Tư tưởng cơ bản của Ph. Ângghen về tôn giáo - cơ sở lí luận khoa học nhận thức mới của Đảng về tôn giáo và công tác tôn giáo
Tóm tắt Tư tưởng cơ bản của Ph. Ângghen về tôn giáo - cơ sở lí luận khoa học nhận thức mới của Đảng về tôn giáo và công tác tôn giáo: ... t− t−ởng của Ph. Ăngghen về thái độ của Đảng công nhân đối với tôn giáo. Trên cơ sở phân tích sự câu kết giữa tôn giáo với giai cấp bóc lột, Ph. Ăngghen đã đ−a ra luận điểm: “Tách hẳn nhà thờ ra khỏi nhà n−ớc. Tất cả những đoàn thể tôn giáo, không trừ một đoàn thể nào, đều sẽ đ−ợc n... Đây là luận điểm mang tính đột 9. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 19, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 436. 10. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 20, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1994, tr. 439. Nguyễn Tiến Ph−ơng. T− t−ởng cơ bản của Ph. ăngghen 7 7 phá trong nhận thức của Đảng ta về vấn đề ...hống chế độ cần đ−ợc đặc biệt coi trọng, nhằm làm thất bại các âm m−u, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Thứ hai, công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do...
uận tiện, cụ thể và có thể thích ứng đ−ợc với tất cả mọi tình hình đó, tôn giáo vẫn có thể tiếp tục tồn tại với t− cách là một hình thức trực tiếp, nghĩa là một hình thức cảm xúc trong quan hệ của con ng−ời đối với các lực l−ợng xa lạ, tự nhiên và xã hội đang thống trị họ. Nh−ng chúng ta đã nhiều lần thấy rằng trong xã hội t− sản hiện nay, con ng−ời bị thống trị bởi những quan hệ kinh tế do chính họ tạo ra, những t− liệu sản xuất do chính họ sản xuất ra. Do đó cở sở thực tế của sự phản ánh có tính chất tôn giáo của hiện thực vẫn tiếp tục tồn tại và cùng với cơ sở đó thì chính ngay sự phản ánh của nó trong tôn giáo cũng tiếp tục tồn tại”(3). Thứ hai, t− t−ởng của Ph. Ăngghen về bản chất của tôn giáo. Ph. Ăngghen đã nêu một luận điểm nổi tiếng: “Nh−ng tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh h− ảo - vào trong đầu óc của con ng−ời - của những lực l−ợng ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là phản ánh trong đó những lực l−ợng ở trần thế đã mang hình thức những lực l−ợng siêu trần thế”(4). Nh− vậy, Ph. Ăngghen khẳng định rất rõ ràng, bản chất của tôn giáo là sự phản ánh h− ảo hiện thực khách quan 2, 3. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 20, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 437 - 438. 4. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 20, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 437. Nguyễn Tiến Ph−ơng. T− t−ởng cơ bản của Ph. ăngghen 5 5 vào đầu óc con ng−ời. Với ý nghĩa đó, tôn giáo đã h−ớng con ng−ời tin vào cái không có thực, lấy cái không có thực để giải quyết những vấn đề hiện thực. Ph. Ăngghen cho rằng: “Theo bản chất của nó, tôn giáo là sự rút hết toàn bộ nội dung của con ng−ời và giới tự nhiên, là việc chuyển nội dung đó sang cái bóng ma. Th−ợng đế ở bên kia thế giới, Th−ợng đế này, sau đó, do lòng nhân từ, lại trả về cho con ng−ời và giới tự nhiên một chút ân huệ của mình”(5). Vì phản ánh h− ảo hiện thực khách quan, đến một giai đoạn nào đó lòng tin vào tôn giáo bị giảm sút, nh−ng sự giảm sút đó diễn ra hết sức khó khăn. Ph. Ăngghen luận giải: “Lòng tin dần yếu đi, tôn giáo tan rã tr−ớc mặt nền văn hóa ngày càng phát triển, nh−ng con ng−ời vẫn ch−a hiểu rằng họ đã nghiêng mình tr−ớc bản chất của chính mình và đã thần thánh hóa nó nh− là một bản chất xa lạ nào đó. Nằm