Triết học pháp luật: Đối tượng nghiên cứu, vị trí và chức năng
Tóm tắt Triết học pháp luật: Đối tượng nghiên cứu, vị trí và chức năng: ...y, triết học pháp luật, không chỉ là một bộ phận trong chương trình đào tạo các nhà luật học, mà sự tồn tại, phát triển và giảng dạy nó gắn liền với nhiệm vụ quan trọng hơn là đào tạo nhà luật học với tư cách là người công dân và người công dân với tư cách là người phê phán pháp luật. ...h là giáo điều, tức là không nghiên cứu mang tính kiểm tra phê phán các nền tảng của mình, còn theo bản chất của mình, triết học là triết học pháp luật: đối tượng nghiên cứu... Nhân lực khoa học xã hội Số 4-2013 10 khoa học phê phán; nó thường xuyên đánh giá các cơ sở, nền tảng của m...uanh nhiệm vụ chung của triết học pháp luật - phản ánh những nền tảng của pháp luật.(3) Để xác định một cách cụ thể hơn vị trí của triết học pháp luật, cần phải xem xét một cách hợp lý các cách tiếp cận của những người đại diện cho các khuynh hướng triết học khác nhau đến vấn đề đó. ...
u biết hiện thực pháp luật, đặc biệt đặc trưng trong thời kỳ Phục hưng và rất hữu ích đối với chính triết học. Như chúng ta đã biết, trong số các thành tựu đã đạt được của triết học cổ điển có nhiều thành tựu là kết quả của cách tiếp cận đó. Sức mạnh nhận thức của quan điểm triết học này hay quan điểm triết học khác, tính có căn cứ thực tiễn của nó ở một trong những lĩnh vực quan trọng nhất của nhân loại được kiểm chứng một cách đặc thù trong lĩnh vực võ khánh vinh Số 4-2013 Nhân lực khoa học xã hội 11 triết học pháp luật. Điều đó là cơ sở đầy đủ để kết luận rằng nếu thiếu sự phản ánh các nền tảng, cơ sở của pháp luật, ý nghĩa triết học của hiện thực pháp luật nói chung thì hệ thống triết học pháp luật sẽ không có giá trị. Cách tiếp cận khác của sự hình thành triết học pháp luật (cách tiếp cận từ pháp luật đến triết học) đi từ việc giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn của luật học đến việc phản ánh chúng về mặt triết học. Ví dụ, từ ý nghĩa của những vấn đề pháp lý cụ thể như: cơ sở của trách nhiệm hình sự, lỗi và trách nhiệm, việc thực hiện các hợp đồng, các cam kết và những vấn đề khác, có thể đặt ra vấn đề nhận thức về bản chất của pháp luật. ở đây triết học pháp luật được hiểu như một hướng độc lập trong luật học, như một trình độ nghiên cứu đặc trưng riêng về pháp luật. ý nghĩa triết học như vậy của pháp luật được các nhà luật học nhận thức trong định hướng thực tiễn rộng lớn của nó, trong đó các nền tảng tư tưởng quan trọng của pháp luật được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với pháp luật thực chứng. Đương nhiên, cả ở cách tiếp cận thứ nhất, lẫn ở cách tiếp cận thứ hai, triết học pháp luật đều có định hướng làm sáng tỏ bản chất và ý nghĩa của pháp luật, các nền tảng và nguyên tắc được thể hiện trong pháp luật. Vấn đề về vị trí môn học triết học pháp luật Do có hai cách hình thành triết học pháp luật, do vậy cũng có hai cách tiếp cận đến việc nhận thức vị trí của môn học này. Cách tiếp cận thứ nhất coi triết học pháp luật là một bộ phận của triết học nói chung và xác định vị trí của nó cùng với các môn học như: triết học đạo đức, triết học tôn giáo, triết học chính trị và các ngành triết học khác. Tương ứng với cách tiếp cận đó, triết học pháp luật là một bộ phận của triết học nói chung, bộ phận đó “ấn định” cho con người cách xử sự cần thiết với tư cách là thực thể xã hội, tức là triết