Tố tụng rút gọn trong giải quyết tranh chấp tiêu dùng

Tóm tắt Tố tụng rút gọn trong giải quyết tranh chấp tiêu dùng: ...liên quan tới các nghĩa vụ sau bán hàng: bảo hành, sửa chữa, đảm bảo chất lượng dịch vụ hậu mãi; (v) Tranh chấp trong lĩnh vực cạnh tranh: cạnh tranh không lành mạnh Dựa vào chủ thể cung cấp hàng hóa dịch vụ, lại có thể phân loại tranh chấp tiêu dùng thành các tranh chấp giữa: (i) ngườ...Nam Phi, thành lập theo Mục 26 Đạo luật số 34 về tín dụng quốc gia năm 2005 [13]; Tòa án xét xử vụ kiện về tiêu dùng Malaysia, thành lập theo Mục 85 Phần XII Đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng năm 1999, có hiệu lực từ 15/11/1999 [14]). Nhiều quốc gia, hệ thống tài phán tố tụng rút gọn ... Toà án nhân dân gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân; trường hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì Toà án nhân dân có thể xử không có Hội thẩm nhân dân”. Thực tế, để tạo tiền đề cho việc áp dụng trình tự tố tụng rút gọn, Hiến pháp năm 2013 đã quy định trường h...

pdf8 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 214 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tố tụng rút gọn trong giải quyết tranh chấp tiêu dùng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ửa chữa, 
đảm bảo chất lượng dịch vụ hậu mãi; (v) 
Tranh chấp trong lĩnh vực cạnh tranh: cạnh 
tranh không lành mạnh Dựa vào chủ thể cung 
cấp hàng hóa dịch vụ, lại có thể phân loại tranh 
chấp tiêu dùng thành các tranh chấp giữa: (i) 
người tiêu dùng với nhà sản xuất; (ii) người 
tiêu dùng với nhà phân phối bán buôn; nhà 
nhập khẩu; (iii) người tiêu dùng với nhà 
phân phối bán lẻ 
Điều kiện áp dụng tố tụng rút gọn còn 
mơ hồ 
Thủ tục tố tụng rút gọn (tiếng anh là 
summary procedure) được áp dụng để xử lý 
những vi phạm pháp luật nhỏ, những tranh 
chấp, khiếu kiện có giá trị thấp, những vụ việc 
đơn giản, chứng cứ rõ ràng. Trình tự rút gọn 
trong tố tụng dân sự của Việt Nam (được định 
danh là “thủ tục đơn giản quy định trong pháp 
luật tố tụng dân sự”) quy định tại Điều 41 của 
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng 
được xây dựng theo định hướng này. Cụ thể, 
Luật đề cập tới 03 điều kiện tối thiểu bắt buộc 
để áp dụng theo trình tự này gồm [11]: 
(i) Vụ án dân sự do cá nhân tiêu dùng khởi 
kiện tổ chức, cá nhân trực tiếp cung cấp hàng 
hóa, dịch vụ; 
(ii) Vụ án đơn giản, chứng cứ rõ ràng; 
(iii) Giá trị giao dịch dưới 100 triệu đồng. 
Ngoài các tranh chấp tiêu dùng, thực tiễn tố 
tụng của nhiều nước cũng như đề xuất trong 
quá trình xây dựng Pháp lệnh Thủ tục rút gọn 
cũng ghi nhận phạm vi áp dụng tố tụng rút gọn 
sẽ mở ra với nhiều loại tranh chấp dân sự khác 
như tranh chấp hợp đồng vận chuyển hành 
khách, tranh chấp hôn nhân - gia đình về số tiền 
cấp dưỡng, về thay đổi người nuôi con sau khi 
N.T. Điệp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 37-44 
40 
ly hôn, tranh chấp hợp đồng vay, thuê, mượn, 
trao đổi tài sản Khi các bên có thỏa thuận về 
việc giải quyết tranh chấp theo thủ tục rút gọn 
thì tòa cũng tạo điều kiện để áp dụng theo trình 
tự này nhằm giản tiện cho các bên. 
