Tư tưởng của Immanuel Kant về biện chứng của quá trình nhận thức

Tóm tắt Tư tưởng của Immanuel Kant về biện chứng của quá trình nhận thức: ...a từ trực quan cảm tính lên tư duy trừu tượng như bước nhảy vọt trong từng giai đoạn của quá trình nhận thức. Theo nhận xét của Hegel, "Đây là một thành tựu rất quan trọng của nhận thức triết học, bởi vì bằng điều đó... vận động của tư duy được đề cao" (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 1997, tr... Phản đề: "Thế giới không có một khởi đầu và không có ranh giới trong không gian nhưng là vô tận về thời gian lẫn không gian” (I. Kant, 2004, tr. 762). Nghịch lý thứ hai Chính đề: "Một bản thể đa hợp trong thế giới bao gồm những đơn tố và không có gì tồn tại mà bản thân không phải là đơ...ính con người mà không thấy mâu thuẫn còn có trong hiện thực khách quan, trong khi đó triết học Mác- Lênin cho rằng mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật hiện tượng, từ tự nhiên, xã hội đến tư duy. Thêm vào đó, những nghịch lý mà ông nêu ra là chưa phải là mâu thuẫn biện chứng vì gi...

pdf5 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 314 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tư tưởng của Immanuel Kant về biện chứng của quá trình nhận thức, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC XAÕ HOÄI SOÁ 1(173)-2013 1
 TRIEÁT HOÏC - CHÍNH TRÒ HOÏC - LUAÄT HOÏC
TƯ TƯỞNG CỦA IMMANUEL KANT VỀ BIỆN CHỨNG 
CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC 
ĐẶNG THỊ ÁNH NGUYỆT 
TÓM TẮT 
Trong tư tưởng triết học của Immanuel 
Kant, nhận thức luận là một trong những 
nội dung được ông dành nhiều tâm huyết. 
Điều đó thể hiện trong tác phẩm “Phê phán 
lý tính thuần túy”. Tác phẩm là sự nghiên 
cứu của Kant về khả năng nhận thức của 
con người, trong đó nổi bật lên tư tưởng 
biện chứng về quá trình nhận thức. Đây 
cũng chính là điểm mà triết học Mác-Lênin 
kế thừa để xây dựng nên triết học duy vật 
biện chứng. Bài viết phân tích và làm sáng 
tỏ biện chứng của quá trình nhận thức 
trong tư tưởng của Immanuel Kant. 
1. DẪN NHẬP 
F. Engels từng nói "một dân tộc muốn 
đứng trên đỉnh cao của khoa học thì không 
thể không có tư duy lý luận", nhưng muốn 
phát triển và hoàn thiện tư duy lý luận "thì 
cho tới nay không còn một cách nào khác 
hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời 
trước". Bởi lẽ, triết học chính là sản phẩm 
tinh túy nhất của mỗi dân tộc, nó phản ánh 
sâu sắc nhất, đầy đủ nhất thực tiễn xã hội 
sinh động của mỗi thời đại. 
Triết học cổ điển Đức là một mốc son 
trong dòng chảy tư tưởng triết học của 
nhân loại mà Immanuel Kant là người sáng 
lập. Ông là nhà văn hóa lớn của phương 
Tây thế kỷ XVIII-XIX. Triết học Kant bao 
gồm triết học lý luận (lý tính lý thuyết hay 
theo như cách gọi của Kant là lý tính tư 
biện) và triết học thực tiễn. Lý luận nhận 
thức chiếm vai trò quan trọng trong hệ 
thống triết học của ông, trong đó nổi bật 
lên tư tưởng biện chứng về quá trình nhận 
thức. Theo Kant, nhận thức là một quá 
trình biện chứng, điều đó thể hiện ở mối 
quan hệ giữa trực quan cảm tính và tư duy 
giác tính và những nghịch lý của nhận thức 
lý tính.