học thực tiễn, học thuyết về cái tất định. Cách tiếp cận thứ hai coi triết học pháp luật là một ngành của khoa học pháp lý. Theo quan điểm này, triết học pháp luật là nền tảng lý luận cho việc hình thành pháp luật thực chứng và khoa học về pháp luật thực chứng. ở đây triết học pháp luật được hiểu là khoa học luận giải ý nghĩa của các nguyên tắc của pháp luật và tư tưởng của các quy phạm pháp luật ở “bậc cuối cùng”. Mỗi cách tiếp cận nói trên nhấn mạnh đến một trong hai phương thức có khả năng phản ánh về pháp luật. Phương thức thứ nhất đòi hỏi phải có sự phản ánh triết học chung hoặc phương pháp luận chung nhằm tìm hiểu những nền tảng tối đa, các điều kiện tồn tại của pháp luật, khi đó pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với các yếu tố cơ bản của sự tồn tại của nhân loại - văn hóa, xã hội, khoa học v.v... Phương thức thứ hai là sự phản ánh triết học chuyên ngành hoặc phương pháp luận chuyên ngành, đó cũng là sự phản ánh triết học, nhưng nó được thực hiện trong phạm vi của chính khoa học pháp lý. Tính song trùng như vậy của triết học pháp luật cũng được thể hiện ở chỗ, tại một số nước trên thế giới, nội dung của triết học pháp luật cũng có cả trong các khoa học triết học lẫn trong các khoa học pháp lý. Do vậy, cả nhà triết học lẫn nhà triết học pháp luật: đối tượng nghiên cứu... Nhân lực khoa học xã hội Số 4-2013 12 luật học đều có thể nghiên cứu triết học pháp luật. Và, nói chính xác hơn, không phải nhà triết học đơn thuần mà là nhà triết học - nhà luật học, tức là nhà triết học đã được định hướng về mặt thực tiễn không chỉ đơn giản quan tâm đến chân lý tự nó mà còn quan tâm đến việc thực hiện các mục đích thực tiễn nhất định trong lĩnh vực pháp luật, nếu như nhà luật học - nhà triết học cần phải biết những vấn đề thực tiễn của khoa học mình và có cái nhìn ngoài pháp luật về nó, tức là có cái nhìn của nhà triết học. Triết học pháp luật không khước từ việc nhận thức những vấn đề thuần túy mang tính chất pháp lý, nhưng cần phải vượt ra khỏi giới hạn của lĩnh vực đó, gắn các hiện tượng pháp luật với việc giải quyết những vấn đề chung hơn và mang tính nguyên tắc của triết học. Từ những phân tích trên dẫn đến có quan niệm cho rằng có hai loại triết học pháp luật: một là, triết học pháp luật do các nhà triết học nghiên cứu; hai là, triết học pháp luật do các nhà luật học nghiên cứu. Tương ứng với giả định đó, một số nhà nghiên cứu đề nghị phân biệt triết học pháp luật ở nghĩa rộng và triết học pháp luật ở nghĩa hẹp(3). Tuy nhiên, về bản chất, chỉ tồn tại một triết học pháp luật, cho dù nó được nuôi dưỡng và hình thành từ hai nguồn khác nhau. Nguồn thứ nhất của triết học pháp luật là những nghiên cứu mang tính triết học chung về những vấn đề pháp luật. Nguồn thứ hai của nó gắn liền với kinh nghiệm giải quyết những vấn đề của pháp luật. Như vậy, triết học pháp luật là môn khoa học và môn học duy nhất có vấn đề nghiên cứu cơ bản của mình và chỉ đặt trong mối quan hệ với vấn đề cơ bản đó thì những vấn đề này hay vấn đề khác mới có quan hệ với triết học pháp luật. Triết học pháp luật đòi hỏi nhà nghiên cứu nó đó phải có những phẩm chất đặc biệt: có khả năng kết hợp những hiểu biết triết học mang tính nền tảng và sự hiểu biết những vấn đề lý luận cơ bản của lý luận và thực tiễn pháp luật. Đương nhiên, mỗi nhà nghiên cứu cùng với những sở thích nghề nghiệp nhất định có những đóng góp nào đó cho sự phát triển của môn học này, tuy nhiên, do còn những quan điểm khác nhau nên việc thường xuyên trao đổi lẫn nhau, sự làm phong phú lẫn nhau và bổ sung cho nhau của chúng cho phép giữ được sự cân bằng xung quanh nhiệm vụ chung của triết học pháp luật - phản ánh những nền tảng của pháp luật.