Tư tưởng nhập thế của tam tổ Trúc Lâm Yên Tử
Tóm tắt Tư tưởng nhập thế của tam tổ Trúc Lâm Yên Tử: ...một ông vua, một th−ờng dân, một ng−ời cha hay ng−ời mẹ, một công nhân, binh sĩ cũng đều đang sống và cùng đóng góp vào sự duy trì vị trí xã hội, tuy hoàn cảnh cá nhân khác nhau nh−ng ai cũng có một cuộc sống tràn đầy an vui, hạnh phúc. Khi tâm tĩnh lặng là tâm không tâm niệm, là trạng...òng dân, sự nghiệp phục h−ng làm vẻ vang đời tr−ớc, thực là Vua thiêng của đời Trần”(7). Vận dụng triết lí thiền vào việc trị quốc yên dân, trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông (1285, 1288), Trần Nhân Tông đã lãnh đạo đất n−ớc tiến hành thắng lợi, dẹp yên bờ cõi, giữ v...- một thời đại Phật giáo với bao kì tích to lớn gắn liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất n−ớc. Pháp Loa và Huyền Quang đã kế thừa làm phong phú hơn những t− t−ởng thiền của Trần Nhân Tông trên cơ sở phổ cập và cụ thể con đ−ờng Thiền bằng giới, định, tuệ. Nếu nh− Pháp Loa nhấn mạnh...
hì Nhậm đã viết về Phật Hoàng Trần Nhân Tông nh− sau: “Lĩnh hội đ−ợc đạo Thiền, vua bèn quyết chí đi tu, lấy pháp danh là Điều Ngự Đầu Đà. Vua th−ờng đi vân du mọi nơi, bài trừ những đền miếu thờ dâm thần và bố thí pháp d−ợc cho nhân dân”(1). Trần Nhân Tông đã thấu hiểu cốt tủy của thiền là “Phật tại tâm”, “Phật tức tâm” và “tâm tức Phật”, do đó muốn tìm Phật tính, chân nh−, ng−ời tu hành phải trở về với bản tâm của mình, không nên tìm ở đâu xa. Là Đệ nhất tổ của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, ông chú trọng đến việc cụ thể hóa con đ−ờng trở về với tự tính. Trần Nhân Tông nói: “Này các 1. Thơ văn Ngô Thì Nhậm, Nxb. Khoa học x hội, 1978. tr. 183. Lê Thùy D−ơng. T− t−ởng nhập thế 35 35 ng−ơi! Thời gian thấm thoát trôi qua, số mệnh không hề dừng lại. Cớ sao ăn cháo, ăn chay lại không hiểu cái việc của cái bát, cái thìa, đôi đũa”(2). Chúng tôi cho rằng, đó chính là sự nhập thế và nó đ−ợc xuất phát từ tôn chỉ của Trúc Lâm Việt Nam. Điều đó càng đ−ợc thể hiện rõ hơn trong bài thơ sau đây của Trần Nhân Tông: “Bụt ở trong nhà, Chẳng phải tìm xa, Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt. Đến cốc hay chỉn Bụt là ta”(3) Nếu nh− ai cũng nhầm t−ởng rằng, muốn giải thoát phải xa lánh cuộc sống trần tục đầy bụi bặm, để tìm đến chốn thiêng liêng tu hành, thì Trần Nhân Tông cho rằng: “Bụt ở trong nhà” tồn tại trong chính bản thân con ng−ời, trong chính thế giới này hay ở một nơi nào, một tầng trời mông lung nào. Bởi vậy, sẽ là vô vọng khi cứ mải miết tìm Phật ở nơi xa, vì thế chỉ cần quay đầu nhìn lại chính mình thì sẽ đến đ−ợc bến bờ của sự giác ngộ. Sống thực với mình còn là vui vẻ hòa đồng với thiên nhiên. Đói thì ăn, mệt thì ngủ chẳng cần hối tiếc quá khứ, cũng không mong đợi ở t−ơng lai, biết sống tự nhiên, an vui ngay trong đời th−ờng, có thể nói, là tuyên ngôn của lối sống thiền mang đậm tinh thần nhập thế: “Cõi trần vui đạo, hãy tùy duyên Đói cứ ăn no, mệt ngủ yên Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm, Vô tâm tr−ớc cảnh, hỏi chi Thiền”(4) Với đầy đủ lòng th−ơng yêu rộng lớn và sự hiểu biết chân thật, Trần Nhân Tông đã sống một đời đạo hạnh. Thân sống giữa cuộc đời mà lòng lúc nào cũng chan hòa ánh sáng. Ông luôn nhắc nhở mọi ng−ời hãy “c− trần lạc đạo” (vui đạo giữa trần thế). Trần Nhân Tông luôn sống an vui trong chính hoàn cảnh của mình đang sống. Do đó, dù là một thầy tu, một c− sĩ, một ông vua, một th−ờng dân, một ng−ời cha hay ng−ời mẹ, một công nhân, binh sĩ cũng đều đang sống và cùng đóng góp vào sự duy trì vị trí xã hội, tuy hoàn cảnh cá nhân khác nhau nh−ng ai cũng có một cuộc sống tràn đầy an vui, hạnh phúc. Khi tâm tĩnh lặng là tâm không tâm niệm, là trạng thái vô ngã mà Lục Tổ Huệ Năng gọi là tâm vô niệm, còn theo kinh Kim C−ơng thì đó là cái tâm không dính mắc gì cả. Là thiền nhập thế, nh−ng trong quan niệm về thiền, Trần Nhân Tông không đi sâu vào quan niệm lí luận mà chú ý nhiều đến việc hành thiền. Ông là ng−ời đầu tiên có ý thức cụ thể hóa các b−ớc đi trong quá trình tu thiền, chọn lọc các khái niệm “thiền” của các thế hệ tr−ớc, thực nghiệm thiền bằng chính cuộc đời mình và trở thành tấm g−ơng cho thiền s− Pháp Loa học tập, kế thừa và phát triển. Trong triết lí nhân sinh, sơ tổ Trúc Lâm bàn khá nhiều đến vấn đề sinh tử. Có lẽ cách giải quyết vấn đề sinh tử của các thiền s− đi tr−ớc, kể cả Tuệ Trung Th−ợng Sĩ đều không thỏa mãn đ−ợc một sự thật hiển nhiên đầy tính thuyết phục là sống chết nh− hai thái cực đối lập, vẫn diễn ra với tất cả mọi ng−ời mang đầy vẻ thần bí của nó. Trên thực tế, các thiền s− ch−a ai v−ợt qua cái chết dù đã đạt đến mức giác ngộ, ch−a ai trở về từ cái chết dù đã nắm đ−ợc cái bản thể h− không 2. Thơ văn Lý - Trần, t.2, Nxb. Khoa học x hội, Hà Nội, 1989. tr. 66. 3. Thơ văn Lý - Trần, t.2, Sđd, tr. 506. 4. Thơ văn Lý - Trần, t.2, Sđd, tr. 245. 36 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2013 36 của chúng. Sở dĩ Trần Nhân Tông có quan điểm triết học riêng của mình là do ông đã trình bày đặc tính của thiền hành động, nhập thế tích cực khi nói về lẽ sinh tử. Trần Nhân Tông trình bày quan niệm về sinh - diệt trong bài kệ tr−ớc khi tịch: “Mọi pháp đều không sinh Mọi pháp đều không diệt Nếu hiểu đ−ợc nh− thế Ch− Phật th−ợng hiện tiền Chẳng đi cũng chẳng lại”(5) Theo Trần Nhân Tông, sinh diệt hiểu theo nghĩa rộng chỉ tính chất vô th−ờng huyền ảo của thế giới hiện t−ợng, nh−ng bản chất của nó là cái khác, là cái chẳng sinh cũng chẳng diệt, chẳng đi chẳng đến, không đầu không cuối, vô thủy vô chung. Tuy nhiên, giữa thế giới hiện t−ợng và bản chất không có gì ngăn cách, khác biệt. Vấn đề quan trọng là ở chỗ cái tâm. Cũng một hoàn cảnh, đời sống, bằng cái tâm tĩnh lặng thì thấy sinh tử là Niết Bàn. Tâm là phật, phàm là thánh, còn nếu bằng cái tâm xao động thì sinh là sinh, tử là tử. Theo nghĩa hẹp, lẽ sinh, tử đ−ợc Trần Nhân Tông hiểu một cách sâu sắc: tính cách vô th−ờng, ngắn ngủi