Triết lí phát triển Hồ Chí Minh – Những nội dung cơ bản

Tóm tắt Triết lí phát triển Hồ Chí Minh – Những nội dung cơ bản: ...dân tộc, chúng ta mới giải phóng được dân tộc, mới phát triển được đất nước. Nền tảng của đoàn kết dân tộc, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đó là đoàn kết công - nông - và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Mục tiêu của đoàn kết dân tộc là độc lập dân tộc, là hòa bình, dân chủ, là phát tr...ần chúng, đồng bào, quần chúng nhân dân... để chỉ mọi người Việt Nam yêu nước, không phân biệt già, trẻ, trai, gái, giàu, nghèo, tôn giáo, giai cấp, dân tộc. Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “nhân dân là bốn giai cấp công, Tư liệu tham khảo Số... phát triển của cách mạng Việt Nam, coi cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh không hề phủ nhận hay xem nhẹ vai trò của các tổ chức và cá nhân người lãnh đạo. Đối với Đảng, có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên nhận ...

pdf8 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 200 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Triết lí phát triển Hồ Chí Minh – Những nội dung cơ bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 bảo đảm cho nhân dân thực sự 
được hạnh phúc, đồng bào thực sự được 
ấm no. 
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ 
nghĩa xã hội lại là sự lựa chọn duy nhất 
đúng cho con đường phát triển của Việt 
Nam. Bởi lẽ, đây là quy luật phát triển 
khách quan của lịch sử mà không ai có 
thể ngăn cản được. Người khẳng định: 
“Chúng ta đều biết từ đời xưa đến nay, 
cách sản xuất từ chỗ dùng cành cây, búa 
đá phát triển dần lên máy móc, sức điện, 
sức nguyên tử. Chế độ xã hội cũng phát 
triển từ cộng sản nguyên thủy đến chế độ 
nô lệ, đến chế độ phong kiến, đến chế độ 
tư bản chủ nghĩa và ngày nay gần một 
nửa loài người đang tiến lên chế độ xã 
hội chủ nghĩa. Sự phát triển và tiến bộ đó 
không ai ngăn cản được” [9, tr.282]. Do 
vậy, Việt Nam phát triển theo con đường 
xã hội chủ nghĩa là tất yếu khách quan. 
Chủ nghĩa xã hội, theo Người là 
“Làm cho dân có ăn, làm cho dân có 
mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân 
có học hành” [5, tr.152]. “Chủ nghĩa xã 
hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất 
và văn hóa của nhân dân và do nhân dân 
Tư liệu tham khảo Số 7(73) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
174 
tự xây dựng lấy” [10, tr.556]. Có thể nói, 
chủ nghĩa xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí 
Minh, là làm cho dân giàu, nước mạnh, 
mọi người ai cũng có công ăn, việc làm; 
ai cũng có cơm ăn, áo mặc; ai cũng được 
học hành. Trong chủ nghĩa xã hội, các 
dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng, 
tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, đời sống 
kinh tế, văn hóa, chính trị, tinh thần của 
nhân dân ngày càng được bảo đảm và 
không ngừng nâng cao. Chủ nghĩa xã hội 
có quan hệ hòa bình, hữu nghị với tất cả 
các nước, các dân tộc. Rõ ràng, chủ nghĩa 
xã hội sẽ không chỉ bảo vệ vững chắc 
thành quả của độc lập dân tộc, mà còn 
làm cho nhân dân được hạnh phúc, đồng 
bào được tự do, còn tạo ra điều kiện phát 
triển mới cho dân tộc, cho mọi người 
dân. Do vậy, chủ nghĩa xã hội là con 
đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa 
chọn cho dân tộc Việt Nam. Cũng vì vậy, 
theo Người, độc lập dân tộc phải gắn liền 
với chủ nghĩa xã hội. 
3. Động lực phát triển của Việt Nam 
Theo triết lí phát triển của Chủ tịch 
Hồ Chí Minh, động lực phát triển đất 
nước gồm những nội dung chính sau đây: 
 Động lực đầu tiên quan trọng đối 
với sự phát triển của đất nước là đoàn 
kết dân tộc 
 Người cho rằng, chỉ có đoàn kết 
dân tộc, chúng ta mới giải phóng được 
dân tộc, mới phát triển được đất nước. 