(3) Để xác định một cách cụ thể hơn vị trí của triết học pháp luật, cần phải xem xét một cách hợp lý các cách tiếp cận của những người đại diện cho các khuynh hướng triết học khác nhau đến vấn đề đó. Trong hệ thống triết học của Hêghen, triết học pháp luật không đơn giản chỉ là một bộ phận của một trong những phần mang tính nền tảng của triết học mà bao quát toàn bộ những vấn đề triết học xã hội. Trong các hệ thống triết học khác, ví dụ, trong triết học của S. Frank, triết học pháp luật là một phần của triết học xã hội có tên gọi là đạo đức học xã hội. Triết học phân tích (thực chứng) coi triết học pháp luật là một bộ phận hợp thành của triết học chính trị, không coi nó là một môn học độc lập. Trong triết học (3) Ken. Garnick A. V. Vấn đề về vị trí môn học của triết học pháp luật/ Triết học và xã hội học trong bối cảnh văn hóa hiện nay. Dnepropetrovsk, 1988, tr. 186. võ khánh vinh Số 4-2013 Nhân lực khoa học xã hội 13 phương Tây hiện nay, những vấn đề của triết học pháp luật, thông thường được xem xét trong phạm vi của nhân học triết học. Ngay cả triết học xã hội và triết học đạo đức, mà ở đó những vấn đề của triết học pháp luật được xem xét trong mối quan hệ với chúng, cũng bị biến đổi một cách đáng kể dưới sự ảnh hưởng của các khuynh hướng triết học như: hiện tượng học, thần bí học, nhân học triết học, phân tâm học v.v... Do vậy, rất khó chỉ ra một phần (bộ phận) triết học thuần túy nào đó, trong đó có một bộ phận hợp thành là triết học pháp luật. Nhưng rõ ràng triết học pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ nhất với triết học xã hội, triết học chính trị, triết học đạo đức và nhân học triết học. Từng triết học đó đều nhấn mạnh đến một trong những nhân tố của sự hình thành và nghiên cứu về pháp luật: nhân tố xã hội, nhân tố giá trị - đạo đức, nhân tố chính trị, nhân tố con người. Chẳng hạn, triết học chính trị xem xét vấn đề quyền lực là gì và quyền lực và pháp luật có mối quan hệ như thế nào? Triết học xã hội nghiên cứu vấn đề: xã hội là gì và xã hội và pháp luật có mối quan hệ như thế nào? Triết học đạo đức luận giải vấn đề: đạo đức là gì và đạo đức và pháp luật có mối quan hệ như thế nào? Nhân học triết học lý giải vấn đề: con người là gì và con người và pháp luật có mối quan hệ như thế nào? Còn triết học pháp luật đặt ra vấn đề chung: pháp luật là gì và ý nghĩa của nó được thể hiện ở đâu? Do vậy, triết học pháp luật quan tâm nghiên cứu những vấn đề và việc pháp luật có mối quan hệ như thế nào vói những hiện tượng như: quyền lực, xã hội, đạo đức và con người. Cơ cấu của triết học pháp luật Theo cơ cấu của mình, triết học pháp luật gần với cơ cấu của triết học nói chung. Triết học pháp luật có thể có những nội dung cơ bản sau đây: 1. Bản thể luận pháp luật - nghiên cứu những vấn đề về bản chất của pháp luật và những nền tảng, cơ sở của nó, về sự tồn tại của pháp luật và các hình thức tồn tại của nó, về mối liên hệ của pháp luật với tồn tại xã hội và vị trí của pháp luật trong xã hội; 2. Nhân học pháp luật - nghiên cứu những nền tảng, cơ sở nhân học của pháp luật, khái niệm “con người pháp luật”, quyền con người