trong trạng thái vô thức nh− vậy, và đồng thời trong trạng thái không có tín ng−ỡng, con ng−ời không thể có một nội dung tinh thần nào cả, nó tất yếu phải thất vọng đối với chân lí, lí tính và giới tự nhiên, sự trống rỗng và không có nội dung nào đó, sự thiếu tin t−ởng vào những sự kiện vĩnh cửu của vũ trụ, sẽ tiếp tục tồn tại cho tới khi nhân loại hiểu đ−ợc rằng bản chất mà nhân loại sùng bái với t− cách là Th−ợng đế là bản chất của chính mình, nh−ng cho đến nay nhân loại vẫn ch−a biết đ−ợc, sẽ tiếp tục tồn tại”(6). Thứ ba, t− t−ởng của Ph. Ăngghen về thái độ của Đảng công nhân đối với tôn giáo. Trên cơ sở phân tích sự câu kết giữa tôn giáo với giai cấp bóc lột, Ph. Ăngghen đã đ−a ra luận điểm: “Tách hẳn nhà thờ ra khỏi nhà n−ớc. Tất cả những đoàn thể tôn giáo, không trừ một đoàn thể nào, đều sẽ đ−ợc nhà n−ớc coi nh− là những hội t− nhân. Những đoàn thể ấy không còn đ−ợc trợ cấp bằng quỹ công nữa và mất hết mọi ảnh h−ởng đối với các tr−ờng học. “Tuy nhiên, ng−ời ta không thể nào cấm những đoàn thể ấy thành lập những nhà tr−ờng riêng của họ bằng những ph−ơng tiện riêng của họ và dạy ở đó những điều ngu xuẩn của họ(7)”. Đây là luận điểm hết sức quan trọng có vai trò định h−ớng cho Đảng công nhân có thái độ ứng xử phù hợp với các tôn giáo coi tôn giáo là việc cá nhân. Luận điểm đó, một mặt tỏ rõ thái độ của Đảng công nhân phải là ng−ời vô thần, mặt khác tôn trọng tự do tôn giáo của một bộ phận nhân dân. Nhiệm vụ của Đảng công nhân là phải truyền bá t− t−ởng khoa học. Ph. Ăngghen viết: “Giản đơn nhất là truyền bá trong công nhân những sách báo duy vật chủ nghĩa tuyệt vời của Pháp của thế kỉ tr−ớc, những sách báo mà cho đến nay, cả về hình thức lẫn nội dung, đều là thành tựu cao nhất của tinh thần n−ớc Pháp, những sách báo ấy, nếu xét về trình độ khoa học lúc bấy giờ, thì hiện nay vẫn có giá trị về mặt nội dung, vẫn là một mẫu mực ch−a bao giờ có thể với tới đ−ợc về mặt hình thức”(8). Bên cạnh phải truyền bá t− t−ởng tiến bộ trong giai cấp công nhân, Ph. Ăngghen cũng đ−a ra những t− t−ởng định h−ớng ph−ơng pháp giải quyết vấn đề tôn giáo. Ph. Ăngghen viết: “Cái tôn 5, 6. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 1, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 815. 7. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 22, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 350. 8. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 18, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 718. 6 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2013 6 giáo mà đế chế La Mã thế giới phải phục tùng và đã thống trị một phần hết sức to lớn loài ng−ời văn minh trong suốt 1.800 năm thì ng−ời ta không thể nào thanh toán đ−ợc nếu chỉ tuyên bố một cách giản đơn nó là cái vô nghĩa do những kẻ lừa dối tạo ra. Muốn thanh toán cái tôn giáo ấy thì tr−ớc hết cần phải biết giải thích nguồn gốc và sự phát triển của nó, xuất phát từ những điều kiện lịch sử mà nó đã xuất hiện và đạt đ−ợc sự thống trị”(9). Ph. Ăngghen đã phê phán Đuy-rinh trong giải quyết vấn đề tôn giáo là ra những đạo luật chống tôn giáo và tung bọn hiến binh truy kích tôn giáo. Ph. Ăngghen viết: “Ông Đuy-rinh không thể chờ đợi cho đến khi tôn giáo chết cái chết tự nhiên đó của nó. Ông ta làm một cách căn bản hơn. Ông ta tỏ ra là Bixmác hơn cả Bixmác; ông ra những đạo luật tháng Năm còn nghiêm ngặt hơn, không chỉ chống đạo Thiên Chúa, mà còn chống cả mọi tôn giáo nói chung nữa; ông ta