Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao

Tóm tắt Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao: ...uốc gia có chủ quyền) và Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam (tổ chức đại diện cho nhân dân Miền Nam với khát vọng giải phóng). Cuộc đấu tranh ngoại giao sôi động của cả 2 chủ (4) Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, t.8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.290... nước từ mọi phương diện: kinh tế, chính trị, quân sự... Người viết: “Nếu tự mình không có thực lực làm cơ sở thì không thể nói gì đến ngoại giao”(10). Người còn ví dụ: “Thực lực như cái chiêng, ngoại giao như tiếng chiêng, chiêng có to tiếng mới lớn”(11). Có nghĩa là, thắng lợi ngoại ...đau đớn do chủ nghĩa thực dân. Để thiết lập các quan hệ quốc tế, Người đã thành lập Hội liên hiệp thuộc địa tại Pháp vào năm 1922, Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông vào năm 1925, vận động Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản Tây Âu ủng hộ cách mạng ở nước Việt Nam thuộc địa...

pdf7 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 582 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao 
Trần Thị Minh Tuyết * 
Tóm tắt: Từ trong lịch sử xa xưa, cha ông ta đã biết đến vai trò quan trọng của 
ngoại giao như là một công cụ đấu tranh hòa bình với các quốc gia khác để đạt mục 
đích quốc phú, binh cường, nội yên, ngoại tĩnh. Tiếp nối truyền thống đó, trong thế kỷ 
XX, nền ngoại giao cách mạng đã giành những thắng lợi rực rỡ dù phải đối đầu với 
nền ngoại giao chuyên nghiệp, đầy kinh nghiệm và không ít thủ đoạn của các nước 
lớn. Để tạo dựng và dẫn dắt nền ngoại giao non trẻ, Hồ Chí Minh đã thấu tỏ vai trò 
quan trọng của ngoại giao và coi nó là một mặt trận quan trọng trong cuộc đấu tranh 
toàn diện của dân tộc. Ở mỗi chặng đường lịch sử, tư tưởng đúng đắn đó của Người 
luôn soi sáng cho nhận thức, hành động của nền ngoại giao cách mạng và góp phần 
làm nên những thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam. 
Từ khóa: Hồ Chí Minh; tư tưởng Hồ Chí Minh; Việt Nam; mặt trận ngoại giao. 
Ngoại giao là cuộc đấu tranh bằng biện 
pháp hòa bình để bảo vệ lợi ích dân tộc, là 
một lĩnh vực hoạt động rất quan trọng của 
sự nghiệp cách mạng. Quan điểm đó của 
Hồ Chí Minh vừa được thể hiện qua những 
đánh giá trực tiếp về hoạt động này, vừa 
được thể hiện gián tiếp qua những hoạt 
động ngoại giao thực tiễn của Người. 
Không ít lần Hồ Chí Minh thể hiện sự 
đánh giá cao vai trò của ngoại giao. Người 
nói: “Dùng binh giỏi nhất là đánh bằng mưu. 
Thứ hai đánh bằng ngoại giao. Thứ ba mới 
là đánh bằng binh”(1). Người còn khái quát: 
“Ngoại giao ai thuận lợi hơn, thì thắng”(2). 
Đánh giá cao vai trò của ngoại giao nên 
Nghị quyết của Hội nghị Tân Trào diễn ra 
trước Tổng khởi nghĩa đã đặt “Vấn đề ngoại 
giao” thành mục riêng ngang với mục “Chủ 
trương của Đảng” và mục “Nhiệm vụ quân 
sự”(3). Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ 
bước vào giai đoạn quyết liệt nhất, cụm từ 
mặt trận ngoại giao chính thức ra đời trong 
Văn kiện của Hội nghị Trung ương Đảng 
lần thứ 13 (khóa III) năm 1967: “Đấu tranh 
quân sự và chính trị ở miền Nam là nhân tố 
quyết định sự thắng lợi trên chiến trường, 
làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại 
giao”. Đến tháng 4 năm 1969, Nghị quyết 
Bộ Chính trị tiếp tục khẳng định: “ngoại 
giao trở thành một mặt trận quan trọng, có 
ý nghĩa chiến lược”.(3Việc thay đổi các cụm 
từ khi nói về ngoại giao như từ “cuộc đấu 
tranh ngoại giao”, “vấn đề ngoại giao”, 
thành “mặt trận ngoại giao”, “ngoại giao trở 
thành mặt trận quan trọng”... đã thể hiện sự 
đánh giá ngày càng cao của Đảng ta và Hồ 
 Tiến sĩ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. 