với tư cách là sự thể hiện giá trị cá nhân của pháp luật, cũng như vấn đề về vị trí của chế định quyền con người trong xã hội hiện nay, quyền con người trong xã hội cụ thể, mối tương quan của cá nhân và pháp luật v.v...; 3. Nhận thức luận pháp luật - nghiên cứu những đặc điểm của quá trình nhận thức trong lĩnh vực pháp luật, những giai đoạn cơ bản, những trình độ và phương pháp nhận thức trong pháp luật, cũng như thực tiễn pháp luật với tư cách là tiêu chuẩn của chân lý pháp luật; 4. Giá trị học pháp luật - nghiên cứu giá trị với tư cách là đặc điểm quyết định sự tồn tại của xã hội loài người, phương thức tồn tại của các giá trị, phân tích những giá trị pháp luật cơ bản (công bằng, tự do, bình đẳng, quyền con người v.v...), “thứ bậc” và các phương thức thực hiện chúng trong hiện thực pháp luật hiện nay. Giá trị học pháp luật cũng quan tâm đến những vấn đề về mối tương quan của pháp luật với các hình thái ý thức xã hội có giá trị khác như: đạo đức, chính trị, triết học pháp luật: đối tượng nghiên cứu... Nhân lực khoa học xã hội Số 4-2013 14 tôn giáo, tư tưởng pháp luật và thế giới quan pháp luật; 5. Trong cơ cấu của triết học pháp luật có thể có cả phần ứng dụng, ở đó nghiên cứu những vấn đề triết học của luật hiến pháp (Nhà nước pháp quyền, phân công quyền lực, tư pháp hiến pháp), của luật dân sự (hợp đồng, sở hữu), của luật hình sự (tội phạm, lỗi, trách nhiệm, hình phạt), của luật tố tụng hình sự và của các ngành pháp luật khác. Mối tương quan của triết học pháp luật, lý luận chung về pháp luật và xã hội học pháp luật Trong phạm vi của luật học, triết học pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ nhất với lý luận chung về pháp luật và xã hội học pháp luật. Ba môn học này tạo thành tổng thể các môn học mang tính lý luận chung và phương pháp luận pháp luật và sự hiện có của chúng gắn liền với sự tồn tại của ít nhất ba phương diện trong chính pháp luật: phương diện đánh giá - giá trị; phương diện giáo điều - hình thức và phương diện tính quyết định xã hội. Triết học pháp luật tập trung nghiên cứu sự phản ánh các nền tảng, cơ sở của pháp luật, lý luận chung về pháp luật, tập trung nghiên cứu bộ máy khái niệm của pháp luật thực chứng, xã hội học pháp luật tập trung nghiên cứu những vấn đề về tính quy định xã hội và hiệu quả xã hội của các quy phạm pháp luật và của hệ thống pháp luật nói chung. Từ điều nói trên nảy sinh vấn đề: những môn học đó là độc lập hay tạo thành những phần của lý luận chung về pháp luật? Có thể giả định rằng, ở nghĩa nhất định, thuật ngữ “lý luận về pháp luật” có thể bao quát tất cả ba môn học, bởi vì chúng đề cấp đến những phương diện lý luận chung của pháp luật: triết học, xã hội học và pháp lý. Nhưng ở nghĩa khoa học chặt chẽ, thuật ngữ đó chỉ được áp dụng đối với khoa học pháp lý. Dự định hợp nhất ba định hướng nghiên cứu - đào tạo nói trên vào trong phạm vi của một môn học: lý luận chung về pháp luật là không thể luận giải được về mặt khoa học và việc tiến hành giảng dạy môn học đó trong thực tiễn có thể đem đến những kết quả tiêu cực. Lý luận pháp luật, triết học pháp luật và xã hội học pháp luật hoàn toàn có khả năng làm phong phú và bổ sung cho nhau với tư cách là những môn học độc lập. Sự kết hợp tiềm năng lý luận của chúng với mục đích bảo đảm tính toàn vẹn, chỉnh thể của hệ thống, hiểu biết về pháp luật cần phải được thực hiện không phải bằng cách xây dựng một khoa