2. TƯ TƯỞNG CỦA IMMANUEL KANT VỀ 
BIỆN CHỨNG CỦA QUÁ TRÌNH NHẬN 
THỨC 
2.1. Mối quan hệ giữa trực quan cảm tính 
và tư duy giác tính 
Trong lịch sử triết học khi giải quyết những 
vấn đề thường có hai khuynh hướng cực 
đoan là chủ nghĩa duy cảm và chủ nghĩa 
duy lý. Những người theo chủ nghĩa duy 
cảm cường điệu vai trò của nhận thức cảm 
tính, cảm giác, hạ thấp vai trò của nhận 
thức lý tính, của tư duy. Trái lại, những 
người theo chủ nghĩa duy lý khuếch đại vai 
trò của nhận thức lý tính, hạ thấp vai trò 
của nhận thức cảm tính, coi cảm tính là 
không đáng tin cậy. Tuy có những yếu tố Đặng Thị Ánh Nguyệt. Trường Đại học Đồng 
Nai. 
ĐẶNG THỊ ÁNH NGUYỆT – TƯ TƯỞNG CỦA IMMANUEL KANT 
2 
Theo Kant, quá trình nhận thức con người 
trải qua ba giai đoạn, đi từ trực quan cảm 
tính đến tư duy giác tính và đi đến nhận 
thức lý tính. Những hình ảnh do trực quan 
cảm tính mang lại còn lộn xộn và chưa có 
tính hệ thống nên phải nhờ đến hệ thống 
các phạm trù trong tư duy giác tính. Cũng 
không thể xem nhẹ giai đoạn trực quan 
cảm tính vì các phạm trù là những khái 
niệm chỉ dùng để điều chỉnh và sắp xếp 
kinh nghiệm. Nếu chỉ lấy bản thân chúng 
để nói, bên ngoài mọi nội dung được chứa 
đựng trong đó được làm bằng một chất 
liệu do chúng ta cảm nhận (mà nếu không 
có những khái niệm ấy thì không thể cảm 
nhận được), thì những khái niệm ấy sẽ 
trống rỗng, điều đó Kant thể hiện ở luận 
điểm nền tảng “những tư tưởng không có 
nội dung thì trống rỗng, những trực quan 
không có khái niệm là mù quáng” (I. Kant, 
2004, tr. 200). 
Nhận ra sự thống nhất biện chứng giữa 
trực quan sinh động và tư duy giác tính là 
quan điểm tiến bộ của Kant. Với Kant: 
“Trực quan và những khái niệm tạo nên 
các yếu tố của mọi nhận thức chúng ta, 
khiến cho những khái niệm mà không có 
trực quan tương ứng bằng một cách nào 
đó cũng như trực quan mà không có khái 
niệm đều không thể mang lại nhận thức 
nào cả”, hay “chúng ta không thể suy 
tưởng về đối tượng mà không nhờ các 
phạm trù; chúng ta cũng không thể nhận 
thức các đối tượng được suy tưởng mà 
không nhờ các trực quan tương ứng với 
các khái niệm ấy” (I. Kant, 2004, tr. 200). 
Nghĩa là, trong quan điểm của Kant, nhận 
thức cảm tính và nhận thức giác tính có 
mối quan hệ biện chứng sâu sắc, giữa hai 
giai đoạn nhận thức có mối liên hệ chặt 
chẽ với nhau. Kant đã nhận thấy được sự 
khác biệt và thống nhất giữa hai giai đoạn, 
sự chuyển hóa từ trực quan cảm tính lên 
tư duy trừu tượng như bước nhảy vọt 
trong từng giai đoạn của quá trình nhận 
thức. Theo nhận xét của Hegel, "Đây là 
một thành tựu rất quan trọng của nhận 
thức triết học, bởi vì bằng điều đó... vận 
động của tư duy được đề cao" (Bộ Giáo 
dục và Đào tạo, 1997, tr. 321). 
Kant đã nhấn mạnh tính năng động, sáng 
tạo của chủ thể nhận thức. Ông cũng đã 
mạnh dạn đặt ra cho triết học của mình 
nhiệm vụ phê phán chủ nghĩa duy lý và 
chủ nghĩa duy nghiệm với mục đích mở ra 
một hướng giải quyết mới cho nhận thức 
luận với phương châm "tư tưởng thiếu nội 
dung thì trống rỗng, trực quan thiếu khái 
niệm thì mù quáng”. Bằng lối lập luận đó, 
Kant đã đưa ra một bảng phạm trù tương 
đối đầy đủ và hệ thống, sắp xếp chúng 
theo tiên đề-phản đề-hợp đề; đồng thời 
khẳng định tính phổ quát và tất yếu của 
chúng. Những đóng góp này của ông đã 
đặt tiền đề cho sự phát triển của triết học 
cổ điển Đức sau này (Lê Công Sự, 1997, tr. 