của cuộc sống con ng−ời, nó nh−: hơi thở qua buồng phổi mà thôi. Vậy, con ng−ời có thể thoát khỏi giới hạn sinh, tử không? Theo ông, con ng−ời không thể tránh khỏi sinh tử và vòng nhân quả, do đó không thể chạy trốn khỏi nó để tìm ra Niết Bàn. mà ng−ợc lại, nó phải ở ngay trong sinh tử để hiểu vấn đề sinh tử không phải chuyện tầm phào, vô ích, mà là vấn đề lớn, liên quan đến thái độ sống của ng−ời hành giả. Thái độ sống của Trần Nhân Tông tr−ớc cuộc đời ngắn ngủi rõ ràng là tích cực, sống cho hết mình, đừng để thời gian trôi qua một cách vô ích. T− t−ởng này đ−ợc ông thể hiện bằng bài kệ trong buổi đại tham tại chùa Sùng Nghiêm: “Thân nh− hơi thở trong mũi khi hô hấp, Cuộc đời nh− đám mây bay theo gió ngoài núi xa. Chim quyên kêu rã bao ngày tháng, Chớ để luống qua mùa xuân một cách tầm th−ờng”(6) Ông luôn kêu gọi mọi ng−ời không bỏ phí ngày xuân, mà phải làm việc gì cho đạo cũng là cho đời. T− t−ởng “c− trần lạc đạo” của Trần Nhân Tông là sự dung hòa giữa đạo đức Phật giáo với đạo đức dân tộc. Đó cũng chính là khuynh h−ớng thế tục hóa trong t− t−ởng nhập thế của ông. Trần Nhân Tông cho rằng, cần chấp nhận sinh tử nh− một lẽ th−ờng nhiên, thái độ tích cực ở đây là không làm và chấp vào cái huyền ảo của sinh tử, nh−ng không chạy trốn nó mà lấy chính nó làm cơ sở, môi tr−ờng để hành đạo. Cần phải sống giữa đời, giải quyết những thách đố của đời th−ờng, “tùy duyên mà hành đạo”. Sống tùy tục, trộn lẫn với đời th−ờng, cũng chính là sống hành động với cái tâm h−ớng th−ợng. Theo Trần Nhân Tông, sự giác ngộ cần phải thực hiện giải thoát ngay khi còn sống. Vì thế mọi hoạt động xã hội nh− hoạt động quân sự, chính trị, tôn giáo đều là sự hành thiền. Thiền gia đắc đạo ngay giữa đời th−ờng 5. Nguyễn Hùng Hậu. Góp phần tìm hiểu t− t−ởng Triết học Trần Thái Tông, Nxb. Khoa học x hội, Hà Nội,1996. tr.372. 6. Nguyễn Lang. Việt Nam Phật giáo sử luận, t.1, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1992. tr. 255. Lê Thùy D−ơng. T− t−ởng nhập thế 37 37 nh− hoa sen, chỉ thanh cao nơi thấp −ớt bùn lầy. Vua Trần Nhân Tông biết cổ động sự đoàn kết keo sơn, sự nỗ lực xả thân cho đất n−ớc của các t−ớng lĩnh, binh sĩ và dân chúng khắp nơi. Sử thần Ngô Sỹ Liên đã ca tụng nhà Vua: “Vua đ−ợc tinh nhanh của thánh nhân, đạo mạo thuần túy, nhan sắc nh− vàng, thể chất hoàn toàn, thần khí t−ơi sáng Hòa nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp phục h−ng làm vẻ vang đời tr−ớc, thực là Vua thiêng của đời Trần”(7). Vận dụng triết lí thiền vào việc trị quốc yên dân, trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông (1285, 1288), Trần Nhân Tông đã lãnh đạo đất n−ớc tiến hành thắng lợi, dẹp yên bờ cõi, giữ vững độc lập chủ quyền, trở thành ngọn cờ đoàn kết nhân dân, dân tộc, cùng chia ngọt sẻ bùi. Chính tinh thần ấy là sức mạnh khiến cho vua tôi một dạ, v−ợt qua gian nan, thử thách, cùng nhau giữ vững nền độc lập của n−ớc nhà. Đó chính là t− t−ởng chính trị thân dân, gần dân và