ĐT: 0913538837. Email: tuyetminh1012@gmail.com 
(1) Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, tr.518. 
(2) Sđd, tr.514. 
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Đảng 
toàn tập, t.3, tr.415 - 417. 
CHÍNH TRỊ - KINH TẾ HỌC 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao 
 69 
Chí Minh về vai trò của công tác ngoại 
giao trong sự nghiệp cách mạng. 
Việc đề cao vai trò của ngoại giao Hồ 
Chí Minh không chỉ thể hiện bằng lời nói 
mà còn bằng cuộc đấu tranh quyết liệt 
nhằm bảo vệ chủ quyền ngoại giao dân tộc. 
Ngay sau cách mạng Tháng Tám, Đảng ta 
và Hồ Chí Minh đã xác định rằng: “Sau vấn 
đề phòng thủ, ngoại giao là một vấn đề cần 
yếu cho một nước độc lập”(4); từ đó đã kiên 
quyết đấu tranh giữ vững chủ quyền ngoại 
giao và coi đó là biểu hiện quan trọng của 
nền độc lập. Người viết: “Nếu quân đội và 
ngoại giao Việt Nam ở dưới quyền Pháp tức 
là Việt Nam chưa độc lập và vẫn là thuộc 
địa của Pháp”. Vì vậy, để đẩy lùi nguy cơ 
của cuộc chiến tranh Việt - Pháp, Người 
chấp nhận ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 
3 năm 1946 với điều khoản “Việt Nam là 
quốc gia tự do trong khối liên hiệp Pháp” 
nhưng kiên quyết đấu tranh để có ngoại 
giao riêng, có quyền phái đại sứ và lãnh sự 
đi các nước. Ngay cả khi chiến tranh đã 
bùng nổ, vào tháng 3 năm 1947, Người tiếp 
tục khẳng định: “Nếu nước Pháp ưng thuận 
để nước ta thống nhất và độc lập, đủ quyền 
kinh tế, quân sự và ngoại giao thì dân ta rất 
sẵn sàng hợp tác thân thiện trong khối Liên 
hiệp Pháp”. Việc kiên quyết đấu tranh đến 
cùng để giữ vững chủ quyền ngoại giao của 
dân tộc đã chứng tỏ Hồ Chí Minh rất đề cao 
vai trò của hoạt động này. 
Không chỉ vậy, trong mọi chặng đường 
cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đưa hoạt 
động ngoại giao vào “tổng lộ trình” đấu 
tranh cách mạng. Trong những năm 1945 - 
1946 (thời điểm vận mệnh dân tộc ngàn cân 
treo sợi tóc), vai trò của ngoại giao trở nên 
đặc biệt quan trọng vì các mặt trận khác 
như quân sự, kinh tế của ta rất khó khăn mà 
kẻ thù thì quá nhiều. Khi đó, Hồ Chí Minh 
đã sử dụng ngoại giao như một công cụ tài 
tình để phân hóa kẻ thù, thực hiện sách 
lược “thêm bạn bớt thù”. Người cũng kiên 
nhẫn thực hiện các cuộc đàm phán ngoại 
giao để bảo vệ hòa bình, ngăn chặn chiến 
tranh. Hiệp định Sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 
1946 và Tạm ước ngày 14 tháng 9 năm 
1946 mà Người đã ký kết với Chính phủ 
Pháp đã thể hiện sự coi trọng công cụ đàm 
phán ngoại giao trong việc giải quyết xung 
đột giữa các quốc gia.(4) 
Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng 
nổ, cuộc đấu tranh ngoại giao đã được Người 
thực hiện để tố cáo cuộc chiến tranh phi 
nghĩa của Pháp, kêu gọi sự ủng hộ cho 
cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt 
Nam, nhất là nhân dân Pháp, vận động các 
nước xã hội chủ nghĩa (XHCN) như Liên 
Xô, Trung Quốc công nhận và đặt quan hệ 
ngoại giao với Việt Nam Dân chủ cộng hòa, 
phá thế “đơn thương độc mã”. Việc kết thúc 
chiến tranh Việt - Pháp (1945 - 1954) bằng 
cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị 
Giơnevơ cũng thể hiện thiện chí của Hồ Chí 
Minh và dân tộc Việt Nam sẵn sàng thương 
lượng và giải quyết xung đột bằng phương 
pháp ngoại giao. 