83-93). 
2.2. Tư tưởng về các nghịch lý của nhận 
thức lý tính
Chúng ta sẽ không thể hiểu được hệ thống 
triết học của Kant nếu không có sự hiểu 
biết về học thuyết của Kant về nghịch lý 
của lý tính thuần túy, là tiền đề trực tiếp 
cho khoa học logic của Hegel và cũng là 
tiền đề lý luận cho phép biện chứng mác xít. 
ĐẶNG THỊ ÁNH NGUYỆT – TƯ TƯỞNG CỦA IMMANUEL KANT 
3
Học thuyết về nghịch lý của lý tính thuần 
túy được Kant trình bày trong phần "Phép 
biện chứng tiên nghiệm" của tác phẩm Phê 
phán lý tính thuần túy. Sở dĩ Kant đưa ra 
bốn nghịch lý vì theo ông, bốn nghịch lý 
của lý tính thuần túy tương ứng với bốn 
lớp phạm trù của lý tính thuần túy: "Tất cả 
các ảo giác tiên nghiệm... của lý tính thuần 
túy đều được xây dựng trên các kết luận 
biện chứng mà logic học đưa ra sơ đồ của 
chúng trong ba dạng hình thức của suy 
luận nói chung, giống như các phạm trù có 
sơ đồ logic của mình trong bốn chức năng 
của tất cả các phán đoán" (Vũ Văn Viên, 
1997, tr. 49-66, 50). Sau khi nghiên cứu 
giai đoạn thứ hai của quá trình nhận thức, 
tầm nhận thức của cấp độ giác tính phân 
tích (khoa học tự nhiên lý thuyết) bị chế 
ước bởi hàng loạt các điều kiện (có điều 
kiện), thì con người vẫn luôn luôn khát 
khao vươn tới những tri thức tuyệt đối, tới 
tự do vô điều kiện, tức ở khả năng trí tuệ 
cao nhất này, nhận thức của con người 
không chịu đóng khung trong khuôn khổ 
thế giới hiện tượng mà còn vươn tới cả thế 
giới "vật tự nó". Con người có khát vọng 
xâm nhập vào thế giới vật tự nó trong khi 
nhận thức con người là có giới hạn, con 
người chỉ nhận thức được thế giới hiện 
tượng. Khi lý tính cố gắng vươn tới nhận 
thức "vật tự nó" thì gặp các nghịch lý. 
Nghịch lý thứ nhất 
Chính đề: "Thế giới có một khởi đầu trong 
không gian và cũng bị bao bọc bởi các ranh 
giới, về không gian” (I. Kant, 2004, tr. 760). 
Phản đề: "Thế giới không có một khởi đầu 
và không có ranh giới trong không gian 
nhưng là vô tận về thời gian lẫn không 
gian” (I. Kant, 2004, tr. 762). 
Nghịch lý thứ hai
Chính đề: "Một bản thể đa hợp trong thế 
giới bao gồm những đơn tố và không có gì 
tồn tại mà bản thân không phải là đơn tố 
hay là tổ hợp từ những đơn tố" (I. Kant, 
2004, tr. 769). 
Phản đề: "Không một đa hợp nào trong thế 
giới được cấu tạo từ những đơn tố và 
không tồn tại bất kỳ đơn tố nào trong thế 
giới" (I. Kant, 2004, tr. 771). 
Nghịch lý thứ ba
Chính đề: "Tính nhân quả theo những định 
luật của tự nhiên không phải là cái duy 
nhất để từ đó những hiện tượng trong thế 
giới nhìn chung có thể được giải thích. Tất 
yếu phải giả định thêm một tính nhân quả 
từ tự do để giải thích hiện tượng này" (I. 
Kant, 2004, tr. 778). 
 Phản đề: "Không có tự do, trái lại tất cả 
những gì xảy ra trong thế giới đều chỉ tuân 
theo những định luật của tự nhiên" (I. Kant, 
2004, tr. 780). 