Nền tảng của đoàn kết dân tộc, theo Chủ 
tịch Hồ Chí Minh, đó là đoàn kết công - 
nông - và các tầng lớp nhân dân lao động 
khác. Mục tiêu của đoàn kết dân tộc là 
độc lập dân tộc, là hòa bình, dân chủ, là 
phát triển đất nước. Người khẳng định: 
“Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn 
kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân 
dân ta là công nhân, nông dân và các tầng 
lớp nhân dân lao động khác. Đó là nền 
gốc của đại đoàn kết” [6, tr.483]. Chính 
vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn không 
ngừng xây dựng và củng cố khối đoàn 
kết dân tộc trên nền tảng liên minh công - 
nông. Liên minh công - nông có vững 
chắc thì Mặt trận dân tộc thống nhất và 
đoàn kết toàn dân tộc mới bảo đảm. 
Muốn vậy, phải thực hiện sự thống nhất, 
đoàn kết trước hết từ trong nội bộ Đảng. 
Đảng có đoàn kết, thống nhất thì mới có 
thể lãnh đạo sự đoàn kết toàn dân tộc 
được. Cho nên, Chủ tịch Hồ Chí Minh 
yêu cầu: “Các đồng chí từ Trung ương 
đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn 
kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con 
ngươi của mắt mình” [11, tr.510]. 
Đại đoàn kết toàn dân tộc, theo Chủ 
tịch Hồ Chí Minh, không chỉ là chiến 
thuật mang tính nhất thời trong cách 
mạng dân tộc, dân chủ, mà là chiến lược 
nhất quán trong toàn bộ quá trình cách 
mạng của dân tộc, cả trong cách mạng xã 
hội chủ nghĩa. Đại đoàn kết toàn dân tộc 
không chỉ là động lực của cách mạng dân 
tộc, dân chủ, mà còn là động lực phát 
triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa. 
Không phải ngẫu nhiên mà Chủ tịch Hồ 
Chí Minh luôn căn dặn cán bộ, đảng 
viên: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ 
nhân dân cũng như trong cách mạng xã 
hội chủ nghĩa, Mặt trận dân tộc thống 
nhất vẫn là một trong những lực lượng to 
lớn của cách mạng Việt Nam. 
Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ các 
tầng lớp nhân dân, động viên lực lượng 
của nhân dân để phấn đấu hoàn thành sự 
nghiệp công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Tùng Lâm 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
175 
Phải đoàn kết tốt các đảng phái, các 
đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ 
quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, 
giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau tiến bộ. 
Phải đoàn kết các dân tộc anh em, 
cùng nhau xây dựng Tổ quốc. 
Phải đoàn kết chặt chẽ giữa đồng 
bào lương và đồng bào các tôn giáo, 
cùng nhau xây dựng đời sống hòa thuận, 
ấm no, xây dựng Tổ quốc” [10, tr.605-
606]. Triết lí này của Chủ tịch Hồ Chí 
Minh sau này đã được Đảng Cộng sản 
Việt Nam kế thừa sâu sắc: “Đại đoàn kết 
toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai 
cấp công nhân với giai cấp nông dân và 
đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của 
Đảng, là đường lối chiến lược của cách 
mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, 
động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa 
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững 
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ 
quốc” [1, tr.116]. Rõ ràng, đại đoàn kết 
toàn dân tộc đã, đang và sẽ còn là động 
lực phát triển của dân tộc Việt Nam. 
 Chủ nghĩa yêu nước - động lực phát 
triển của cách mạng Việt Nam 
Chủ nghĩa yêu nước là một giá trị 
tinh thần vô cùng to lớn, nó là sự kết tinh 
những tư tưởng, tình cảm yêu nước 
thiêng liêng của dân tộc từ ngàn năm. 