học pháp lý duy nhất bao gồm ba quan điểm phương pháp luận khác nhau của nhà luật học, của nhà triết học và của nhà xã hội học, mà bằng cách trang bị những kiến thức nền tảng, cơ bản để các nhà luật học có khả năng không chỉ hiểu biết sâu sắc chuyên ngành của mình mà còn phải nhìn nhận chuyên ngành của mình từ quan điểm triết học và xã hội học. Những vấn đề cơ bản của triết học pháp luật Dựa trên việc phân tích bản chất và nhiệm vụ của triết học pháp luật, chúng tôi cho rằng, vấn đề cơ bản: “pháp luật là gì?” sẽ được coi là vấn đề về ý nghĩa của pháp luật. Bởi vì, triết học pháp luật không chỉ đơn giản là tuyên bố các tư tưởng nào đó là triết học pháp luật, mà võ khánh vinh Số 4-2013 Nhân lực khoa học xã hội 15 phải lập luận chúng, và nhiệm vụ cơ bản của triết học pháp luật cần phải luận giải pháp luật và xác định ý nghĩa của nó. Vấn đề “pháp luật là gì (ý nghĩa của nó như thế nào)? là vấn đề cơ bản của triết học pháp luật, bởi vì việc giải quyết tất cả những vấn đề pháp luật quan trọng khác, trong đó có trong lĩnh vực xây dựng pháp luật và áp dụng pháp luật tùy thuộc trực tiếp vào việc trả lời các vấn đề đó. Pháp luật cũng là vấn đề của triết học, bởi pháp luật gắn liền với sự tồn tại của nhân loại. Do tính phức tạp của chính cơ cấu pháp luật mà vấn đề cơ bản của triết học pháp luật có thể được giải quyết thông qua việc giải quyết nhiều nhiệm vụ quan trọng, cơ bản, hoặc những vấn đề cơ bản của triết học pháp luật. Đó là: 1. Vấn đề về nền tảng của công bằng và các tiêu chuẩn của nó (nhiệm vụ mà trong phạm vi của nó pháp luật có mối quan hệ với đạo đức) - đó là vấn đề trung tâm trong triết học pháp luật, và dưới dạng truyền thống nó được nhìn nhận như vấn đề về luận giải “pháp luật tự nhiên”; 2. Vấn đề về hiệu lực bắt buộc của pháp luật, hoặc là vấn đề vì sao con người cần phải tuân thủ (phục tùng) pháp luật (nhiệm vụ mà trong phạm vi của nó mối tương quan của pháp luật và quyền lực được xác định); 3. Vấn đề về bản chất và các chức năng của pháp luật thực chứng (nhiệm vụ mà trong phạm vi của nó tính chất của quy phạm pháp luật được làm sáng tỏ) gắn liền chặt chẽ với việc giải quyết hai vấn đề đã nói ở trên, nó biện minh cho pháp luật thực chứng. Việc giải quyết những nhiệm vụ cơ bản đó hoặc những vấn đề cơ bản của triết học pháp luật cho phép bảo đảm tính chính thống hóa và giới hạn của pháp luật, tức là luận giải về sự cần thiết của pháp luật đối với con người, xác định các giới hạn mà pháp luật không thể vượt qua. 3. Các chức năng của triết học pháp luật Như mọi môn học triết học khác, triết học pháp luật có một số chức năng đặc trưng của mình. Các chức năng quan trọng nhất trong số đó là: chức năng thế giới quan; chức năng phương pháp luận; chức năng phản ánh thông tin; chức năng giá trị; chức năng giáo dục. Chức năng thế giới quan của triết học pháp luật thể hiện ở việc hình thành ở con người quan điểm chung về thế giới pháp luật, hiện thực pháp luật với tư cách là một trong những phương thức tồn tại của nhân loại; ở một mức độ nhất định, chức năng này giải quyết những vấn đề về bản chất và vị trí của pháp luật trong thế giới, các giá trị và tầm quan trọng của nó trong đời sống con người và xã hội nói chung, hoặc nói cách khác hình thành nên thế giới quan pháp luật của con người. Chức năng phương pháp luận của triết học pháp luật được thể hiện trong việc hình thành những mô hình nhận thức nhất định về pháp