Nghịch lý thứ tư
Chính đề: "có một hữu thể tuyệt đối tất yếu 
thuộc về thế giới, hoặc là một bộ phận của 
nó, hoặc là một nguyên nhân cho nó" (I. 
Kant, 2004, tr. 786). 
Phản đề: "Không có một hữu thể nào tuyệt 
đối tất yếu dù ở trong hay ở ngoài thế giới 
như là nguyên nhân của nó" (I. Kant, 2004, 
tr. 788). 
Những luận điểm chủ yếu trong các chính 
đề chủ yếu thể hiện lập trường của các 
nhà duy lý. Những luận điểm trong các 
phản đề thể hiện lập trường của các nhà 
duy nghiệm về vũ trụ. Kant viết: Trong 
cách khẳng định của phía phản đề, có một 
sự đồng dạng hoàn toàn về lề lối tư duy và 
ĐẶNG THỊ ÁNH NGUYỆT – TƯ TƯỞNG CỦA IMMANUEL KANT 
4 
trong việc 
giải thích những hiện tượng của thế giới 
mà cả trong việc giải quyết các ý niệm siêu 
nghiệm về bản thân vũ trụ. Ngược lại, các 
khẳng định của phía chính đề, ngoài phong 
cách giải thích thường nghiệm bên trong 
chuỗi những hiện tượng còn đặt cơ sở trên 
các mệnh đề trí tuệ, nên trong chừng mực 
đó, châm ngôn của nó không đơn giản. 
Nhưng xuất phát từ đặc điểm cơ bản của 
nó, tôi muốn gọi phía chính đề là thuyết 
giáo điều của lý tính thuần túy (I. Kant, 
2004, tr. 798). Đó cũng là các nghịch lý mà 
toàn bộ triết học xưa nay mắc phải. Kant 
cho rằng: "nếu chúng ta ủng hộ bất cứ 
quan điểm bên này hay bên kia thì sẽ luôn 
trong tình trạng "chao đảo liên tục". Do đó, 
một giải đáp giáo điều "không những 
không xác tín mà còn là bất khả" (I. Kant, 
2004, tr. 815). 
Học thuyết về nghịch lý của lý tính thuần 
túy của Kant còn nhiều hạn chế khi nhìn 
nhận từ góc độ triết học duy vật biện 
chứng. Thứ nhất, về phương diện đặt vấn 
đề ông đã hạn chế số lượng Antinomie, 
trong khi đó Hegel nhận xét "Antinomie có 
trong tất cả các sự vật ở mọi hình thức 
trong ý niệm và khái niệm" (Lê Công Sự, 
2006, tr. 798). Kant chỉ nhận thấy mâu 
thuẫn trong lý tính con người mà không 
thấy mâu thuẫn còn có trong hiện thực 
khách quan, trong khi đó triết học Mác-
Lênin cho rằng mâu thuẫn tồn tại trong tất 
cả các sự vật hiện tượng, từ tự nhiên, xã 
hội đến tư duy. Thêm vào đó, những 
nghịch lý mà ông nêu ra là chưa phải là 
mâu thuẫn biện chứng vì giữa chính đề và 
phản đề chưa có sự chuyển hóa lẫn nhau. 
Thứ hai, về phương diện giải quyết vấn đề, 
ông đã phân tích từng mặt đối lập rồi đi 
đến kết luận đúng-sai. Trong khi đó, việc 
giải quyết các nghịch lý là một điều rất 
phức tạp, đòi hỏi nguồn tư liệu từ cuộc 
sống phong phú, sinh động.
Đóng góp của Kant là ở chỗ, theo Kant, 
các nghịch lý này không phải là những lỗi 
thông thường có thể khắc phục được. Việc 
vạch ra những mâu thuẫn của nhận thức lý 
tính đã phá vỡ luận điểm siêu hình về tính 
tuyệt đối của nhận thức lý tính và chứng 
minh được những mâu thuẫn là bản chất 
khách quan của lý trí con người. 