Tuy nhiên, cả 03 điều kiện tối thiểu kể trên 
đều chưa có bất kỳ hướng dẫn cụ thể nào nên 
không có căn cứ để áp dụng. Khái niệm “vụ án 
đơn giản, chứng cứ rõ ràng” chưa đi kèm với 
những hướng dẫn cụ thể thế nào là một vụ án 
đơn giản? và chứng cứ như thế nào được coi là 
rõ ràng để giải quyết nhanh gọn một vụ việc? 
việc xác định cụ thể về tính “đơn giản, rõ ràng” 
được dựa trên các tiêu chuẩn nào? Ở một số 
quốc gia, việc áp dụng tố tụng rút gọn được áp 
dụng để xử lý đối với những trường hợp vi 
phạm hành chính ở mức ít nghiêm trọng, giá trị 
tranh chấp không lớn, tính chất đơn giản về tình 
tiết vụ việc, không yêu cầu xác minh, bất đồng 
giữa các bên không nghiêm trọng. Trong các 
điều kiện này, yếu tố giá trị tranh chấp cũng 
được đặt ra như một trong những điều kiện có ý 
nghĩa quyết định. Mức ngạch “100 triệu đồng” 
được đưa ra chưa thực sự thuyết phục. Quá 
trình thực thi sẽ đặt ra câu hỏi mức ngạch trên 
căn cứ vào cơ sở nào? Sự thay đổi về điều kiện 
kinh tế có ảnh hưởng tới mức ngạch này? Sự 
điều chỉnh ngạch có gắn liền với việc sửa đổi 
Luật? Thực tế mức ngạch “100 triệu đồng” là 
tương đối cao nếu so sánh với mức ngạch 
“4.000 euro” để áp dụng thủ tục xét xử rút gọn 
của Tòa sơ thẩm thẩm quyền hẹp của Cộng hòa 
Pháp. Ngoài Pháp, hiện các quốc gia áp dụng tố 
tụng rút gọn lại xây dựng một mức ngạch riêng 
là căn cứ áp dụng phương thức tố tụng đặc biệt 
này như: Nhật Bản dưới 900.000 yên, Đài Loan 
không quá 4.000 USD, Hàn Quốc dưới 
5.000.000 won, Thái Lan không quá 50.000 
bạt thậm chí ngay ở Việt Nam dưới thời Pháp 
thuộc thì việc xác định vụ kiện có giá ngạch 
thấp ở ba miền Bắc – Trung – Nam cũng có sự 
khác nhau [12]. Khác với nhiều quốc gia mà hệ 
thống pháp lý đã được hoàn bị, việc ấn định 
một mức ngạch áp dụng tố tụng rút gọn ở một 
văn bản cấp độ luật như ở Việt Nam tuy rằng 
tạo ra sự rõ ràng nhưng mặc khác lại tự “trói 
buộc” cơ quan quản lý Nhà nước khi mức 
ngạch trở nên lỗi thời, không còn phù hợp với 
thực tiễn mà việc sửa đổi, bổ sung lại bị trói 
buộc bởi thẩm quyền thông qua của Quốc hội. 
Nhiều ý kiến tranh luận hiện vẫn cho rằng, với 
đặc thù lập pháp của nước ta, việc ấn định trong 
luật những tính chất và cơ chế để áp dụng tố 
tụng rút gọn thay ví ấn định mức ngạch cụ thể 
sẽ là hợp lý và phù hợp hơn. 
Có thể thấy, căn cứ xây dựng các điều kiện 
áp dụng thủ tục tố tụng rút gọn trở nên rất quan 
trọng, cần được quan tâm nghiên cứu kỹ lưỡng 
bởi nó sẽ quyết định tới tính hợp lý ban đầu để 
trình tự tố tụng rút gọn được thực hiện. 