luật, những mô hình đó tạo điều kiện cho sự phát triển các nghiên cứu pháp lý. Với mục đích đó, triết học pháp luật xây dựng các phương pháp và các phạm trù mà dựa vào đó, các nghiên cứu pháp lý cụ thể được thực hiện. Sự thể hiện tập trung nhất của chức năng phương pháp luận của triết học pháp luật là hình thành nên nhận thức về pháp luật triết học pháp luật: đối tượng nghiên cứu... Nhân lực khoa học xã hội Số 4-2013 16 dưới dạng phương thức tư duy về nó với tư cách là một cấu trúc ý nghĩa - nội dung - cấu trúc luận giải các tư tưởng cơ bản của pháp luật. Chức năng phản ánh - thông tin bảo đảm việc phản ánh thích hợp về pháp luật với tư cách là khách thể đặc trưng, việc làm sáng tỏ các yếu tố cơ bản, các mối liên hệ cấu trúc, các tính quy luật của nó. Sự phản ánh đó được tổng hợp lại trong bức tranh của hiện thực pháp luật hoặc “trong hình thức của pháp luật”. Chức năng giá trị của triết học pháp luật được thể hiện ở việc xây dựng các quan niệm về các giá trị pháp luật như: tự do, bình đẳng, công bằng, cũng như các quan hiệm về tư tưởng pháp luật và giải thích hiện thực pháp luật từ các quan điểm của tư tưởng đó, phê phán cơ cấu và trạng thái của nó. Chức năng giáo dục của triết học pháp luật được thực hiện trong quá trình hình thành ý thức pháp luật và tư duy pháp lý, thông qua việc xây dựng các mục đích pháp luật riêng, trong đó có thuộc tính quan trọng là định hướng đến sự công bằng và sự tôn trọng pháp luật của cá nhân. Kết luận 1. Sự nhận thức triết học về pháp luật là nhiệm vụ của môn học lý luận đặc biệt - triết học pháp luật, môn học có đối tượng nghiên cứu làm sáng tỏ ý nghĩa của pháp luật, cũng như luận giải sự nhận thức về ý nghĩa đó, có những phạm trù cơ bản của mình là tư tưởng, ý nghĩa, mục đích của pháp luật, công bằng, tự do, bình đẳng, sự thừa nhận, tính tự trị của cá nhân, quyền con người và các phạm trù khác. 2. Triết học pháp luật có cơ cấu phức tạp, bao gồm: bản thể luận pháp luật, nhận thức luận pháp luật, giá trị luận pháp luật, hiện tượng học pháp luật, nhân học pháp luật, triết học pháp luật ứng dụng và những bộ phận khác. 3. Theo địa vị của mình, triết học pháp luật là môn học tổng hợp, giáp ranh giữa triết học và luật học và trong phạm vi của luật học, triết học pháp luật có mối liên hệ chặt chẽ với lý luận pháp luật và xã hội học pháp luật. 4. Các chức năng của triết học pháp luật thể hiện ở chức năng thế giới quan, chức năng phương pháp luận, chức năng phản ánh - thông tin, chức năng giá trị, chức năng giáo dục. TàI LIệU THAM KHảO 1. Võ Khánh Vinh. Lợi ích xã hội và pháp luật. Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2003, 224 trang. 2. Võ Khánh Vinh. Xã hội học pháp luật: những vấn đề cơ bản. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2012, 576 trang. 3. Alekseev S.S. Triết học pháp luật. M; 1997, tr. 10-46. 4. Bachinin V.A. Triết học pháp luật và tội phạm - Karkov. tr. 179-188. 5. Garnik A.V. Vấn đề về vị trí môn học của triết học pháp luật/ Triết học và xã hội học trong bối cảnh văn hóa hiện nay. Dnepropetrovsk, 1988, tr. 186. 6. Kerimov d.A. Phương pháp luận pháp luật (đối tượng, chức năng, những vấn đề triết học pháp luật). M; 2000, tr. 6-15. 7. Nersesjanx V.S. Triết học pháp luật. M; 1997, tr. 8-16. 8. Tiskhonravov Ju.V. Những cơ sở của triết học pháp luật. M; 1997, tr. 11-46.
File đính kèm:
- triet_hoc_phap_luat_doi_tuong_nghien_cuu_vi_tri_va_chuc_nang.pdf