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam với rất 
nhiều khía cạnh, phong phú từ lòng yêu 
quê hương, làng xóm, tinh thần cố kết 
cộng đồng, hướng về dân, trọng dân, yêu 
dân, lấy dân làm gốc đến ý thức bảo vệ 
toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ, quốc gia; 
lòng tự tôn dân tộc, ý chí giành độc lập 
dân tộc, coi độc lập dân tộc là thiêng 
liêng, bất khả xâm phạm. Với tất cả sự 
phong phú ấy, chủ nghĩa yêu nước Việt 
Nam đã là động lực to lớn trong cuộc đấu 
tranh giải phóng dân tộc và cũng là động 
lực to lớn cho sự phát triển của Việt Nam 
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ 
tịch Hồ Chí Minh khi còn sống luôn nhắc 
nhở cán bộ, đảng viên phải biết khơi dậy, 
phát huy chủ nghĩa yêu nước của mỗi 
người Việt Nam trong xây dựng và bảo 
vệ Tổ quốc. 
Tổng kết lịch sử của dân tộc, Chủ 
tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân ta 
có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là 
một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa 
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, 
thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết tinh 
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to 
lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó 
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và 
lũ cướp nước” [7, tr.171]. Trong cách 
mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải biết 
khơi dậy chủ nghĩa yêu nước, làm cho nó 
trở thành một làn sóng mới nhấn chìm 
giặc đói, giặc rét, giặc dốt; biến thành 
hành động cụ thể trong phát triển kinh tế, 
văn hóa, giáo dục, y tế, góp phần xây 
dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp 
hơn. 
 Phát huy sức mạnh của quần chúng 
nhân dân là động lực phát triển của cách 
mạng Việt Nam 
Trong nhiều bài viết, bài nói 
chuyện của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh 
thường dùng các từ: dân, nhân dân, dân 
chúng, quần chúng, đồng bào, quần 
chúng nhân dân... để chỉ mọi người Việt 
Nam yêu nước, không phân biệt già, trẻ, 
trai, gái, giàu, nghèo, tôn giáo, giai cấp, 
dân tộc. Trong cuộc cách mạng dân tộc 
dân chủ nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh 
chỉ rõ: “nhân dân là bốn giai cấp công, 
Tư liệu tham khảo Số 7(73) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
176 
nông, tiểu tư sản, tư sản dân tộc và những 
phần tử khác yêu nước. Đó là nền tảng 
của quốc dân” [8, tr.219]. Trong những 
lực lượng đó thì công nhân và nông dân 
là nòng cốt. Trong quan niệm của Chủ 
tịch Hồ Chí Minh, nhân dân không chỉ 
bao gồm nhân dân Việt Nam ta mà cả 
nhân dân tiến bộ thế giới nữa. Người viết: 
“Ngoài ra ta lại có gần 1000 triệu nhân 
dân của các nước bạn đoàn kết nhất trí 
với ta; ta lại được nhân dân Pháp, nhân 
dân yêu chuộng hòa bình thế giới ủng 
hộ” [8, tr.439]. Như vậy, quần chúng 
nhân dân trong quan niệm của Chủ tịch 
Hồ Chí Minh là lực lượng tiến bộ của xã 
hội, là động lực của cách mạng. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn tin 
tưởng tuyệt đối vào quần chúng nhân 
dân, thấy được sức mạnh vĩ đại của quần 
chúng nhân dân. Người thường nhắc lại 
câu nói của đồng bào Quảng Bình, Vĩnh 
Linh: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, 
khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Theo 
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong quần chúng 
nhân dân cũng có người thế này, thế nọ, 
và nếu như nhân dân đã tốt hết rồi, đã 
biết đoàn kết nhau rồi thì không phải làm 
công tác dân vận, đoàn kết, tập hợp nhân 
dân làm gì nữa. Quần chúng nhân dân sẽ 
là động lực quan trọng của cách mạng chỉ 
khi họ hợp thành muôn người như một. 