Còn nhiều tranh luận về phân cấp tòa án, 
miễn trừ nguyên tắc tố tụng dân sự truyền thống 
và trình tự tố tụng rút gọn 
Theo phân loại thẩm quyền xét xử của tòa 
án tại Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 sửa đổi 
năm 2011, tranh chấp tiêu dùng được xếp vào 
các vụ án dân sự thuộc thẩm quyền xét xử của 
Tòa Dân sự trực thuộc Tòa án nhân dân cấp 
tỉnh, thành phố; Tòa án nhân dân tối cao và các 
Tòa án nhân dân cấp quận, huyện. Tuy nhiên, 
khi đặt vấn đề áp dụng trình tự tố tụng rút gọn 
để giải quyết tranh chấp tiêu dùng, việc nhấn 
mạnh ý nghĩa và mục tiêu của việc áp dụng này 
như nâng cao hiệu quả hoạt động của Tòa án; 
giảm thời gian, vật chất cho hoạt động tố tụng 
của Tòa án thông qua việc thay đổi cơ cấu Thẩm 
phán và hiệu lực quyết định của Tòa án, làm nảy 
sinh hai vấn đề lí luận còn nhiều tranh cãi: 
Thứ nhất, có hay không thành lập một hệ 
thống tòa án chuyên biệt để giải quyết tranh 
chấp tiêu dùng? 
N.T. Điệp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 37-44 41 
 Tại một số quốc gia trên thế giới, tranh 
chấp tiêu dùng được phân loại riêng và thuộc 
thẩm quyền xét xử của tòa án chuyên trách bảo 
vệ người tiêu dùng (VD: Tòa án quốc gia về 
bảo vệ người tiêu dùng của Nam Phi, thành lập 
theo Mục 26 Đạo luật số 34 về tín dụng quốc 
gia năm 2005 [13]; Tòa án xét xử vụ kiện về 
tiêu dùng Malaysia, thành lập theo Mục 85 
Phần XII Đạo luật về bảo vệ người tiêu dùng 
năm 1999, có hiệu lực từ 15/11/1999 [14]). 
Nhiều quốc gia, hệ thống tài phán tố tụng rút 
gọn đã và đang phát triển với quy mô lớn và 
hoạt động vô cùng hiệu quả, như Nhật Bản hiện 
có tới 438 Tòa án giản lược được thành lập ở 
các thành phố, thị trấn; ở Pháp hiện có 476 Tòa 
án sơ thẩm thẩm quyền hẹp. Bên cạnh kinh 
nghiệm xây dựng tòa chuyên biệt trong hệ 
thống tư pháp, thì một số quốc gia lại lựa chọn 
quy định hệ thống tòa sơ thẩm sẽ áp dụng trình 
tự tố tụng rút gọn bên cạnh trình tự tố tụng 
thông thường. Cụ thể, căn cứ Điều 141 của Bộ 
luật tố tụng dân sự Trung Quốc, hơn 10.000 
Tòa án nhân dân sơ cấp của Trung Quốc có 
thẩm quyền xét xử theo thủ tục rút gọn các vụ 
việc, tranh chấp dân sự. Những bài học trong 
xây dựng hệ thống tư pháp chuyên biệt của 
nhiều nước nhằm giải quyết theo tố tụng rút gọn 
được coi là xu thế bắt buộc và cần thiết phải 
sớm sửa đổi để đảm bảo hiệu quả. Tuy nhiên, 
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 mới 
được thông qua và có hiệu lực từ 01/06/2015 
chưa hề đề cập tới một hệ thống tư pháp đặc thù 
nào tương tự như vậy, mà hiện chỉ để ngỏ 
trong quy định tại Điều 30 và Điều 38 của 
Luật về cơ cấu tổ chức của Tòa án Tối cao 
và các Tòa án cấp tỉnh là “Trường hợp cần 
thiết, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định 
thành lập Tòa chuyên trách khác theo đề 
nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối 
cao”. Như vậy cho thấy việc thành lập một 
cơ chế tố tụng rút gọn theo hướng độc lập 
vẫn chưa thể khả thi do các điều kiện về thể 
chế hiện vẫn chưa cho phép. 