biết dựa vào dân của Trần Nhân Tông. Nếu không có t− t−ởng nhập thế tích cực thì vua không thể quan tâm đến dân cả trong tr−ờng hợp thời bình cũng nh− thời chiến. Năm 1292, chính vua đã “xuống chiếu rằng những ng−ời mua dân l−ơng thiện làm nô tỳ thì phải cho chuộc lại”(8). Cũng với tấm lòng th−ơng cảm những ng−ời cùng cực trong xã hội, khi ngự chơi bên ngoài, thấy cảnh vệ sĩ r−ợt đuổi và đánh đập nô tì, ông cho gọi bọn v−ơng hầu lại và hỏi: “Chủ mày đâu? rồi răn các vệ sĩ không đ−ợc thét đuổi. Đến khi về cung, bảo tả hữu rằng: ngày th−ờng thì có thị vệ tả hữu, khi quốc gia lâm hoạn nạn thì chỉ có bọn chúng có mặt”(9). Khi đất n−ớc thái bình, không còn bóng quân thù, Trần Nhân Tông đã chủ tr−ơng “khoan th− sức dân”, chăm lo phát triển kinh tế, mở rộng diện tích đất canh tác, xây dựng các công trình thủy lợi phục vụ nông nghiệp, miễn giảm thuế cho nhân dân... Đặc biệt, chính sách “ngụ binh − nông” của các vua Trần tiền bối đ−ợc ông kế thừa và nâng lên một b−ớc, xem toàn dân là lính và ng−ời lính là dân thay nhau chăm lo sản xuất, khi có chiến tranh xẩy ra thì toàn dân đánh giặc, đảm bảo cho đất n−ớc luôn đ−ợc phát triển về kinh tế, an ninh về quốc phòng. Ông luôn căn dặn quan lại phải biết th−ơng dân, phải trân trọng những đóng góp của nhân dân đối với đất n−ớc. Bởi lo cho đất n−ớc nên Trần Nhân Tông không chỉ nghiêm khắc với bản thân và quần thần mà với cả vị vua kế thừa ngai vàng. Ông không ngừng khuyên bảo vua Anh Tông tu tâm d−ỡng tính, kìm bớt lòng dục, xa rời tửu sắc, gìn giữ chân tâm xứng đáng trở thành đấng minh quân có thể mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho muôn dân. Vậy nên, có lần vua Anh Tông uống r−ợu x−ơng bồ say, Trần Nhân Tông cả giận, trở về Thiên Tr−ờng, xuống chiếu cho các quan ngày mai đều phải đến họp để điểm mục, ai trái thì xử tội. Anh Tông tỉnh dậy, sợ sệt phải nhờ Đoàn Nhữ Hài soạn bài biểu tạ tội. Nhân Tông xem xong mới cho gọi vua vào và bảo rằng: “Trẫm còn có con khác, cũng có thể nối ngôi đ−ợc, trẫm 7. Nguyễn Hùng Hậu, L−ợc khảo t− t−ởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam, Nxb. Khoa học x hội, Hà Nội, 1997. tr. 42. 8. Đại Việt sử ký toàn th−, t.2, Nxb. Khoa học x hội, Hà Nội, 1998. tr.68. 9. Đại Việt sử ký toàn th−, t.2, Nxb. Khoa học x hội, Hà Nội, 1998. tr. 68. 38 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2013 38 còn sống mà ng−ời còn dám làm nh− thế, huống chi sau này”(10). Rời kinh thành, xa cuộc sống ồn ào, Trần Nhân Tông lên Yên Tử, thực hiện cuộc sống xuất gia, ông nhìn mùa xuân trôi qua một cách bình thản nh− hình ảnh “ngắm cánh hồng từ chiếu thiền” mà ông viết trong bài Xuân muộn: “Tuổi trẻ ch−a t−ờng lẽ sắc không Xuân sang, hoa nở, rộn tơ lòng Chúa xuân nay đã thành quen mặt Nệm cỏ ngồi yên, ngó rụng hồng”(11) Tuy nhiên, từ đỉnh Yên Tử, Trần Nhân Tông luôn canh cánh nỗi lo cho dân, cho n−ớc và tiếp tục hoạt động cho đời sống chính trị của nhà Trần. Để thống nhất t− t−ởng trong muôn