Truyền thông đại chúng trong xã hội hiện đại
Tóm tắt Truyền thông đại chúng trong xã hội hiện đại: ... ( ệffentlichkeit , tiếng Anh dịch là publicity hoặc public sphere ) mà Emmanuel Kant đó đề cập vào năm 1784, và nhấn mạnh rằng việc sử dụng lý tớnh trong 6 khụng gian cụng cộng chớnh là điều kiện để hỡnh thành nờn cụng luận, ...đúng vai trũ làm trung gian liờn lạc và tiếp xỳc trong nội bộ xó hội dõn sự, cũng như giữa xó hội dõn sự và cỏc thiết chế nhà nước. Hiểu theo ý nghĩa này, truyền thụng đại chỳng khụng phải là một lónh địa dành riờng cho những ...này cuối cựng sẽ dẫn tới hệ quả là làm cho cỏ nhõn trở nờn cụ lập hơn trong xó hội. Tocqueville từng núi rằng tư duy chỉ khởi sự khi người ta bắt đầu tin vào lời người khỏc. Con người khụng thể nào tự ...
Nguồn : Thời báo Kinh tế Sài Gịn , số 7 & 8, Xuân Mậu Tý, 722008, trang 1619. Truyền thơng đại chúng trong xã hội hiện đại Trần Hữu Quang Đâu là vai trị của truyền thơng đại chúng trong xã hội hiện đại ? Thế nào là “khơng gian cơng cộng” ? Internet cĩ thể thay thế được báo chí ? Dưới quan điểm xã hội học, truyền thơng đại chúng là một định chế xã hội chỉ xuất hiện trong xã hội hiện đại, hiểu theo nghĩa là đối lập với xã hội cổ truyền, phong kiến. Nĩ gĩp phần tạo ra một “khơng gian cơng cộng” vốn chưa hề cĩ trong các xã hội tiền tư bản – một khơng gian dành cho sự thảo luận cơng khai và dân chủ. Từ xã hội cổ truyền sang xã hội hiện đại Khi phân tích mối quan hệ giữa các hệ thống truyền thơng với các hệ thống xã hội, nhà xã hội học Mỹ Daniel Lerner, trong một bài đăng trên tạp chí Behavioral Science ra tháng 101957 , cho rằng một trong những điều kiện và 1 đặc điểm của quá trình chuyển đổi từ các xã hội cổ truyền sang các xã hội hiện đại chính là sự chuyển tiếp từ các hệ thống truyền thơng truyền miệng sang các hệ thống truyền thơng đại chúng . Các hệ thống truyền thơng đại chúng (như báo chí, xuất bản, phát thanh, 1 Daniel Lerner, "Communications System and Social Systems: Statistical Exploration in History and Policy," Behavioral Science , No. 2, Oct. 1957, tr. 266275. Daniel Lerner, “Systèmes de communications et systèmes sociaux” (bản dịch tiếng Pháp), trong Francis Balle và Jean Padioleau (Ed.), Sociologie de l’information, Textes fondamentaux , Paris, Nxb Larousse, 1973, tr. 131145. 2 1 truyền hình...) mang một số đặc điểm như sau : do những tổ chức chuyên nghiệp đảm trách ; đưa thơng tin ra cơng chúng một cách rộng rãi mà khơng phân biệt ai với ai ; và nội dung thơng điệp chủ yếu mang tính chất tường thuật chứ khơng phải là ra lệnh. Trong khi đĩ, đặc điểm của các hệ thống truyền thơng truyền miệng là truyền đạt thơng tin bằng cách nĩi trực tiếp (mặt đối mặt), và nội dung các thơng điệp chủ yếu mang tính chất mệnh lệnh (thí dụ : thời xưa, cửa quan thường ra thơng báo về sưu thuế, phu dịch, tuyển mộ binh lính...), và thường được phát ra theo hệ thống tơn ti trật tự trong xã hội. Sự thay đổi trong ứng xử truyền thơng này (chuyển từ truyền thơng truyền miệng sang truyền thơng đại chúng) cĩ liên quan chặt chẽ với những thay đổi khác về ứng xử trong hệ thống xã hội. Lerner kết luận rằng “ một hệ thống truyền thơng chính là một dấu chỉ và cũng đồng thời là một tác nhân của sự thay đổi trong tồn bộ một hệ thống xã hội .” Nĩi khác đi, hệ thống truyền thơng đại 2 chúng đã trở thành một trong những động lực của sự phát triển của xã hội. Theo Lerner, khi con người biết đọc biết viết, tức là khi thốt ra khỏi tình trạng mù chữ, thì bắt đầu cĩ được một khả năng