Thứ hai, nên hay không nên xây dựng các 
quy định đặc thù tách rời và không chịu ảnh 
hưởng bởi các quy định tố tụng dân sự truyền 
thống để giải quyết tranh chấp tiêu dùng? 
Thủ tục rút gọn trong tố tụng được đặc 
trưng bởi hoạt động xét xử do một Thẩm phản 
độc lập giải quyết, kèm theo đó là những giản 
tiện trong trình tự xét xử như có thể bỏ qua 
công đoạn hòa giải, tranh luận mà đưa ra phán 
quyết luôn. Việc xây dựng một trình tự tố tụng 
dân sự rút gọn như vậy đang dường như đi 
ngược lại những nguyên tắc được coi là nền 
tảng của tố tụng dân sự Việt Nam như: nguyên 
tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số, 
nguyên tắc xét xử có Hội thẩm nhân dân tham 
gia và nguyên tắc xét xử hai cấp được đề cập 
trong Hiến pháp tại Điều 129 và Điều 131, cũng 
như Bộ luật Tố tụng dân sự tại các Điều 11, 
Điều 14 và Điều 17. Mặc dù vậy, kế thừa quy 
định Hiến định về tố tụng rút gọn, Luật Tổ chức 
Tòa án năm 2014 cũng để ngỏ quy định liên 
quan tới nguyên tắc tố tụng hai cấp xét xử. Cụ 
thể, Điều 8 về Thực hiện chế độ xét xử có Hội 
thẩm tham gia và Điều 10 về Tòa án nhân dân 
xét xử tập thể đều đã quy định loại trừ trường 
hợp xét xử dân sự theo trình tự tố tụng rút gọn. 
Như vậy, có thể hiểu rằng trong khi các quy 
định pháp luật về thủ tục tố tụng rút gọn còn 
nhiều tranh cãi, chưa thể được ban hành thì mọi 
vụ việc tranh chấp tiêu dùng đều vẫn được được 
giải quyết theo trình tự thông thường. 
Về đề xuất xét xử do một thẩm phán quyết 
định, xuyên suốt các bản Hiến pháp năm 1959, 
1980, 1992 sửa đổi 2001 và mới đây nhất là 
Hiến pháp 2013, các Điều 12 Luật Tổ chức Toà 
án năm 1960, Điều 7 Luật Tổ chức Toà án 
1981, Điều 6 Luật Tổ chức Toà án năm 1992, 
Điều 6 Luật Tổ chức Toà án năm 2002, Điều 14 
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 đều có quy 
N.T. Điệp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 37-44 
42 
định về nguyên tắc Toà án xét xử tập thể và 
quyết định theo đa số. Trước đó, cơ chế xét xử 
một Thẩm phán đã từng được quy định tại Sắc 
lệnh số 13/SL ngày 24/1/1946. Theo Điều 10 
Sắc lệnh này thì đối với Toà án sơ cấp « tại 
phiên toà, Thẩm phán xét xử một mình Lục sự 
giữ bút ký, lập biên bản án từ » và đối với Toà 
án đệ nhị cấp, Điều 17 Sắc lệnh cũng quy định 
“về dân sự và thương sự, Chánh án xử một 
mình nhưng khi xử các việc tiểu hình phải có 
thêm hai viên phụ thẩm nhân dân góp ý kiến”. 
Theo nguyên tắc này thì việc xét xử phải được 
tiến hành bởi một Hội đồng xét xử gồm nhiều 
thành viên. Hiện nay, theo quy định tại Điều 52 
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 thì thành 
phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự 
gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. 
Trong trường hợp đặc biệt thì thành phần Hội 
đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán 
và ba Hội thẩm nhân dân. Trong khi đó, Bộ luật 
Tố tụng Dân sự mới đưa ra cơ chế một Thẩm 
phán để giải quyết vụ việc dân sự theo quy định 
tại Điều 55 của Bộ luật. Đây có thể coi là một 
hình thức của “tố tụng rút gọn” đã và đang 
được áp dụng trong thực tiễn xét xử ở nước ta. 