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, 
Đảng ta và Hồ Chí Minh đã mở rộng quy 
mô cuộc đấu tranh ngoại giao bằng cách 
thực hiện công tác ngoại giao của 2 tổ chức 
có tính pháp lý độc lập: Việt Nam Dân chủ 
Cộng hòa (một quốc gia có chủ quyền) và 
Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam 
Việt Nam (tổ chức đại diện cho nhân dân 
Miền Nam với khát vọng giải phóng). Cuộc 
đấu tranh ngoại giao sôi động của cả 2 chủ 
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng 
toàn tập, t.8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.290. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 
 70 
thể đó đã cô lập cao độ kẻ thù, tập hợp lực 
lượng trên quy mô toàn thế giới, tranh thủ 
sự giúp đỡ to lớn của các nước XHCN, mở 
ra giai đoạn “vừa đánh vừa đàm” để nhanh 
chóng chấm dứt chiến tranh. 
Trong mọi chặng đường cách mạng, Hồ 
Chí Minh đều dùng ngoại giao như công cụ 
hữu hiệu để đi đến thắng lợi. Đó là sự thể 
hiện chắc chắn nhất, chân thực nhất của 
việc Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của 
hoạt động ngoại giao. 
Dù đánh giá rất cao vai trò của ngoại 
giao nhưng Hồ Chí Minh không bao giờ 
cho rằng ngoại giao đóng vai trò độc tôn mà 
ngược lại, cho rằng hoạt động ngoại giao 
phải liên kết chặt chẽ với các hoạt động 
chính trị, quân sự... Trong sự nghiệp cách 
mạng, ngoại giao là một trong ba mặt trận 
đấu tranh cơ bản và các hoạt động ngoại 
giao, chính trị, quân sự luôn bổ trợ mạnh 
mẽ cho nhau. Chính vì vậy, năm 1950, khi 
các nước XHCN như Trung Quốc, Liên Xô 
công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với 
nước ta thì Hồ Chí Minh coi “đó là một 
thắng lợi lớn về chính trị”(5). Người nói: 
“Chắc rằng thắng lợi về chính trị ấy sẽ là 
cái đà cho những thắng lợi quân sự sau 
này”(6). Ngược lại, thắng lợi về quân sự là 
điều kiện quan trọng quyết định thắng lợi 
về ngoại giao vì “người ta chỉ nhận được 
những gì trên bàn đàm phán tương đương 
với những gì trên chiến trường”. Nói về tác 
động của quân sự, chính trị tới đàm phán 
ngoại giao, Người nói: “Những thắng lợi 
quân sự, chính trị của ta làm cho địa vị 
ngoại giao của ta ở Giơnevơ vững chắc, 
buộc địch phải nói chuyện với ta”(7). Trong 
kháng chiến chống Mỹ, Người nói: “Bây giờ 
trong nước ta cứ đánh cho thắng thì ngoại 
giao dễ làm ăn”. Sự liên kết chặt chẽ giữa 
các lĩnh vực chính trị, quân sự và ngoại 
giao dẫn đến yêu cầu phải phối hợp nhịp 
nhàng các hoạt động đó trong một cuộc đấu 
tranh. Vì vậy, trong cuộc đối đầu với Mỹ, 
Người chủ trương: “Một tay đánh, một tay 
mở cho nó ra, trước cửa cần có rèm 
chống”(8). Sách lược “vừa đánh, vừa đàm” 
đúng đắn trong kháng chiến chống Pháp và 
chống Mỹ đã thể hiện sự liên kết chặt chẽ 
giữa quân sự với chính trị và ngoại giao 
trong cuộc chiến tranh toàn diện. Tuy nhiên, 
trong từng giai đoạn, mặt trận nào là trọng 
yếu thì phải “phân tích cụ thể một tình hình 
cụ thể”. Có những thời điểm mà ngoại giao 
đóng vai trò đặc biệt chủ động và tích cực. 