tung bọn hiến binh t−ơng lai của ông ta ra truy kích tôn giáo, và do đó, ông ta giúp cho tôn giáo đạt tới chỗ thực hiện tinh thần tử vì đạo và kéo dài thêm sự tồn tại của nó”(10). Trên cơ sở t− t−ởng chủ nghĩa Mác- Lênin, t− t−ơng Hồ Chí Minh nói chung và t− t−ởng của Ph. Ăngghen nói riêng, Đảng ta đã đ−a ra nhận thức mới về tôn giáo và công tác tôn giáo. Thực chất nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo là quá trình nhận thức lại lí luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, t− t−ởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và công tác tôn giáo, trên cơ sở đó bổ sung và làm phong phú thêm lí luận này cho phù hợp với thực tiễn đổi mới ở n−ớc ta hiện nay. Nội dung nhận thức mới của Đảng ta về tôn giáo Thứ nhất, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Quan điểm trên đã chỉ rõ: Nhu cầu về tôn giáo là nhu cầu có thật và chính đáng của một bộ phận quần chúng nhân dân. Tôn trọng và thỏa mãn nhu cầu này chính là tôn trọng sự thật, tôn trọng khách quan và tôn trọng con ng−ời. Việc khẳng định trên đã khắc phục tình trạng phân biệt giữa L−ơng - Giáo, tạo nên bầu không khí mới trong quan hệ cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Kể từ sau Nghị quyết 24 của Bộ Chính trị (khóa VI), Đảng ta còn có nhiều văn kiện khác thể hiện t− duy mới về tôn giáo và công tác tôn giáo. Đặc biệt là, Chỉ thị 37-CT/TW ngày 2/7/1998 của Bộ Chính trị “Về công tác tôn giáo trong tình hình mới”, một văn kiện quan trọng lần đầu tiên đ−ợc đăng tải công khai trên báo Nhân dân và hàng loạt báo khác. Tại Hội nghị Trung −ơng 7 (Khóa IX), với Nghị quyết số 25 (12/3/2003) “Về công tác tôn giáo”, lần đầu tiên trong lịch sử Đảng ta, vấn đề tôn giáo đ−ợc đ−a ra bàn bạc, quyết định ở cấp Ban Chấp hành Trung −ơng. Thứ hai, tôn giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở n−ớc ta, sự tồn tại của các tôn giáo đã và đang là một thực tế khách quan. Đây là luận điểm mang tính đột 9. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 19, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 436. 10. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 20, Nxb. CTQG, Hà Nội, 1994, tr. 439. Nguyễn Tiến Ph−ơng. T− t−ởng cơ bản của Ph. ăngghen 7 7 phá trong nhận thức của Đảng ta về vấn đề tôn giáo. Nó mở ra một lối thoát cho cách nhìn siêu hình, định kiến tồn tại ở một số cán bộ chính quyền địa ph−ơng. Về t− t−ởng, thừa nhận sự khác biệt về thế giới quan tìm ra điểm t−ơng đồng chung để thống nhất, đoàn kết toàn dân tộc, đã đ−a đến môi tr−ờng đồng thuận rộng rãi tích cực trong xã hội. Trên bình diện văn hóa, đồng bào có đạo đã tích cực tham gia h−ởng ứng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân c−, xây dựng gia đình văn hóa. Trên bình diện chính trị, xã hội, mối quan hệ giữa Nhà n−ớc với các giáo hội ngày càng đ−ợc cải thiện. Thứ ba, đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở n−ớc ta. Nghị quyết số 24/NQ-TW của Bộ Chính trị khóa VI, đã nhận định: “Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới”(11). Đại hội X của Đảng ta chỉ rõ: “Phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo”(12). Đây là sự khẳng định đúng thực tế khách quan, đạo đức tôn giáo đã có đóng góp nhất định vào quá trình kìm hãm tốc độ suy thoái đạo đức tr−ớc tác động của mặt trái kinh tế thị tr−ờng và lối sống tiêu thụ. Việc khẳng định đó có ý nghĩa to lớn trong huy động mọi nguồn lực tham gia vào sự nghiệp đổi mới hiện nay, nhất