cịn quan trọng hơn cả việc biết đọc biết viết. Đĩ là khả năng bước vào “thế giới của những kinh nghiệm gián tiếp”, tức là bước vào một thế giới mà trong đĩ các kinh nghiệm của người khác đã được tường thuật và ghi chép lại trên chữ viết qua sách vở, báo chí... Mặt khác, cũng chính nhờ đĩ mà người ta tăng cường được khả năng thấu cảm ( empathy ), tức là khả năng tự đặt mình vào vị trí của người khác để hiểu được người khác. Và chính nhờ cĩ khả năng này mà con người mới cĩ thể sống được 3 với nhau một cách hài hịa trong xã hội. Khả năng biết đọc biết viết cịn giúp cho con người hình thành được khả năng linh hoạt về trí tuệ ( psychic mobility ) vốn là một thuộc tính đặc trưng của con người trong xã hội hiện đại. Chính các phương tiện truyền thơng đại chúng là nhân tố gĩp phần mạnh nhất vào việc rèn luyện khả năng thấu cảm cũng như khả năng linh hoạt trí tuệ, khi chúng giúp cho con người tiếp xúc được với nhiều tư tưởng khác nhau và biết được những vấn đề cơng cộng của xã hội. 4 Khơng gian cơng cộng 2 Xem Daniel Lerner, bài đã dẫn, tr. 132133. 3 Daniel Lerner, bđd, tr. 142. 4 Xem Daniel Lerner, bđd, tr. 142. 2 1 Trong một cơng trình in năm 1962 , triết gia người Đức Jürgen Habermas 5 đã khai triển khái niệm “tính cơng cộng” hay “khơng gian cơng cộng” ( Ưffentlichkeit , tiếng Anh dịch là publicity hoặc public sphere ) mà Emmanuel Kant đã đề cập vào năm 1784, và nhấn mạnh rằng việc sử dụng lý tính trong 6 khơng gian cơng cộng chính là điều kiện để hình thành nên cơng luận, và đây cũng là điều kiện để thiết lập một nền dân chủ. Theo Kant, người độc thoại chỉ đối diện với chính mình ; chỉ khi tranh luận với người khác về những vấn đề cơng cộng thì người ta mới thốt ra khỏi những chuyện cục bộ, cá biệt, mới vượt qua được cái “tính thơ thiển” của mình. Theo Habermas, khơng gian cơng cộng là khơng gian mà trong đĩ bất cứ cá nhân nào cũng cĩ thể tham gia và trao đổi ý kiến với nhau mà khơng bị áp lực từ bên ngồi. Trên nguyên tắc, đây là nơi diễn ra những cuộc tranh luận mang tính chất lý tính và phê phán ( rationalcritical debate ), và do vậy đây chính là nơi kết tinh nên những ý kiến (cơng luận) và ý muốn của cơng chúng. Tính duy lý của sự đối thoại trong khơng gian cơng cộng giúp cho người ta vượt dần ra khỏi những lợi ích đặc thù để đạt tới một sự đồng thuận ( consensus ) giữa những người cĩ thiện chí với nhau. Trong xã hội thời Trung cổ, chưa hề cĩ khơng gian cơng cộng theo nghĩa này ; khơng gian này chỉ xuất hiện vào thời hiện đại trong xã hội tư bản chủ nghĩa như là một sự đối trọng để ngăn ngừa những quyền lực chuyên chế. Habermas cho rằng khơng gian cơng cộng khơng phải là nơi chỉ 7 dành riêng cho những người ưu tú và tài giỏi, mà bao gồm cả xã hội dân sự, các phương tiện truyền thơng đại chúng, các hiệp hội, các phong trào xã hội 8 Khơng gian cơng cộng đĩng vai trị trung gian giữa xã hội cơng dân và nhà nước, buộc nhà nước phải chịu trách nhiệm trước xã hội do “tính cơng cộng” của nĩ. Khơng gian cơng cộng tự nĩ mang tính chất phê phán bởi lẽ nĩ giả định 5 Jürgen Habermas, L'Espace public : Archéologie de la publicité comme dimension constitutive de la société bourgeoise , 1962. Dẫn lại theo Eric Maigret, Eric Maigret, Sociologie de la communication et des médias , Paris, Nxb Armand Colin, 2003, tr. 224. 6 Xem Emmanuel Kant, Idée d'une histoire universelle au point de vue cosmopolitique , 1784 (www.uqac.uquebec.ca/zone30/Classiques_des_sciences_ sociales/classiques). 7 Xem Eric Maigret, sđd, tr. 211. 