Hội nghị Trung ương lần thứ 13 của Đảng 
năm 1967 đã khẳng định: “Đấu tranh ngoại 
giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc 
đấu tranh trên chiến trường, mà trong tình 
hình quốc tế hiện nay đối với tính chất cuộc 
chiến tranh giữa ta và địch, cuộc đấu tranh 
ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích 
cực và chủ động của nó”. Lời căn dặn của 
Hồ Chí Minh với đoàn đàm phán tại Hội 
nghị Pari năm 1969 thể hiện rõ quan điểm 
đó: “Tiến công ngoại giao là một mặt tiến 
công có ý nghĩa chiến lược lúc này”(9). 
Đứng trên quan điểm toàn diện và quan 
điểm lịch sử cụ thể, Hồ Chí Minh đã đánh 
giá đúng vị trí, vai trò của công tác ngoại 
giao và mối liên hệ biện chứng của nó với 
các lĩnh vực khác của cách mạng. 
Tuy đề cao vai trò của ngoại giao nhưng 
(5) Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, tr.32. 
(6) Sđd, t.6, tr.81. 
(7) Sđd, t.7, tr.313. 
(8) (1990), Sự nghiệp và tư tưởng quân sự của Hồ 
Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr.223. 
(9) Hồng Hà (1999), Bác Hồ trong trái tim các nhà 
ngoại giao, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.36-37. 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao 
 71 
Hồ Chí Minh luôn cho rằng, ngoại giao 
chỉ phát huy vai trò và công dụng trên cơ 
sở thực lực dân tộc, trên nền tảng sức 
mạnh tổng hợp của đất nước từ mọi 
phương diện: kinh tế, chính trị, quân sự... 
Người viết: “Nếu tự mình không có thực 
lực làm cơ sở thì không thể nói gì đến 
ngoại giao”(10). Người còn ví dụ: “Thực 
lực như cái chiêng, ngoại giao như tiếng 
chiêng, chiêng có to tiếng mới lớn”(11). Có 
nghĩa là, thắng lợi ngoại giao lớn hay nhỏ, 
hoạt động ngoại giao thuận lợi hay khó 
khăn tùy thuộc vào thực lực dân tộc. Thực 
tế đã chứng minh quan điểm đó của Hồ 
Chí Minh là đúng đắn. Rõ ràng nếu không 
có những chiến thắng to lớn của quân dân 
ta trong gần 9 năm kháng chiến chống thực 
dân Pháp thì không thể có Hội nghị và 
Hiệp định Giơnevơ. Nếu không có thắng 
lợi của quân dân hai miền Nam - Bắc thì 
không có Hội nghị và Hiệp định Pari. Về 
điểm này chính Người đã tổng kết: “Ngoại 
giao ở Hội nghị Giơnevơ thắng lợi là vì 
Điện Biên Phủ thắng lớn. Bây giờ cũng 
thế, đánh thắng lớn thì ngoại giao thắng 
nhiều. Không cứ gì ở ta mà ở nước nào 
cũng vậy. Cố nhiên ngoại giao là rất quan 
trọng, nhưng cái vốn chính là mình phải 
đánh thắng và mình phải có sức mạnh thì 
ngoại giao sẽ thắng”. Mặt khác, thắng lợi 
trên mặt trận ngoại giao sẽ tạo tiền đề để 
tăng cường thực lực cách mạng, tạo “thế” 
cho đất nước trong quan hệ chính trị quốc 
tế. Việc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thiết 
lập được quan hệ ngoại giao với Trung 
Quốc, Liên Xô và các nước XHCN khác 
trong năm 1950 đã tạo một “thế đứng” mới 
cho cách mạng Việt Nam và gia tăng sức 
mạnh quân sự cho Việt Nam. 