Lịch sử nhận thức của nhân loại đã chứng 
minh rằng không thể loại trừ các Antinomie 
nói chung ra khỏi nhận thức. Nhưng đối 
với mỗi Antinomie cá biệt thì có thể loại trừ 
được bằng cách vượt bỏ hình thức nhận 
thức cũ, xây dựng một hình thức nhận 
thức mới. Đánh giá mặt tích cực của học 
thuyết về các Antinomie của Kant, Hegel 
viết: "Việc tìm ra các Antinomie cần phải 
được xem như một thành tựu vô cùng 
quan trọng của nhận thức triết học, bởi vì 
bằng điều đó chủ nghĩa giáo điều xơ cứng 
của siêu hình học giác tính đã bị loại trừ, 
và vận động biện chứng của tư duy được 
chú trọng" (Lê Công Sự, 2006, tr. 80). Điều 
này cũng đã được Lênin đề cập khi nói 
đến mối quan hệ giữa chân lý tuyệt đối và 
tương đối, nhận thức là quá trình con 
người tiếp cận với hiện thực chứ không 
thể trùng khít với hiện thực. Hiện thực luôn 
luôn biến đổi nên nhận thức con người 
cũng luôn biến đổi theo cho phù hợp. Đó là 
một quá trình vô tận. 
Bên cạnh đó, Kant cho rằng con người 
không thể nào nhận thức được "vật tự nó" 
ĐẶNG THỊ ÁNH NGUYỆT – TƯ TƯỞNG CỦA IMMANUEL KANT 
5
Tóm lại, dù còn nhiều tranh luận xung 
quanh những nghịch lý của lý tính mà Kant 
đưa ra, như I. Narxki đã viết về Kant "Ông 
đã chỉ ra những đặc điểm riêng biệt của 
mâu thuẫn biện chứng trong nhận thức, 
những nghịch lý sâu sắc trong những vấn 
đề triết học, tính mâu thuẫn của lý tính và 
của toàn bộ nhận thức như một quá trình". 
Còn đối với Hegel, thì có thể các 
Antinomie của Kant "là một bước chuyển 
cơ bản đến triết học mới nhất" (Vũ Văn 
Viên, 1997, tr. 49-66).
3. KẾT LUẬN 
Một trong những điểm nổi bật của nhận 
thức luận Kant là biện chứng về quá trình 
nhận thức, thể hiện qua những luận điểm 
của ông về mối quan hệ giữa trực quan 
cảm tính và tư duy giác tính, nghịch lý của 
lý tính thuần túy. Tư tưởng này đã được 
Hegel tiếp thu một cách hợp lý trong "Khoa 
học logic" của ông và sau này được các 
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin 
nâng lên. 
Những giá trị của nhận thức luận Kant, đặc 
biệt là tư tưởng biện chứng về quá trình 
nhận thức đã có nhiều đóng góp có giá trị 
cho lịch sử nhận thức nhân loại nói chung 
và phép biện chứng duy vật nói riêng. 
Đánh giá những giá trị to lớn và sự ảnh 
hưởng mạnh mẽ của triết học Kant cũng 
như nhận thức luận của ông, J. 
Hirschberger cho rằng: "Kant được xem là 
triết gia Đức lớn nhất, hơn nữa là triết gia 
lớn nhất của thời cận đại, là triết gia của 
nền văn hóa tân thời và của nhiều lĩnh vực 
khác nữa. Dù người ta có đánh giá Kant gì 
đi nữa, điều không thể chối cãi là ít nhất 
đẩy lùi tất cả những gì đi trước vào bóng 
tối và tỏa sáng lên những gì đi sau ( 
Immanuel Kant, 2004, tr. 798). ‰ 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo. 1997. Triết học. 
Tập 1. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 
2. Kant, Immanuel. 2004. Phê phán lý tính 
thuần túy (Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú 
giải). Hà Nội: Nxb. Văn học. 
3. Lê Công Sự. 1997. Về học thuyết phạm 
trù trong triết học I. Kant. Trong: I. Cantơ - 
Người sáng lập nền triết học cổ điển Đức. Hà 
Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 
4. Lê Công Sự. 2006. Triết học cổ điển Đức. 
Hà Nội: Nxb. Thế giới. 
5. Vũ Văn Viên. 1997. Học thuyết về 
"Antinomia" và "Logic tiên nghiệm" của Cantơ. 
Trong: I. Cantơ - Người sáng lập nền triết học 
cổ điển Đức. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_cua_immanuel_kant_ve_bien_chung_cua_qua_trinh_nhan.pdf