8 Xem Eric Maigret, sđd, tr. 212214. Xem thêm Anthony Giddens, Social Theory and Modern Sociology , Stanford (California), Stanford University Press, 1996, tr. 236, 241242. 2 1 rằng phải cĩ những thơng tin về các hoạt động của nhà nước để cơng luận cĩ thể xem xét và phê phán các hoạt động này. Theo Habermas, chính các phương tiện 9 truyền thơng đại chúng là định chế điển hình nhất của khơng gian cơng cộng. Chúng đĩng vai trị làm trung gian liên lạc và tiếp xúc trong nội bộ xã hội dân sự, cũng như giữa xã hội dân sự và các thiết chế nhà nước. Hiểu theo ý nghĩa này, truyền thơng đại chúng khơng phải là một lãnh địa dành riêng cho những người cĩ quyền lực, những nhà truyền thơng hay các chuyên gia, mà là một nơi cĩ mục tiêu thực hiện cùng một lúc hai chức năng : vừa là nơi trình bày các kiến thức về xã hội con người, vừa là nơi diễn ra các mối quan hệ tiếp xúc, liên lạc giữa các tầng lớp, các khu vực, hay các nhĩm xã hội. Internet và khơng gian cơng cộng Sự ra đời của phương tiện Internet trong vài thập niên gần đây đã đặt ra nhiều vấn đề mới hết sức đáng quan tâm của định chế truyền thơng đại chúng trong xã hội hiện đại. Trong một cuốn sách xuất bản năm 2004, Serge Soudoplatoff nhận định rằng lịch sử của phương tiện Internet tương ứng với sự đụng độ giữa hai quan niệm khác nhau về cách thức tổ chức và quản trị. Một bên là phương thức tập trung hĩa, theo mơ hình cĩ trật tự thứ bậc và đẳng cấp, cịn một bên là trải ra thành những mạng lưới nối kết giữa những người cĩ cùng mối quan tâm hoặc cùng lợi ích. Theo Soudoplatoff, sự thành cơng đáng kinh ngạc của Internet cho thấy rằng người ta cĩ thể cĩ những mơ hình quản trị khác hiệu nghiệm hơn so với những mơ hình truyền thống dựa trên thứ bậc đẳng cấp : lơgic của Internet là chia sẻ quyền lực, nĩ là một cơng cụ tương tác và giao dịch giữa những tác nhân tích cực và ngang hàng với nhau, chứ khơng phải giữa một trung tâm phát sĩng với những khán giả thụ động như trong phương tiện truyền hình. 10 Nhưng cũng cĩ những tác giả khác lại tỏ ra bi quan hơn. Dominique Wolton (1999), một nhà xã hội học về truyền thơng đại chúng người Pháp, cho rằng Internet cĩ thể cĩ tác dụng làm “vỡ vụn” khơng gian cơng cộng hơn là tăng cường cho khơng gian này. Trong khi các phương tiện truyền thơng đại chúng 9 Xem Alain Létourneau, «Remarques sur le journalisme et la presse au regard de la discussion dans l'espace public», trong Patrick J. Brunet, L'éthique dans la société de l'information , Québec et Paris, Nxb Đại học Laval và L'Harmattan, 2001, tr. 49. 10 Serge Soudoplatoff, Avec Internet, ó allonsnous ? , Paris, Nxb Le Pommier, 2004. Dẫn lại theo tạp chí Futuribles , số 310, 72005, tr. 133134. 2 1 truyền thống chủ yếu đi theo cái lơgic “cung”, thì phương tiện Internet thiên về việc đáp ứng cái lơgic “cầu” : người sử dụng chỉ lo đi tìm cái mình cần, cái mình muốn, chứ khơng quan tâm tới những điều mà người khác muốn nĩi với mình. Theo Wolton, Internet khơng cĩ tác dụng nối kết giống như các phương tiện truyền thơng đại chúng trước đĩ. Và điều này cuối cùng sẽ dẫn tới hệ quả là làm cho cá nhân trở nên cơ lập hơn trong xã hội. Tocqueville từng nĩi rằng tư duy chỉ khởi sự khi người ta bắt đầu tin vào lời người khác. Con người khơng thể nào tự mình suy nghĩ tất cả mọi thứ, tự mình lý giải mọi chuyện trên đời. Chính vì thế mới cĩ vai trị quan trọng của những người “trung gian” trong lĩnh vực truyền thơng đại chúng như các nhà báo, chính trị gia, giới trí thức... Một trong những đặc trưng