là kế thừa, phát huy những yếu tố hợp lí, những giá trị văn hóa đạo đức tôn giáo vào việc xây dựng nền đạo đức mới, nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Nếu lọc bỏ những nội dung có sắc màu tôn giáo, những chuẩn mực đạo đức tôn giáo có đóng góp to lớn trong giải quyết mối hệ giữa ng−ời với ng−ời, xây dựng tình yêu th−ơng con ng−ời. Với quan điểm đó của Đảng ta, đã động viên đồng bào tôn giáo tích cực tham gia các hoạt động nhân đạo, từ thiện, xã hội, y tế, giáo dục, phong trào xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân c−; giúp nhau xóa đói, giảm nghèo; trợ giúp ng−ời khó khăn, cơ nhỡ trong cộng đồng; phòng chống các tệ nạn xã hội, giữ bình yên cho gia đình, thôn xóm và an toàn, trật tự mỗi cơ sở, mỗi khu dân c−. Quan điểm trên là nguồn động lực to lớn, tạo nên niềm phấn khởi, cổ vũ đồng bào các tôn giáo, nhất là các tín đồ, chức sắc tiến bộ, tích cực tham gia vào phong trào thi đua yêu n−ớc, xây dựng các cộng đồng tôn giáo ngày càng phồn vinh hạnh phúc, “sống tốt đời đẹp đạo”, “kính Chúa yêu n−ớc”, “n−ớc vinh đạo sáng”, “sống phúc âm giữa lòng dân tộc”. Thứ t−, đồng bào các tôn giáo là một bộ phận quan trọng trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây là ph−ơng h−ớng chung thể hiện đầy đủ nhất quan điểm của Đảng về tôn giáo. Sự khẳng định trên nhằm định h−ớng việc hoạch định các chủ tr−ơng, chính sách của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu dân giàu, n−ớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự khẳng định trên có sức cổ vũ mạnh mẽ mọi ng−ời Việt Nam xóa bỏ bớt mặc cảm, định kiến, xây dựng lòng tin và môi tr−ờng đồng thuận để cùng nhau gắn bó với lợi ích chung của đất n−ớc. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung −ơng khóa IX, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2003, tr. 46. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2006, tr. 122. 8 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2013 8 Nhận thức mới của Đảng ta về công tác tôn giáo Thứ nhất, công tác tôn giáo có nội dung cốt lõi là vận động quần chúng. Điểm mới trong nhận thức của Đảng ta về công tác tôn giáo hiện nay chính là việc khẳng định vai trò “cốt lõi” của công tác vận động quần chúng trong công tác tôn giáo. Điều này là hoàn toàn phù hợp cả về lí luận và thực tiễn. Bởi vì, công tác tôn giáo bao gồm nhiều hoạt động, thuộc nhiều lĩnh vực, song nổi lên 3 mặt hoạt động chính là: quản lí nhà n−ớc về tôn giáo, đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo và công tác vận động quần chúng. Ba mặt hoạt động này có quan hệ ảnh h−ởng, bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau. Trong đó công tác vận động quần chúng phải là nội dung cốt lõi, xuyên xuốt, nền tảng chi phối các mặt công tác khác. Các mặt công tác khác chỉ thành công khi biết dựa vào và làm tốt công tác vận động quần chúng. Khẳng định nội dung cốt lõi của công tác tôn giáo là công tác vận động quần chúng, không có nghĩa là đồng nhất công tác tôn giáo với công tác vận động quần chúng. Ng−ợc lại, trong điều kiện mới, nhất là khi các thế lực thù địch đang tăng c−ờng lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng, thì công tác quản lí nhà n−ớc về tôn giáo và công tác đấu tranh chống địch lợi dụng tôn giáo chống chế độ cần đ−ợc đặc biệt coi trọng, nhằm làm thất bại các âm m−u, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Thứ hai, công tác tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Tôn