Việc khôi phục lại quy định về cơ chế xét xử 
một Thẩm phán đối với các tranh chấp dân sự 
nói chung và tranh chấp tiêu dùng nói riêng, 
trao cho Thẩm phán thẩm quyền độc lập trong 
giải quyết các vụ tranh chấp đơn giản, rõ ràng, 
không có tranh tụng hoặc các vụ tranh chấp có 
giá trị không lớn được coi là cần thiết và phù 
hợp với thực tiễn pháp lý. Qua tham khảo pháp 
luật tố tụng dân sự nước ngoài có thể thấy rằng 
pháp luật tố tụng dân sự của các nước trên thế 
giới có quy định về thủ tục tố tụng dân sự rút 
gọn thì việc xét xử đều giao cho một Thẩm 
phán đảm nhiệm. Ở Việt Nam, mặc dù tại các 
Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1960, 1981, 
1992, 2002 đều quy định rằng Toà án xét xử và 
quyết định theo đa số nhưng không phải là 
không có ngoại lệ. Chẳng hạn điều 12 Luật Tổ 
chức Toà án năm 1960 quy định “Toà án nhân 
dân thực hành chế độ xét xử tập thể và quyết 
định theo đa số. Khi sơ thẩm, Toà án nhân dân 
gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân; 
trường hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và 
không quan trọng thì Toà án nhân dân có thể 
xử không có Hội thẩm nhân dân”. 
Thực tế, để tạo tiền đề cho việc áp dụng 
trình tự tố tụng rút gọn, Hiến pháp năm 2013 đã 
quy định trường hợp miễn trừ nguyên tắc xét xử 
phải có hội thẩm bằng quy định tại Khoản 1 
Điều 103 như sau “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa 
án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường 
hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”, miễn trừ 
nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa 
số bằng quy định tại Khoản 4 Điều 103 như sau 
“Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định 
theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục 
rút gọn”. Và trên cơ sở đó, nhắc lại quy định 
này tại Điều 8 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 
năm 2014, việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có 
Hội thẩm tham gia cũng loại trừ trường hợp xét 
xử theo thủ tục rút gọn. Như vậy, định hướng 
xây dựng quy định liên quan tới thủ tục tố tụng 
rút gọn sẽ đảm bảo cơ cấu xét xử sẽ có cơ sở 
pháp lý để áp dụng cơ chế một Thẩm phán 
quyết định. 
Thực tiễn tố tụng rút gọn ở nhiều quốc gia 
trên thế giới như Mỹ, Australia và hay một số 
quốc gia Châu Á như Nhật Bản, Thái Lan, Hàn 
Quốc, Singapore đều cho thấy những vụ kiện 
có chứng cứ rõ ràng, bị đơn thừa nhận nghĩa vụ, 
những vụ kiện có giá ngạch thấp, thì giải quyết 
thông qua trình tự rút gọn do một thẩm phán 
quyết định sẽ tiết giảm đáng kể chi phí, thời 
gian cho cả cơ quan tiến hành tố tụng lẫn các 
bên có tranh chấp. 