Như vậy, Hồ Chí Minh thấu tỏ tầm quan 
trọng của công tác ngoại giao, thấy rõ mối 
quan hệ giữa ngoại giao và các mặt trận 
khác, sự phụ thuộc của ngoại giao vào thực 
lực dân tộc, tính chủ động tương đối của 
công tác ngoại giao trong những thời điểm 
cụ thể. Với tư duy biện chứng, Hồ Chí 
Minh đã đặt công tác ngoại giao vào vị trí 
thích đáng nên công năng của nó được phát 
huy cao độ để góp phần vào thắng lợi của 
cách mạng.(10) 
Khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược 
Việt Nam, trên mảnh đất này liên tiếp diễn 
ra những cuộc “đấu tranh tuyệt vọng”. Sự 
thất bại của cha ông được lý giải bởi 
những hạn chế trong đường lối cứu nước, 
mà cụ thể là lực lượng trong nước chưa 
mang tính dân tộc rộng rãi, lực lượng quốc 
tế hoàn toàn thiếu vắng. Quan hệ quốc tế 
và sự tìm kiếm đối tác liên kết khi đó bị 
giới hạn trong vài quốc gia láng giềng 
“đồng chủng, đồng văn”. Vì vậy, mà khi 
đất nước nguy khốn, Tôn Thất Thuyết đã 
sang cầu viện nhà Thanh, Phan Bội Châu 
sang cầu viện Nhật... Hơn nữa, hoạt động 
mang tính ngoại giao của cha ông mới ở 
mức tự phát, chưa người nào trong số họ 
có được sự phân tích khoa học về cục diện 
thế giới và mối quan hệ giữa thế giới và 
Việt Nam. Cũng không ai trong số họ xác 
định được rằng, cuộc đấu tranh giải phóng 
dân tộc chống kẻ thù mạnh phải là cuộc 
đấu tranh toàn diện, trong đó đấu tranh 
ngoại giao là lĩnh vực không thể thiếu. 
Với sự sáng suốt phi thường, Hồ Chí 
Minh đã lựa chọn con đường cách mạng vô 
sản để giải phóng dân tộc và Người hiểu 
(10) Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội, tr.459. 
(11) Sđd, t.4, tr.126. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 
 72 
rằng, sự nghiệp cách mạng là hợp lực của 
nhiều lĩnh vực mà ngoại giao là một lĩnh 
vực quan trọng. Để thực hiện cuộc đấu 
tranh ngoại giao, Hồ Chí Minh bắt đầu tìm 
hiểu quan hệ quốc tế ở quy mô thế giới vì 
“chưa biết mưu mô của các nước thì không 
thể ngoại giao”(12). Hồ Chí Minh là người 
Việt Nam đầu tiên nâng nhân tố thế giới, 
nhân tố thời đại lên tầm quan trọng đặc 
biệt khi khẳng định “điểm mấu chốt của 
cách mạng thành công là phải nhận thấy rõ 
luật thiên hạ tiến hóa để bước tới đường 
chính đạo”(13). Từ những nhận thức đó, 
những hoạt động ngoại giao của Hồ Chí 
Minh được tiến hành tích cực trên quy mô 
quốc tế. Bằng Bản yêu sách nổi tiếng gửi 
hội nghị Vécxay, Người đã giới thiệu trước 
nhân dân thế giới và các cường quốc về sự 
tồn tại của Việt Nam, một dân tộc đang chịu 
nhiều đau đớn do chủ nghĩa thực dân. Để 
thiết lập các quan hệ quốc tế, Người đã 
thành lập Hội liên hiệp thuộc địa tại Pháp 
vào năm 1922, Hội liên hiệp các dân tộc bị 
áp bức ở Á Đông vào năm 1925, vận động 
Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản 
Tây Âu ủng hộ cách mạng ở nước Việt 
Nam thuộc địa... Những hoạt động đó của 
Người đã làm cho thế giới biết đến Việt 
Nam và những quan hệ quốc tế đầu tiên 
được khai phá. Như vậy, hoạt động ngoại 
giao được tiến hành một cách có ý thức, có 
phương hướng trên cơ sở phân tích một 
cách khoa học cục diện thế giới, được thực 
hiện trên quy mô quốc tế rộng lớn chứ 
không phải là biện pháp tình thế, tự phát, 
mày mò. Đó là quan điểm vượt trội của Hồ 
Chí Minh so với cha ông. 