giáo là một hiện t−ợng xã hội phức tạp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, do đó, công tác tôn giáo không chỉ là trách nhiệm của chính quyền, các cơ quan chức năng mà còn là trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, của toàn bộ hệ thống chính trị. Trong Điều 7 của “Pháp lệnh Tín ng−ỡng, Tôn giáo” của Quốc hội n−ớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định rõ: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có tránh nhiệm: Tập hợp đồng bào có tín ng−ỡng, tôn giáo và đồng bào không có tín ng−ỡng, tôn giáo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phản ánh kịp thời ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân về các vấn đề có liên quan đến tín ng−ỡng, tôn giáo với cơ quan nhà n−ớc có thẩm quyền; tham gia tuyên truyền, vận động chức sắc, nhà tu hành, tín đồ, ng−ời có tín ng−ỡng, các tổ chức tôn giáo và nhân dân thực hiện pháp luật về tín ng−ỡng, tôn giáo; tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ng−ỡng, tôn giáo. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan Nhà n−ớc chủ động phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong việc tuyên truyền, vận động thực hiện chính sách, pháp luật về tín ng−ỡng, tôn giáo. Thứ ba, thực hiện có hiệu quả chủ tr−ơng, chính sách và ch−ơng trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống Nguyễn Tiến Ph−ơng. T− t−ởng cơ bản của Ph. ăngghen 9 9 vật chất, văn hóa của đồng bào các tôn giáo. Đây cũng là trách nhiệm của công tác tôn giáo, để giúp đồng bào các tôn giáo, bên cạnh niềm tin tôn giáo là niềm tin có cơ sở thực tế vào đ−ờng lối, chính sách của Đảng và Nhà n−ớc. Với quan điểm trên, đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa ph−ơng cần tăng c−ờng đầu t− và thực hiện có hiệu quả các dự án, ch−ơng trình, mục tiêu quốc gia, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội, xóa đói, giảm nghèo cho nhân dân các vùng khó khăn, đặc biệt quan tâm các vùng đông đồng bào có đạo và vùng dân tộc thiểu số. Quan tâm giải quyết hợp lí nhu cầu tín ng−ỡng của quần chúng; tôn trọng tín ng−ỡng truyền thống của đồng bào các dân tộc và đồng bào có đạo. Thông qua đó tăng c−ờng sự đồng thuận giữa những ng−ời có tín ng−ỡng, tôn giáo khác nhau; đồng thời, tạo cơ sở để đấu tranh chống những tà đạo, những hoạt động mê tín dị đoan, lợi dụng tôn giáo làm ph−ơng hại đến lợi ích của quốc gia. Thực hiện chính sách nhất quán về tôn giáo của Đảng, Nhà n−ớc là cơ sở để đồng bào các tôn giáo không chỉ quan tâm đến “việc đạo” mà còn quan tâm cả “việc đời”, quan tâm đến cuộc sống hiện thực của cá nhân và cả cộng đồng, nhất là thấy đ−ợc quyền và nghĩa vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thứ t−, bảo hộ các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật. Tự do tín ng−ỡng, tôn giáo là một quyền nhân thân cơ bản của nhân dân cũng đ−ợc đề cập trong Bộ luật Dân sự, đ−ợc bảo vệ bằng pháp luật và đ−ợc cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật ngày càng ở mức độ cao hơn, hoàn thiện hơn. Sau 5 năm thực hiện, Nghị định số 26/1999/NĐ-CP, “Về các hoạt động tôn giáo” đã đ−ợc thay thế bằng “Pháp lệnh Tín ng−ỡng, Tôn giáo”. Sự ra đời của “Pháp lệnh Tín ng−ỡng, Tôn giáo” là một minh chứng, một b−ớc tiến và một lần nữa tiếp tục khẳng định nguyên tắc nhất quán trong chủ tr−ơng, chính sách của Đảng và Nhà n−ớc ta là tôn trọng tự do tín ng−ỡng, tôn giáo. Thực tế, những chủ tr−ơng, chính sách tín ng−ỡng, tôn