúc Lâm trở thành cầu nối giữa 
triều đình và nhân dân. Thiền học của ông 
không chỉ dành riêng cho một tầng lớp quý 
tộc trong triều đình, mà đã thực sự mở ra 
cho tất cả mọi người, phù hợp với nhu cầu 
của xã hội Đại Việt lúc đó. 
Như vậy, nhập thế theo tinh thần của 
Trúc Lâm Đầu Đà là đã kết hợp được hai 
yếu tính quan trọng của đạo Phật là từ bi và 
trí tuệ. Nếu chỉ có tâm từ bi thôi thì chưa 
đủ, mà con người cần phải trau dồi tri thức 
để có một trí tuệ bát nhã có thể thấu tỏ mọi 
việc, hành động sáng suốt và đem thánh trí 
đó phục vụ Quốc gia, dân tộc đưa đến hạnh 
phúc an vui cho quần sinh. Do “Đạo” và 
“đời” trong quan niệm của Trúc Lâm không 
có sự ngăn ngại. Trần Nhân Tông lăn lộn 
giữa đời và càng sáng rực giữa thế tục đầy 
hệ lụy đó. Nguyễn Đăng Thục đã nhận 
định: “Nhân Tông không chủ trương xuất 
thế để cầu giác ngộ, trái lại muốn giác ngộ, 
Ngài đòi hỏi phải lấy cuộc đời nhân quần 
xã hội làm kinh nghiệm thử thách, từng trải 
mà giải thoát, chứ không trầm mặc tư 
tưởng”(10). Tinh thần “vui đạo tùy duyên” 
mà Trần Nhân Tông đưa ra trong bài phú 
“Cư trần lạc đạo” đã thể hiện tính chất đại 
chúng của Phật giáo, rằng tất cả đều có thể 
theo đuổi con đường giải thoát ở mọi nơi, 
mọi lúc, chứ không chỉ ở những nơi tu hành 
nghiêm trang, chẳng chút bụi trần, dù xuất 
gia hay tại gia, dù trong chùa hay ở ngoài 
đời, miễn là biết tu tập, cải tạo tâm từ ác 
chuyển thành thiện, từ xao động chuyển 
thành bình lặng, định tĩnh, biết phá trừ vô 
minh, tham dục thì đều đi đến giác ngộ. 
Về mặt ngôn ngữ, Trần Nhân Tông là 
một trong rất ít người đi tiên phong trong 
việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc (chữ Nôm) 
kể cả trong văn bản triều chính và trong 
sáng tác văn học. Đây không phải ngẫu 
nhiên, mà là thể hiện tính thống nhất giữa 
tư tưởng và hành động của Trần Nhân Tông 
trong sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc. Là 
(9) Sđd, tr.104 - 108. 
(10) Nguyễn Đăng Thục (1990), Lịch sử tư tưởng Việt 
Nam, t.4, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, tr.254. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(94) - 2015 
 92 
người lãnh đạo dân tộc trong một giai đoạn 
lịch sử đầy cam go và ác liệt trước một đội 
quân Mông Nguyên hung bạo, Trần Nhân 
Tông ý thức sâu sắc rằng, việc bảo vệ độc 
lập dân tộc không tách rời với việc xây 
dựng và phát huy chiều sâu của nền văn hóa 
dân tộc. Đồng thời, với việc sử dụng chữ 
Nôm như một ngôn ngữ thông dụng, Trần 
Nhân Tông đã truyền tải tư tưởng đạo đức 
Phật giáo dễ dàng, thuận tiện hơn trong 
quần chúng nhân dân. Đó cũng là cách Việt 
Nam hóa giáo lý Phật giáo. Ở đây, ta thấy 
tư tưởng nhập thế của Trần Nhân Tông còn 
được thể hiện qua ngôn ngữ. Nhập thế bằng 
cách hòa nhập, phổ cập vào tầng lớp nhân 
dân lao động, thuyết giảng giáo lý ngũ giới, 
thập thiện bằng chính ngôn ngữ của họ. Vì 
vậy, Phật giáo trở nên gần gũi và gắn liền 
với đạo đức, lối sống bình dị của đại đa số 
quần chúng nhân dân lao động. 