Tự thân quần chúng nhân dân sẽ không 
phát huy được sức mạnh của mình. Cho 
nên, Người căn dặn cán bộ, đảng viên 
phải biết tin vào nhân dân, yêu thương 
nhân dân, phải biết tập hợp nhân dân 
thành một khối đại đoàn kết, phải biết 
phát huy sức mạnh của quần chúng nhân 
dân. Chính niềm tin vào quần chúng nhân 
dân sẽ cảm hóa được họ, lôi cuốn họ 
tham gia phong trào cách mạng rộng lớn. 
Chỉ có niềm tin vào quần chúng nhân dân 
một cách thực sự, chân tình mới có thể 
cảm hóa được lòng người, mới làm cho 
quần chúng tin và làm theo cán bộ. Trên 
cơ sở đó sẽ tạo thành sức mạnh vĩ đại 
thúc đẩy phong trào cách mạng tiến lên. 
Đó chính là động lực quan trọng của cách 
mạng và của sự phát triển. Trong Di 
chúc, Người còn căn dặn cán bộ, đảng 
viên rằng, cuộc kháng chiến chống Mĩ và 
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là 
hết sức khó khăn, gian khổ. Nhưng “Để 
thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ 
này cần phải động viên toàn dân, tổ chức 
và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng 
vĩ đại của toàn dân” [11, tr.505]. Như 
vậy, chính tình thương yêu nhân dân của 
cán bộ sẽ là điểm tựa vững chắc cho tư 
tưởng đoàn kết toàn dân và phát huy sức 
mạnh của quần chúng nhân dân. Tình 
thương yêu nhân dân chân thành, sâu sắc 
của người cán bộ sẽ thu phục được nhân 
tâm, sẽ làm cho hàng triệu, hàng triệu con 
tim, khối óc không phân biệt già, trẻ, trai, 
gái, dân tộc, giàu nghèo... tin yêu và làm 
theo. Do vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí 
Minh, để phát huy được vai trò động lực 
của quần chúng nhân dân, người cán bộ 
phải truyền niềm tin của mình vào nhân 
dân, làm cho đông đảo quần chúng nhân 
dân tin vào chính mình và tạo nên sức 
mạnh toàn dân không gì lay chuyển 
được. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn 
dặn cán bộ, đảng viên: “Chúng ta phải 
ghi tạc vào đầu cái chân lí này: dân rất 
tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn 
mấy họ cũng làm được, hi sinh mấy họ 
cũng không sợ” [6, tr.246]. Người cán bộ 
cần phải tin vào trí tuệ của dân thì mới 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Tùng Lâm 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
177 
phát huy được sức mạnh của dân. Với 
Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Dân chúng biết 
giải quyết vấn đề một cách giản đơn, mau 
chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, 
những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không 
ra” [6, tr.295]. Để phát huy sức mạnh của 
dân, với tư cách là động lực phát triển 
của cách mạng, thì người cán bộ phải làm 
cho dân hiểu, phải khéo tổ chức, khéo 
lãnh đạo họ. Nhưng, “muốn được dân 
yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải 
yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân lên 
hết thảy, phải có một tinh thần chí công 
vô tư” [5, tr.48]. Đồng thời, theo Chủ tịch 
Hồ Chí Minh, cần phải thực hành dân 
chủ. Thực hành dân chủ là biện pháp 
quan trọng hàng đầu để phát huy tính tích 
cực, sáng tạo của quần chúng nhân dân. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “Có 
phát huy dân chủ đến cao độ thì mới 
động viên được tất cả lực lượng của nhân 
dân, đưa cách mạng tiến lên” [9, tr.592], 
“thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn 
năng có thể giải quyết mọi khó khăn” 
[11, tr.249]. 