giáo không phải chỉ đ−ợc khẳng định ở Hiến pháp, pháp luật hay trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng mà đ−ợc thể hiện sống động trong cuộc sống hằng ngày. Cho đến nay, Nhà n−ớc ta đã công nhận t− cách pháp nhân cho 13 tổ chức tôn giáo và tiếp tục xem xét theo tinh thần của “Pháp lệnh Tín ng−ỡng, Tôn giáo”. Có thể khẳng định, hoạt động tín ng−ỡng, tôn giáo đã và đang diễn ra bình th−ờng ở mọi nơi trên đất n−ớc Việt Nam. Rõ ràng là chỉ có trên cơ sở đó, các chế tài pháp luật, các biện pháp quản lí nhà n−ớc về đất đai, xuất bản, đối ngoại, giáo dục - đào tạo và các quy định của chính quyền các cấp liên quan đến tôn giáo mới có tính khả thi, mang lại hiệu quả; công tác chống địch lợi dụng tín ng−ỡng, tôn giáo tuyên truyền mê tín dị đoan, trục lợi cá nhân, lợi dụng tôn giáo vào các mục đích chống đối Đảng, Nhà n−ớc và chế độ, phòng chống các tệ nạn xã hội và những biểu hiện không lành mạnh trong đời sống văn hóa xã hội mới đ−ợc sự hỗ 10 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 2 - 2013 10 trợ và sự tham gia tích cực, tự giác của đồng bào có đạo, các biện pháp chống phản động trong tôn giáo mới thiết thực. Thứ năm, ngăn chặn các hoạt động mê tín dị đoan, các hành vi lợi tín ng−ỡng, tôn giáo làm ph−ơng hại đến lợi ích chung của đất n−ớc, vi phạm tự do tôn giáo của nhân dân. Công tác tôn giáo không đơn thuần là công tác t− t−ởng, mà cốt lõi là công tác vận động quần chúng, tổ chức thuyết phục giáo dục quần chúng quán triệt, thực hiện thắng lợi đ−ờng lối, chính sách của Đảng. Đó là cuộc đấu tranh gay go quyết liệt và phức tạp làm thất bại âm m−u thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng lợi dụng tôn giáo để lôi kéo mua chuộc quần chúng chống phá cách mạng Việt Nam. Công tác tôn giáo có tác động lớn đến xây dựng, phát triển lực l−ợng cách mạng của quần chúng, có ảnh h−ởng lớn đến quá trình tồn tại, phát triển của dân tộc, của đất n−ớc và sự sống còn của toàn bộ sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Do đó, ngoài việc phải tăng c−ờng đầu t− và đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, văn hóa cho nhân dân các vùng khó khăn, đặc biệt là đồng bào tôn giáo, “tạo điều kiện cho các tôn giáo hoạt động bình th−ờng theo đúng chính sách, pháp luật của Nhà n−ớc”(13), nhằm bảo vệ quyền tự do tôn giáo của nhân dân thì cũng phải thực hiện tốt sự bảo hộ của Nhà n−ớc về các hoạt động tôn giáo hợp pháp, đúng pháp luật, đảm bảo cho các sinh hoạt tín ng−ỡng, tôn giáo của tín đồ, chức sắc đ−ợc diễn ra bình th−ờng, ổn định; kiên quyết ngăn chặn có hiệu quả hoạt động lợi dụng tự do tín ng−ỡng, tôn giáo chống phá sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Nh− vậy, từ khi có Nghị quyết số 24 - NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VI), nhất là sau Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung −ơng khóa IX đến nay, nhận thức của Đảng ta về tôn giáo và công tác tôn giáo đã có sự đổi mới một cách hệ thống, đồng bộ, trên tất các mặt từ t− duy đến hành động, từ t− t−ởng đến tổ chức. Điều đó đã góp phần to lớn làm “hạ nhiệt” các “điểm nóng” tôn giáo, ổn định tình hình chính trị trong n−ớc vì mục tiêu dân giầu, n−ớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh./. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung −ơng khóa IX, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2003, tr. 51.
File đính kèm:
- tu_tuong_co_ban_cua_ph_angghen_ve_ton_giao_co_so_li_luan_kho.pdf