Về trình tự giải quyết theo thủ tục rút gọn, 
một trong những băn khoăn khi ban hành văn 
bản hướng dẫn thủ tục rút gọn trong tố tụng dân 
N.T. Điệp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 37-44 43 
sự là quyền kháng nghị đối với những phán 
quyết của thẩm phán khi áp dụng trình tự rút 
gọn. Nếu áp dụng phương thức xét xử một cấp 
với quyết định của thẩm phán là chung thẩm, 
thì các bên đương sự có quyền kháng nghị phúc 
thẩm lại phán quyết hay không? Một phán 
quyết theo trình tự tố tụng rút gọn có giá trị 
pháp lý ra sao và có thể bị hủy, sửa theo trình tự 
như thế nào cũng là những vấn đề cần được 
nghiên cứu và làm rõ. Việc giải quyết hậu quả 
pháp lý đối với một vụ việc dân sự cũng cần 
quan tâm bổ sung chế định cho phép chuyển đổi 
qua lại giữa trình tự tố tụng dân sự thông 
thường và thủ tục rút gọn nhằm hạn chế những 
vụ việc tranh chấp kéo dài những vụ việc mà 
tình tiết đã làm sáng tỏ hay những vụ việc tranh 
chấp có phát sinh tình tiết mới phức tạp đòi hỏi 
phải thực hiện theo trình tự tố tụng thông 
thường. Bên cạnh đó, trình tự hòa giải áp 
dụng trước quá trình xét hỏi và xét xử dự 
kiến sẽ được bỏ đi trong trình tự rút gọn 
trong pháp luật tố tụng dân sự, tuy nhiên 
nhiều ý kiến cho rằng các bên hòa giải được 
là điều cần thiết để giải quyết vụ việc. Ngoài 
ra, trình tự tại Tòa án cũng được đề xuất 
theo hướng không cần thiết phải mở phiên 
tòa xét xử mà thậm chí chỉ cần Tòa ban hành 
một phán quyết trên cơ sở các tài liệu được 
cung cấp. 
Kinh nghiệm ở Nhật Bản cho thấy Luật 
nước này công nhận các quy định đặc biệt 
nhằm đơn giản hóa thủ tục khởi kiện, xét xử 
như chấp nhận việc khởi kiện có thể thực 
hiện bằng miệng. Đương sự không cần phải 
chuẩn bị văn bản mà chỉ cần có mặt vào 
ngày tranh luận miệng để nêu ý kiến là đủ. 
Thủ tục rút gọn trong tố tụng dân sự của 
Trung Quốc cũng có quy định về khởi kiện 
bằng miệng trong suốt quá trình tiến hành tố 
tụng, từ khởi kiện, thông báo triệu tập, 
truyền gọi đương sự, nhân chứng Đồng 
thời, trong quá trình áp dụng tố tụng rút gọn, 
Thẩm phán có quyền điều chỉnh linh hoạt 
các bước trong trình tự để đẩy nhanh quá 
trình giải quyết. 
Kết luận 
Đảng và Nhà nước đã đặt ra nhiệm vụ cho 
ngành tư pháp đó là “Nghiên cứu để quy định 
và thực hiện thủ tục tố tụng rút gọn đối với 
những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, 
chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng” [15] 
và thực tế Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan 
liên quan đã và đang có nhiều nỗ lực trong quá 
trình xây dựng hệ thống quy định về tố tụng rút 
gọn. Việc bổ sung một cơ chế xét xử đặc thù 
như tố tụng rút gọn có thể làm thay đổi căn bản 
các chế định tố tụng dân sự hiện hành, kéo theo 
đó là sự thay đổi về thể chế, cách thức vận hành 
hệ thống tố tụng cũng như đổi mới đội ngũ cán 
bộ xét xử. Thực tế cho thấy bản thân Luật Tố 
tụng Hành chính được ban hành năm 2010 mặc 
dù cũng đã có ý kiến đưa vào chế định tố tụng 
rút gọn nhưng khi ban hành do thiếu cơ sở lý 
luận và thực tiễn pháp lý nên chưa thể ban 
hành. Có thể khẳng định, thực tiễn bảo vệ 
quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng 
Việt Nam hiện nay đang đặt ra yêu cầu cấp 
bách về việc bổ sung hướng dẫn rõ ràng, cụ thể 
hơn đối với chế định tố tụng rút gọn trong Luật 
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cho tới nay, 
mặc dù còn nhiều ý kiến tranh luận về các nội 
dung của tố tụng rút gọn, nhưng việc xây dựng 
các quy định và cơ chế thực thi tố tụng rút gọn 
đã và đang được hỗ trợ hiệu quả bởi định hướng 
của Đảng và Nhà nước, quy định trong Hiến 
pháp và lộ trình xây dựng văn bản quy phạm 
của Quốc hội liên quan tới lĩnh vực bảo vệ 
quyền lợi người tiêu dùng, cải cách tư pháp... 