 Sự lãnh đạo của Đảng - động lực 
quan trọng cho sự phát triển của cách 
mạng Việt Nam 
Khẳng định vai trò quyết định của 
quần chúng nhân dân đối với sự phát 
triển của cách mạng Việt Nam, coi cách 
mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân 
dân, vì nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh 
không hề phủ nhận hay xem nhẹ vai trò 
của các tổ chức và cá nhân người lãnh 
đạo. Đối với Đảng, có thể nói, Chủ tịch 
Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên 
nhận thức được sự lãnh đạo của Đảng 
cách mạng như là nhân tố quyết định 
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, là 
động lực cho sự phát triển của cách mạng 
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm 
nhận ra muốn làm cách mạng thì trước 
hết phải có Đảng cách mạng. Vai trò của 
Đảng, trước hết thể hiện ở chỗ, Đảng giác 
ngộ quần chúng, tập hợp, tổ chức họ lại 
rồi chỉ đường, hướng dẫn họ tham gia 
hoạt động cách mạng nhằm đem lại lợi 
ích thiết thực cho chính quần chúng nhân 
dân. Không có sự lãnh đạo của Đảng thì 
vai trò của quần chúng nhân dân không 
thể được phát huy. Chính sự lãnh đạo của 
Đảng sẽ nhân lên sức mạnh của quần 
chúng, làm tăng hiệu quả hoạt động của 
quần chúng. Vì vậy, Người chỉ rõ, 
“Trước hết phải có Đảng cách mệnh, để 
trong thì vận động và tổ chức quần 
chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp 
bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có 
vững, cách mệnh mới thành công” [3, 
tr.267]. Một chính đảng cách mạng, theo 
Chủ tịch Hồ Chí Minh, phải lấy chủ 
nghĩa Mác – Lê-nin làm nền tảng, lấy dân 
chúng công - nông làm gốc; đảng phải 
thống nhất, các đảng viên của Đảng phải 
bền gan, dũng cảm, dám hi sinh vì Tổ 
quốc, biết vận động dân chúng làm cách 
mạng, phải liên lạc và đoàn kết với giai 
cấp vô sản của các dân tộc khác. Chủ tịch 
Hồ Chí Minh đã học tập kinh nghiệm 
cách mạng Nga: “Cách mệnh Nga dạy 
chúng ta rằng muốn cách mệnh thành 
công thì phải có dân chúng (công nông) 
làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải 
bền gan, phải hi sinh, phải thống nhất. 
Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã 
Khắc Tư và Lê-nin” [3, tr.280]. Rõ ràng, 
Đảng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập ở 
đây là Đảng cách mạng, Đảng kiểu mới, 
khác về chất so với Duy tân hội, Việt 
Tư liệu tham khảo Số 7(73) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
178 
Nam Quang phục hội hay Việt Nam Quốc 
dân Đảng... Trong cách mạng xã hội chủ 
nghĩa, muốn thành công cũng cần có sự 
lãnh đạo của Đảng của giai cấp công 
nhân, là đại biểu lợi ích không chỉ của 
giai cấp công nhân, của nhân dân lao 
động mà còn của cả dân tộc. Đảng phải là 
đại biểu cho trí tuệ, lương tâm, danh dự 
của giai cấp công nhân và dân tộc Việt 
Nam. Để xây dựng thành công chủ nghĩa 
xã hội, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “Cần 
có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng 
chân chính của giai cấp công nhân, toàn 
tâm toàn ý phục vụ nhân dân” [12, 
tr.125]. Đảng cách mạng cầm quyền phải 
thường xuyên đấu tranh tự phê bình và 
phê bình, làm cho Đảng thực sự trong 
sạch, vững mạnh, gắn bó máu thịt với 
nhân dân. Đảng cách mạng là Đảng cầm 
quyền, cho nên, Chủ tịch Hồ Chí Minh 
yêu cầu “phải xứng đáng là người lãnh 
đạo, là người đầy tớ thật trung thành của 
nhân dân” [11, tr.498]. Chỉ khi nào, Đảng 
vừa là người lãnh đạo lại vừa là người 
đầy tớ thật trung thành của nhân dân thì 
khi ấy sự lãnh đạo của Đảng mới trở 
thành động lực phát triển cho cách mạng. 