dân, tạo cơ sở cho sự đoàn kết - yếu tố sống còn của dân tộc, Trần Nhân Tông đứng ra thành lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Công lao to lớn của Trần Nhân Tông là ở việc phát huy tinh thần nhập thế của Phật giáo, luôn h−ớng tới việc phục vụ dân tộc và xây dựng một xã hội đạo đức, lành mạnh. Theo Tam tổ thực lục, ông đã vân du khắp nơi để giảng Phật pháp, dạy dân thực hành m−ời điều thiện (thập thiện), bao gồm: 1. không sát sinh; 2. không trộm cắp; 3. không tà dâm; 4. không nói dối; 5. không nói lời chia rẽ; 6. không nói lời độc ác; 7. không nói lời bẩn thỉu; 8. không tham lam; 9. không giận dữ; 10. không tà kiến... Tác giả Đại c−ơng lịch sử t− t−ởng triết học Việt Nam viết: “Hẳn là Nhân Tông muốn tiếp chí ông nội là vua Thái Tông x−a đã tìm cách dẫn dắt dân chúng từng b−ớc tin vào Phật, tự mình tìm biết rõ mình qua tụng niệm. Nh− vậy, việc h−ớng vào tâm để thấy tính, và nay trong hành động cụ thể, bằng m−ời điều thiện, để xây dựng trong nhân dân một đạo đức xã hội lành mạnh trên nền tảng đạo đức Phật giáo là −ớc nguyện của ông" . Dù ở nơi trần tục trên ngôi cao hay ở đỉnh Yên Tử với cuộc sống thanh tao, đạm bạc, nh−ng t− t−ởng và hành động của Trần Nhân Tông đều thể hiện khuynh h−ớng nhập thế tích cực. T− t−ởng Phật giáo của ông đã góp phần tạo nên sức mạnh to lớn trong chính mỗi con dân Đại Việt, làm nên lẽ sống cao quý của thời đại - một thời đại Phật giáo với bao kì tích to lớn gắn liền với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất n−ớc. Pháp Loa và Huyền Quang đã kế thừa làm phong phú hơn những t− t−ởng thiền của Trần Nhân Tông trên cơ sở phổ cập và cụ thể con đ−ờng Thiền bằng giới, định, tuệ. Nếu nh− Pháp Loa nhấn mạnh sự kết hợp chặt chẽ giữa thiền và giáo, lí và hạnh, niệm Phật và tọa thiền thì Huyền Quang chú trọng đến phong thái ung dung tự tại, không gò bó trong hành thiền với chủ tr−ơng xuất thế, sống an nhàn, vui thú với tự nhiên. Cũng nh− Trần Thái Tông, Pháp Loa chủ tr−ơng dựa vào giới luật để đạt tới chỗ an tâm. Bản chất của giới luật là “giữ cho sáu căn thanh tịnh, ngừa quấy, diệt ác”. Chủ tr−ơng của Pháp Loa buông xả thân tâm để đạt tới “vô tâm”, “vô niệm”. Ông viết: “Bên ngoài thì tham cứu “thoại đầu”, chớ để gián đoạn. Liên miên, mật thiết, không xen kẽ chắp vá, cũng không chao đảo, không tròng trành, cũng không đắm chìm mê muội. T−ơi roi rói 10. Đại Việt sử ký toàn th−, t.2, Nxb. Khoa học x hội, Hà Nội, 1989. tr. 76-77. 11. Thơ văn Lý Trần, t.2, Nxb. Khoa học x hội, Hà Nội, 1989. tr. 464. Lê Thùy D−ơng. T− t−ởng nhập thế 39 39 nh− ngọc lăn trên mâm, sáng lung linh nh− g−ơng rọi trên đài”(12). Về vấn đề nhân sinh, Pháp Loa coi lẽ sinh, tử là vấn đề quan trọng ngang với việc tìm “tâm Phật, ý Tổ”. Việc tham thiền, niệm Phật không chỉ cốt soi sáng ý nghĩa của sự sống chết, mà còn đạt đến chỗ tận cùng của nó. Đó là đón nhận sự sống, chết một cách tự do, “muốn ở thì ở, muốn đi thì đi’. Pháp Loa thừa nhận ng−ời đạt đến cội