Việc đề cao vai trò của công tác ngoại 
giao còn xuất phát từ khả năng tri kỷ, tri bỉ 
của Người. Người nói: “Địch quân sự mạnh 
nhưng chính trị yếu. Ta chính trị mạnh 
nhưng quân sự yếu”(14). Trong hoàn cảnh 
của Việt Nam, nếu dùng sức mạnh quân sự 
để đối đầu sức mạnh quân sự thì sẽ không 
khác gì sự tự sát. Vì thế, phải dùng ngoại 
giao, phải kết hợp ngoại giao với chính trị 
và quân sự để cân bằng sức mạnh tổng thế; 
phải dùng ngoại giao để đề cao sức mạnh 
chính trị của ta, phơi bày cái yếu về chính 
trị của kẻ thù trước dư luận thế giới và dùng 
dư luận thế giới để khống chế cái mạnh về 
quân sự của kẻ thù. Tôn Tử từng có câu: 
“Tri kỷ, tri bỉ bách chiến bất đãi; Bất tri bỉ 
nhi tri kỷ, nhất thắng nhất phụ; bất tri bỉ, 
bất tri kỷ mỗi chiến tất đãi” (có nghĩa là: 
biết mình, biết người trăm trận không thất 
bại; chỉ hiểu mình, không hiểu người khả 
năng thắng bại phân đôi, không biết mình, 
không biết người trận nào cũng thua). Để 
phân định tường minh cái mạnh, cái yếu 
của ta và của địch, con người ta không chỉ 
cần ánh sáng của trí tuệ mà còn cần lòng 
thành thật, sự dũng cảm dám nhìn vào sự 
thật để hóa giải sự thật. Cái tri gắn liền với 
cái dũng, cái tình cao cả là phẩm chất của 
nhà ngoại giao Hồ Chí Minh. 
Sự sáng suốt của Hồ Chí Minh khi phân 
tích vai trò của công tác ngoại giao còn thể 
hiện ở chỗ, mặc dù rất đề cao vai trò của 
công tác ngoại giao (điều này được Người 
thể hiện không chỉ bằng ngôn từ mà nhiều 
hơn là bằng cả sự nghiệp đấu tranh ngoại 
giao sôi động) nhưng Hồ Chí Minh không 
đẩy vai trò của ngoại giao lên vị trí độc tôn. 
Người quan niệm sự nghiệp cách mạng như 
một cơ thể sống không ngừng phát triển và 
(12) Sđd, t.3, tr.527. 
(13) Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư 
tưởng Hồ Chí Minh (2008), Hồ Chí Minh biên niên 
tiểu sử, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.465. 
(14) Sđd, t.8, tr.137. 
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao 
 73 
bao gồm các lĩnh vực hoạt động khác nhau, 
ngoại giao vừa tác động mạnh mẽ, vừa phụ 
thuộc vào các lĩnh vực hoạt động khác. 
Không đề cao vai trò của lĩnh vực này bằng 
cách hạ thấp vai trò của lĩnh vực khác, đó 
là kết quả của lối tư duy mang tính hệ 
thống, biện chứng và khả năng khái quát 
cao của Hồ Chí Minh. 