Tuy nhiên, cũng cần nhìn nhận thực tế chỉ khi 
N.T. Điệp / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 2 (2015) 37-44 
44 
các chế định này được làm rõ và được hướng 
dẫn cụ thể và hợp lý thì mới mong người tiêu 
dùng đặt niềm tin vào cơ quan tư pháp và coi đó 
như “tấm khiên vững chắc” bảo vệ quyền và lợi 
ích hợp pháp của mình. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Số liệu công bố tại Hội thảo “Nhìn lại 3 năm thực 
thi Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” tổ 
chức ngày 28/10/2014 tại Hà Nội. 
[2] Ban Chỉ đạo 389 gọi tắt của Ban Chỉ đạo quốc gia 
chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả 
được thành lập theo Quyết định số 389/QĐ-TTg 
ngày 19/03/2014 của Thủ tướng Chính phủ (tiền 
thân là Ban Chỉ đạo 127 Trung ương). 
[3] Trích Báo cáo tổng kết ngành tòa án các năm 
2005 đến 2009. 
[4] Trích số liệu từ Báo cáo tóm tắt ngày 18/01/2013 
của Tòa án nhân dân Tối cao về công tác năm 
2012 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2013 
của ngành Tòa án nhân dân. 
[5] Trích số liệu từ Báo cáo tại Hội nghị tổng kết 
công tác năm 2014, triển khai nhiệm vụ năm 2015 
của ngành Tòa án nhân dân. 
[6] Trích số liệu từ Báo cáo số 2928/BC-VP ngày 
12/11/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà 
Nội về Kết quả công tác năm 2013, nhiệm vụ 
công tác năm 2014 của ngành Tòa án nhân dân 
thành phố Hà Nội (phục vụ kỳ họp thứ 8 HĐND 
thành phố Hà Nội khóa XIV – số liệu từ 
01/10/2012 đến 30/09/2013). 
[7] Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của 
Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến 
năm 2020. 
[8] Nghị quyết số 20/2011/QH13 ngày 26/11/2011 
của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, 
pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII; Nghị 
quyết số 45/2013/QH13 ngày 18/06/2013 của 
Quốc hội về việc điều chỉnh Chương trình xây 
dựng pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII năm 
2013 và Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh 
năm 2014. 
[9] Brown and Marriot, ADR Principles & Practice, 2nd 
Edition, Nov. 1999, Sweet & Maxwell, page 2. 
[10] Điều 2.4 Luật Bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan. 
[11] Điều 41.2 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 
năm 2010. 
[12] TS Trần Anh Tuấn, Pháp luật Việt Nam trong tiến 
trình hội nhập quốc tế và phát triển bền vững, 
NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2009. 
[13]  
[14] 
n=com_content&task=section&id=11&Itemid=29 
[15] Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của 
Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công 
tác tư pháp trong thời gian tới”. 
The Simplified Procedure in Resolution of Disputes 
Concerning Consumer Rights 
Nguyễn Trọng Điệp 
VNU School of Law, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam 
Abstract: As civil disputes and civil cases become overloaded and new procedural rules are 
required, it is now the time to build and complete the regulations on simplified procedures in civil 
proceedings. However, subject to the laws of Vietnam, this needs significant and overall amendments 
and supplements to the current procedural laws. In addition, it is the legal debates regarding the 
process, authority and legal validity of judgments given under this process have been delaying the 
drafting, enactment and application of the simplified procedures in civil proceedings in general and the 
protection of consumers in particular for years. 
Keywords: Consumer rights, simplified procedure, civil disputes. 

File đính kèm:

  • pdfto_tung_rut_gon_trong_giai_quyet_tranh_chap_tieu_dung.pdf