nguồn sự sống chết, xem đi với ở là một, thức với ngủ, bệnh với không bệnh cũng chẳng thể phân biệt thành hai, để đón nhận giờ phút quan trọng của đời mình với thái độ ung dung, thản nhiên. Tuy nhiên, ông vẫn trung thành với khuynh h−ớng h−ớng nội, biện tâm. Nói đến t− t−ởng nhập thế của Pháp Loa, chúng ta không thể không đề cập tới quan điểm của ông về cách học làm ng−ời. Trong Yếu minh học thuật, ông viết: “Đối với ng−ời học, tr−ớc tiên là xét khảo kinh pháp, sau mới tu hành. Kinh có năm bậc, pháp có bốn phépVề bạn có bốn loại hơn mình: một là học Đại Thừa; hai là đọc rộng kinh điển; ba là khuyên can điều vô ích và bốn là giúp nhau trong khó khăn hoạn nạn. Đó là những hạng ng−ời có thể gần gũi, cũng gọi là vào bậc gia hạnh vậyĐi sát bốn bạn tốt, một, bạn tốt ngăn cản điều sai trái, nghĩa là khi gặp điều ác thì cùng khuyên can nhau; hai, bạn tốt từ mẫu, nghĩa là gặp điều khổ ải th−ờng cứu đỡ nhau; ba, bạn tốt làm điều lợi chung, nghĩa là khi có việc vui cùng san sẻ; bốn, bạn tốt cùng làm việc với nhau, nghĩa là khi có việc thiện thì cùng chung tay đóng góp”(13). Là nhà tu hành xuất gia, song Pháp Loa không bao giờ quên ân đức của cha mẹ và vua, cho đó là ân nghĩa không bao giờ trả hết. Vì vậy, trong cách học đạo làm ng−ời ông viết: “Với chút việc thiện nhỏ này mong đền đáp tứ ân: dù nhiều lần x−ơng tan thịt nát cũng không thể đền đáp đ−ợc công ơn nh− trời cao lồng lộng”(14). Tứ ân của nhà Phật, còn gọi là tứ trọng ân: 1. Ơn cha mẹ; 2. Ơn chúng sinh; 3. Ơn Quốc gia; 4. Ơn Tam Bảo. Thực hiện tốt tứ trọng ân cũng có nghĩa là nhà tu hành phải đồng thời hành động theo tinh thần nhập thế. Bằng đức độ, tài năng và lòng nhiệt thành của mình, đ−ợc sự ủng hộ tích cực về mọi mặt của nhà n−ớc Trần, Pháp Loa đã thực hiện xuất sắc nhiệm vụ mà Trúc Lâm Điều Ngự đã kì vọng là phát triển đạo pháp, kiện toàn tổ chức giáo hội. Tuy xuất gia khi tuổi đã cao, song thiền s− Huyền Quang đã nỗ lực trút bỏ mọi −u phiền từng đeo đẳng ông trong suốt 20 năm quan tr−ờng. Cuộc đời ông d−ờng nh− có hai mảng đối lập nhau. Một mảng đời đi theo con đ−ờng của các Nho sĩ, tinh thông Nho học, m−u cầu công danh. Mảng đời sau là con đ−ờng của các thiền s−, tham vấn thiền, tu trì đắc đạo. Nối nghiệp Pháp Loa, trở thành tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, Huyền Quang cũng gặp nhiều khó khăn trong việc lãnh đạo Giáo hội, nhất là khi 12. Thơ văn Lý - Trần, t.2, Nxb. Khoa học x hội, Hà Nội, 1989. tr. 667. 13. Thơ văn Lý - Trần, t.2, Sđd, tr. 675-676. 14. Lịch sử t− t−ởng Việt Nam, Văn tuyển, tập 2: T− t−ởng Việt Nam thời kỳ Trần – Hồ. Biên soạn: Trần Nguyên Việt, Lê Thị Lan & Hoàng Kim Kính. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004, tr. 282. 