Rõ ràng, vai trò lãnh đạo của Đảng đối 
với quần chúng nhân dân chỉ có được 
trong mối quan hệ gắn bó máu thịt với 
nhân dân, với vai trò làm đầy tớ trung 
thành của nhân dân. Nếu Đảng thực sự là 
người đầy tớ trung thành của nhân dân thì 
nhân dân mới tin Đảng, đi theo tiếng gọi 
của Đảng, chịu sự lãnh đạo của Đảng và 
thực hiện những chủ trương, đường lối 
mà Đảng đề ra. Chỉ khi ấy, Đảng mới 
thực hiện được vai trò lãnh đạo quần 
chúng nhân dân của mình. Như vậy, vai 
trò lãnh đạo và vai trò là người đầy tớ 
trung thành của nhân dân quan hệ chặt 
chẽ với nhau. Vai trò này chỉ có được khi 
thực hiện tốt vai trò kia và ngược lại, vai 
trò kia chỉ có được khi thực hiện tốt vai 
trò này. Điều này đã tạo nên mối quan hệ 
đặc biệt, mối quan hệ máu thịt giữa Đảng 
và nhân dân trong sự nghiệp cách mạng 
Việt Nam. Chính những điều này đã tạo 
nên động lực cho sự phát triển của cách 
mạng Việt Nam. Đây cũng là sự phát 
triển sáng tạo độc đáo trong triết lí Hồ 
Chí Minh - triết lí về sự gắn bó máu thịt 
giữa Đảng và nhân dân. 
Trên đây là những nội dung cơ bản 
trong triết lí phát triển Hồ Chí Minh. 
Điều này cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh 
có nhiều triết lí sống và hoạt động cách 
mạng, trong đó nổi bật là triết lí phát 
triển. Triết lí phát triển Hồ Chí Minh 
không tách rời mà liên hệ, gắn bó, tác 
động qua lại với những triết lí khác của 
Người. Triết lí phát triển Hồ Chí Minh đã 
trở thành phương châm sống, phương 
châm hành động, ứng xử của Người trong 
suốt cuộc đời hoạt động cách mạng vì 
mục tiêu “nước ta được hoàn toàn độc 
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng 
bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng 
được học hành”. Lộ trình và quy luật của 
cách mạng Việt Nam theo triết lí phát 
triển Hồ Chí Minh hơn 80 năm qua đã 
được chứng minh là hoàn toàn đúng đắn. 
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, 
những quan điểm trong triết lí phát triển 
Hồ Chí Minh là cơ sở lí luận để Đảng 
Cộng sản Việt Nam xây dựng triết lí phát 
triển đất nước trong thời kì đẩy mạnh 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn liền 
với phát triển kinh tế tri thức, hội nhập 
quốc tế. Vấn đề còn lại là ở việc cụ thể 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Nguyễn Tùng Lâm 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
179 
hóa triết lí phát triển đó và nhất là chỉ đạo 
thực hiện sao cho mang lại hiệu quả thực 
tế, thể hiện trong đường lối phát triển 
kinh tế, trong các chính sách xã hội, trong 
việc phòng chống các tệ nạn xã hội, đặc 
biệt là trong việc xây dựng, chỉnh đốn 
Đảng để Đảng vững mạnh, đủ sức lãnh 
đạo đất nước thực hiện triết lí phát triển, 
xây dựng và chấn hưng dân tộc theo tư 
tưởng Hồ Chí Minh 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, 
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, 
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
3. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
4. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
5. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
6. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
7. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
8. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
9. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
10. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
11. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
12. Hồ Chí Minh (1998), Về chủ nghĩa Mác – Lê-nin, về chủ nghĩa xã hội và con đường 
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 23-10-2013; ngày phản biện đánh giá: 10-3-2014; 
ngày chấp nhận đăng: 27-7-2015) 
CÁC SỐ TẠP CHÍ KHOA HỌC SẮP TỚI: 
 Số 8(74)/2015: Khoa học giáo dục 
 Số 9(75)/2015: Khoa học tự nhiên và công nghệ 
 Số 10(76)/2015: Khoa học xã hội và nhân văn. 
Ban biên tập Tạp chí Khoa học rất mong nhận được sự trao đổi thông tin 
của các đơn vị bạn và được bạn đọc thường xuyên cộng tác bài vở, góp ý xây dựng. 

File đính kèm:

  • pdftriet_li_phat_trien_ho_chi_minh_nhung_noi_dung_co_ban.pdf
Ebook liên quan