quan trọng trong lĩnh vực truyền thơng đại chúng mà người ta khơng nên quên, đĩ là xem với người khác, xem cái mà người khác đã xem (hay đã đọc), theo dõi những chuyện được coi là đáng quan tâm, đáng đưa ra bàn luận với nhau. 11 Nhà xã hội học Đức Ulrich Beck (1986) và nhà xã hội học Anh Anthony Giddens (1996) cho rằng sự phát triển của các cơng nghệ thơng tin và vi điện tử là một trong những điều kiện vật chất quan trọng làm thay đổi diện mạo các quan hệ xã hội, nhất là trong bối cảnh mà những làn ranh của các định chế chính trị truyền thống dần dần bị xĩa nhịa, nhường chỗ cho sự tham gia ngày một tích cực hơn của các cá nhân trong các “xã hội phản tỉnh” ( reflexive society ), phá vỡ sự độc quyền phát ngơn của các chuyên gia trong các lĩnh vực khoa học cũng như chính trị. Trong các xã hội hiện đại, việc thảo luận và việc ra quyết định trong 12 nhiều trường hợp đã vượt ra khỏi những vũ đài chính trị truyền thống như quốc hội hay chính phủ, cũng như vượt ra khỏi khuơn khổ của hình thức dân chủ đại diện. Những tầng lớp dân chúng bình thường hay những nhĩm thiểu số vốn trước đây khơng cĩ quyền phát ngơn, nay cĩ nhiều cơ hội hơn để lên tiếng. Hiện tượng blog trong những năm gần đây là một bằng chứng sinh động. Các cá nhân 11 Xem Dominique Wolton, Internet et après ? Une théorie critique des nouveaux médias , Paris, Nxb Flammarion, 1999, dẫn lại theo Eric Maigret, sđd, tr. 267. 12 Xem Anthony Giddens, sđd, tr. viiiix, Ulrich Beck, La société du risque. Sur la voie d'une autre modernité (1986) (bản dịch tiếng Pháp), Paris, Nxb Flammarion, 2001, tr. 418419, 427. 2 1 giờ đây ngày càng cĩ điều kiện tiếp cận trực tiếp những thơng tin vốn trước đây phải thơng qua sự chọn lọc của các nhà báo. Nhưng nĩi như thế phải chăng cĩ nghĩa là Internet cĩ thể đi đến chỗ “ phi trung giới hĩa ” ( desintermediation ) lĩnh vực thơng tin trong xã hội hiện đại ? Phải chăng kể từ nay, nhờ cĩ Internet, mọi người đều cĩ thể tự mình trực tiếp biết mọi chuyện và hiểu mọi chuyện mà khơng cần cĩ các định chế trung giới như báo chí hay sách vở, xã hội sẽ khơng cịn cần đến vai trị của những người “trung gian” (như nhà báo, nhà chính trị, giới trí thức...) ? Phải chăng “ mass média ” (các phương tiện truyền thơng đại chúng) nay đang tan rã để trở thành “ média des masses ” (các phương tiện truyền thơng của đại chúng, hay là do đại chúng thực hiện), nếu nĩi như cái tựa của một cuốn sách của Joël de Rosnay và Carlo Revelli mới xuất bản năm 2006 ? Chúng tơi nghĩ khơng phải như thế. Chúng tơi cho rằng sự phát triển hiện nay của Internet và các loại hình truyền thơng trên Internet chỉ cĩ nghĩa là thẩm quyền của những vai trị “trung gian” ấy ngày nay chỉ cịn mang tính chất tương đối , và cách thức hoạt động của họ, đặc biệt là giới nhà báo cũng như các nhà chính trị, cũng phải thay đổi chứ khơng thể tiếp tục như trước được nữa. Sự xuất hiện của Internet hay các blog làm cho người ta bây giờ cĩ quyền địi hỏi nhiều hơn đối với những vai trị trung gian ấy. Internet tự nĩ khơng thể làm tan rã “khơng gian cơng cộng”, hiểu theo nghĩa của Habermas. Mặt khác, nĩ cũng khơng thể (hay chưa thể ?) thay thế các định chế truyền thơng đại chúng hiện hành để trở thành phương tiện duy nhất của khơng gian cơng cộng. Nhưng điều hiển nhiên khĩ cĩ ai chối cãi là nĩ đang gĩp phần mở rộng “khơng gian cơng cộng” của xã hội hiện đại một cách khơng thể đảo ngược được nữa. TPHCM, ngày 27122007 T.H.Q. 2 1
File đính kèm:
- truyen_thong_dai_chung_trong_xa_hoi_hien_dai.pdf