40 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2013 40 vai trò của Nho giáo và địa vị của các Nho sĩ ngày càng chiếm −u thế hơn trong việc quản lí xã hội và lãnh đạo tinh thần xã hội thời Trần. Tinh thần nhập thế tích cực của ông thể hiện qua những đóng góp lớn lao trong việc phổ biến, giảng giải giáo lí Thiền phái Trúc Lâm. Biên soạn sách giáo khoa, phổ cập hóa giáo lí Thiền cho tăng ni. Đó cũng chính là tinh thần nhập thế tích cực của ông. T− t−ởng Thiền học cơ bản của Huyền Quang là con đ−ờng chứng ngộ về lẽ sinh tử. Theo ông, giới, định, tuệ là con đ−ờng chứng ngộ của các thiền s−. Giới, định là những bức t−ờng chắc chắn để ngăn chặn dòng lăng xăng, xao động của tâm. Nhờ Giới mà dòng sinh, diệt của ngũ uẩn ngừng nghỉ, “vạn duyên không quấy nhiễu”(15). Nhờ Định mà cái tâm an tịnh, tĩnh lặng. Còn nhờ Tuệ mà tâm mới bừng sáng, nhập vào bản thể tối cao huyền diệu, viên đồng “thị”, “phi”, “mê”, “ngộ”, “ma”, “Phật”. Về lẽ sinh tử, Huyền Quang cũng ý thức rõ về kiếp sống vô th−ờng và ngắn ngủi của con ng−ời so với cái vô tận, vĩnh hằng của không h−. Cuộc sống sẽ trở nên vô nghĩa nếu con ng−ời còn tham tiếc, l−u luyến, lặn hụp trong biển sinh tử. Theo ông, ý nghĩa của cuộc đời là ở chỗ thấu hiểu lẽ sinh tử đến cội nguồn của nó và trầm mình vào cội nguồn đó, đây là những quan điểm, suy nghĩ mang tính nhập thế cao. Chủ tr−ơng xuất thế, ẩn dật, lánh đời của ông không phải tu hành khắc khổ theo Đầu Đà, mà theo kiểu Lão - Trang. Xuất thế nh−ng lại là nhập thế. Nh− vậy, nhập thế trong t− t−ởng của các thiền s− – sáng lập gia Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử đã đ−ợc thể hiện qua sự kế thừa từ các dòng Thiền đã đ−ợc du nhập vào n−ớc ta, đặc biệt là Thiền phái Vô Ngôn Thông, tức Thiền Nam tông Trung Hoa do Lục tổ Huệ Năng sáng lập. Tuy nhiên, trong t− t−ởng nhập thế của dòng thiền này, tính quy định của những điều kiện lịch sử cụ thể ch−a đ−ợc đặt ra và lí giải một cách rõ ràng. Chỉ khi các nhà Thiền học Việt Nam, đi tiên phong là Trần Thái Tông và tiếp theo là Tuệ Trung Th−ợng sĩ mới làm rõ đ−ợc những nội dung căn bản của nhập thế Phật giáo trong mối quan hệ của tôn giáo này với các học thuyết triết học khác, với những yếu tố lịch sử cụ thể của thời đại để từ đó, các thiền s− thế hệ sau kế thừa, phát triển lên thành những đặc tr−ng riêng của Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam. Những đặc tr−ng ấy tr−ớc hết đ−ợc thể hiện trong đời sống Thiền. Đó là tính tự do, tự tại, không cần thiết phải tu đầu đà, phải ăn chay niệm Phật, mà thực hiện đúng tông chỉ của Thiền là Phật tức tâm, tâm tức Phật. Nhờ đó mà từ những vấn đề về bản thể luận, nhận thức luận đ−ợc Trần Thái Tông và Tuệ Trung Th−ợng sĩ đặt ra, Trần Nhân Tông và hai học trò, đồng thời là những ng−ời kế tục vị trí thiền tổ đã đ−a ra chủ tr−ơng đúng đắn là tùy duyên. Vui với đạo nh−ng các thiền s− đã không quên nhiệm vụ của đời sống trần tục, bởi vận mệnh của dân tộc, sự an nguy của dân cũng chính là sự thịnh suy của Phật giáo./. 15. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, t.1, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1992. tr. 265.
File đính kèm:
- tu_tuong_nhap_the_cua_tam_to_truc_lam_yen_tu.pdf