Một điều đặc biệt trong lĩnh vực văn hóa 
nữa là, Trần Nhân Tông đã tái dựng lại quá 
khứ huy hoàng của dân tộc bằng việc phong 
thần cho những người có công với nước 
như: Phù Đổng Thiên Vương, Triệu Quang 
Phục, Lý Nam Đế, Phùng Hưng... “Lần đầu 
tiên, một thần điện Việt Nam được hình 
thành với những con người cụ thể, sống 
bằng xương, bằng thịt trong quá khứ, có sự 
tích, có hành trạng, chứ không chỉ gồm các 
vị thần, vị thánh từ nước ngoài đưa vào, hay 
được tưởng tượng ra ở trong nước”(11). Việc 
phong thần của Trần Nhân Tông không chỉ 
làm tái hiện một quá khứ anh hùng của dân 
tộc, mà còn chỉ ra những ông Bụt (ông Phật) 
sống của dân Việt. Từ đó, người dân càng dễ 
tiếp nhận giáo lý dung dị của đạo Phật mà 
sống và hành thiện. Chính hoạt động nhập 
thế của Phật giáo dân gian đã góp phần vào 
quá trình điều chỉnh hành vi xã hội. Nó cũng 
làm thay đổi một vài thói quen, nếp sống 
truyền thống của người Việt Nam. 
Những triết lý sâu sắc của nhà Phật đã 
được Trần Nhân Tông vận dụng linh hoạt, 
mềm dẻo vào giải quyết các vấn đề xã hội, 
tạo nên một nét mới trong văn hoá, giáo 
dục, đạo đức của dân tộc. Có thể nói, phải 
thực sự thấm nhuần tư tưởng “vô ngã”, “vị 
tha” của nhà Phật mới có được những việc 
làm đầy tình thương và bao dung như vậy. 
Nhờ vậy, đạo đức Phật giáo đã trở thành 
triết lý sống không chỉ của Phật tử, mà cả 
các tầng lớp khác nhau trong xã hội: từ vua 
chúa, quan lại, thiền sư và phổ cập rộng 
trong đại đa số quần chúng nhân dân. Đạo 
đức Phật giáo đã “đi thẳng vào thế gian” và 
có ảnh hưởng to lớn đến đạo đức cổ truyền 
của dân tộc. Trần Nhân Tông đã thể hiện tư 
tưởng nhập thế của Phật giáo rất rõ ràng: 
dùng đạo để hướng dẫn đời và dùng đời để 
thực hành đạo.(11) 
Trên cơ sở tiếp thu tinh hoa nhập thế của 
Thiền Phật giáo và khuynh hướng nhập thế 
của Phật giáo Việt Nam, Trần Nhân Tông 
đã ứng dụng linh hoạt Phật giáo vào hành 
xử trong cuộc sống và đem lại những thành 
tựu rực rỡ. Tinh thần Nhập thế trong tư 
tưởng Phật giáo của ông là điển hình nhập 
thế của Phật giáo Việt Nam nói chung và 
Phật giáo đời Trần nói riêng, thể hiện sự lựa 
chọn tích cực của Phật giáo Việt Nam. Đây 
cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tiến 
trình phát triển của Phật giáo Việt Nam. 
Trần Nhân Tông vừa là vua của một nước, 
vừa là Thiền sư Trúc Lâm Đầu Đà; đã đạt 
cả hai vị trí tối cao trong xã hội: đạo và đời. 
Ông là một vị Vua Phật đã vận dụng, kết 
hợp rất thành công hai yếu tố này để đem 
lại lợi lạc cho chúng sinh Đại Việt. Những 
cống hiến của ông cho nền hòa bình chính 
trị nước nhà và cho Phật giáo mãi mãi 
muôn đời sau con cháu còn ghi nhớ. 
(11) Lê Mạnh Thát (2000), sđd, tr.170. 
Tinh thần nhập thế trong tư tưởng Phật giáo... 
 93 

File đính kèm:

  • pdftinh_than_nhap_the_trong_tu_tuong_phat_giao_cua_tran_nhan_to.pdf