Bàn về vai trò của ngoại giao, Hồ Chí 
Minh còn chỉ rõ, ngoại giao phải dựa trên 
thực lực. Quan điểm này của Người trước 
hết xuất phát từ đường lối độc lập tự chủ 
của cách mạng Việt Nam. Khi tư tưởng chỉ 
đạo đó thấm vào từng lĩnh vực hoạt động 
cách mạng, trong đó có ngoại giao thì ngoại 
giao đương nhiên phải lấy sức mạnh bên 
trong làm điểm tựa. Hồ Chí Minh viết: “Ta 
có mạnh thì họ mới đếm xỉa đến. Ta yếu thì 
ta chỉ là một khí cụ trong tay người kẻ khác, 
dầu là kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta 
vậy”(15). Trong quan hệ quốc tế, nếu ta 
không có thực lực, không có điểm tựa bên 
trong, không có gì để nước khác trông đợi 
thì không thể có sự hợp tác chặt chẽ. Đối 
với một nước nhỏ lại phải đối đầu với các 
nước lớn và thực thi những nhiệm vụ cách 
mạng nặng nề, thì cần thấu hiểu vai trò của 
thực lực dân tộc trong cuộc đấu tranh ngoại 
giao để rồi cố gắng nâng mình thành đối 
tác trong quan hệ quốc tế. Về điều này, Hồ 
Chí Minh nói: “Bây giờ ngoại giao của ta 
càng ngày càng khó”(16). Việc nhìn thẳng 
vào thực chất quan hệ quốc tế, vào hiện 
trạng khó khăn để rồi hóa giải nó bằng cách 
nâng cao nội lực của đất nước chính là sự 
thẳng thắn trong suy nghĩ và sự mạnh mẽ 
trong hành động của Người. 
Với tất cả sự sáng suốt và từng trải của 
một chính khách tầm cỡ quốc tế, Hồ Chí 
Minh đã đặt công tác ngoại giao vào đúng 
vị trí của nó trong một cuộc đấu tranh toàn 
diện và nhờ đó, ngoại giao đã trở thành 
công cụ đắc lực để biến “nguy thành an”, 
nâng cao sức mạnh của dân tộc. Tri để 
hành, nhận thức đúng để hành động đúng là 
năng lực của nhà ngoại giao thiên tài Hồ 
Chí Minh.(15) 
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về ngoại 
giao đúng đắn, sâu sắc, sinh động và giàu 
sức khái quát. Những nhận thức khoa học, 
tường minh được chứa đựng trong những 
luận điểm giản dị, ngắn gọn của Người về 
vấn đề này đã trở thành kim chỉ nam cho 
nền ngoại giao cách mạng non trẻ. Trong 
những năm tháng chiến tranh chống Pháp 
và chống Mỹ, ngoại giao đã góp phần kết 
thúc nhanh chóng và làm nhẹ những cuộc 
chiến tranh lâu dài, ác liệt bằng Hiệp định 
Giơnevơ, Hiệp định Pari... Trong bối cảnh 
toàn cầu hóa, vai trò của ngoại giao càng 
lớn khi phải tạo dựng môi trường quốc tế 
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ 
tổ quốc. Nhất là khi Biển Đông đã và sẽ còn 
nổi sóng, ngoại giao càng có vai trò đặc biệt 
quan trọng. Để hoàn thành những trọng 
trách to lớn đó, ngoại giao Việt Nam hiện 
đại phải có điểm tựa tinh thần vững chắc là 
những tinh hoa ngoại giao truyền thống và 
những giá trị minh triết trong tư tưởng 
ngoại giao Hồ Chí Minh. Vì vậy, việc nắm 
vững những quan điểm sâu sắc của Hồ Chí 
Minh về mặt trận ngoại giao sẽ giúp dân tộc 
ta vững vàng ra biển lớn. 
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam (1999), Văn kiện Đảng 
toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.292. 
(16) Học viện Quan hệ quốc tế (1994), Bác Hồ nói về 
ngoại giao, Hà Nội, tr.22. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5(90) - 2015 
 74 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_ho_chi_minh_ve_ngoai_giao.pdf