Tư tưởng trọng Nho giáo của Hồ Quý Ly và Nguyễn Trãi

Tóm tắt Tư tưởng trọng Nho giáo của Hồ Quý Ly và Nguyễn Trãi: ...ên sư. Văn Miếu đặt tượng Chu Công ở chính giữa, nhìn về phương Nam, Khổng Tử ở phía bên, nhìn về phương Tây. Cho sách Luận Ngữ có bốn chỗ đáng ngờ, như Khổng Tử ra mắt nàng Nam Tử, Khổng Tử bị hết lương ở nước Trần, Công Sơn, Phật Hất cho gọi mà Khổng Tử đều muốn tới giúp. Cho Hàn Dũ ...đã phê phán Hồ Quý Ly: “Nhân họ Hồ chính sự phiền hà/ Để trong nước lòng dân oán hận”. Thậm tệ hơn, ông còn cho đó là lí do khiến “quân cường Minh thừa cơ tứ ngược”, khiến cho đất nước rơi vào cảnh ngoại xâm, nhân dân chịu bao sự tàn sát, bóc lột của chúng. Từng là người làm việc trong... phục tội/ Thể lòng trời đất bất sát, ta cũng mở đường hiếu sinh”. Có thể thấy, Nguyễn Trãi đã nhìn tướng giặc ở vị trí của những con người trước khi coi họ là kẻ thù đã dẫm đạp lên quê hương, đất nước mình. Như vậy, từ đầu tới cuối, trong suốt cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi trun...

pdf7 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 230 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Tư tưởng trọng Nho giáo của Hồ Quý Ly và Nguyễn Trãi, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đào Vũ Vũ 
 47 
Tư tưởng trọng Nho giáo 
của Hồ Quý Ly và Nguyễn Trãi 
Đào Vũ Vũ * 
Tóm tắt: Việt Nam vào cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV đứng trước bài toán 
chuyển đổi ý thức hệ từ Phật giáo sang Nho giáo do nhu cầu củng cố, phát triển và bảo 
vệ đất nước. Cả Hồ Quý Ly và Nguyễn Trãi đều chủ trương đặt Nho giáo làm ý thức 
hệ trung tâm. Hồ Quý Ly chủ trương Nho giáo với các giá trị thực dụng nhưng lại thất 
bại trong việc lấy lòng dân. Còn Nguyễn Trãi đề cao giá trị nhân nghĩa trong Nho giáo 
để lấy lòng dân, đoàn kết cộng đồng để giành lại độc lập cho dân tộc và xây dựng nên 
nhà Lê. 
Từ khóa: Nho giáo; nhân nghĩa; Hồ Quý Ly; Nguyễn Trãi. 
1. Mở đầu 
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tam 
giáo (Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo) hòa 
đồng là xu thế chảy ngầm và chủ đạo. Tuy 
nhiên, vị trí của 3 tôn giáo đó không phải 
như nhau. Cuối nhà Hồ đầu nhà Lê là giai 
đoạn chuyển giao từ tư tưởng lấy Phật giáo 
làm trung tâm sang tư tưởng lấy Nho giáo 
làm trung tâm. Hai nhân vật đóng vai trò 
quan trọng trong việc chuyển giao này là 
Hồ Quý Ly và Nguyễn Trãi. Cả Hồ Quý Ly 
và Nguyễn Trãi đều là những người chủ 
trương dùng Nho giáo làm nền tảng cho 
quốc gia. Xu thế sử dụng Nho giáo để chấn 
chỉnh đất nước là xu thế tất yếu lúc bấy giờ. 
Tuy nhiên, cách thức lấy Nho giáo làm 
trung tâm của mỗi người lại khác và vì thế 
tạo ra những hiệu quả khác nhau. Công 
cuộc cải cách của Hồ Quý Ly nhanh chóng 
bị tiêu tan khi dân tộc rơi vào cảnh ngoại 
xâm. Nhà Hồ không được các sử gia của 
Đại việt sử ký toàn thư đặt vào chính sử. 
Trong khi đó, Nguyễn Trãi cùng với Nho 
giáo đã giúp dân tộc giành lại độc lập, dựng 
lên nhà Lê, chính thức đặt Nho giáo làm ý 
thức hệ trung tâm của xã hội. 
2. Tư tưởng trọng Nho giáo của Hồ 
Quý Ly(*) 
Hồ Quý Ly (1336 - 1407) là người mà 
chỉ trong vòng 16 năm (từ năm 1371 đến 
năm 1387) đã đứng trên đỉnh cao danh vọng, 
nắm quyền bính quốc gia và chủ trương cải 
cách kiên quyết. Năm 1398, Hồ Quý Ly tự 
xưng là Đại vương, thay vua giữ chính 
quyền và đến năm 1400 thì truất vua, tự 
xưng là Hoàng Đế, lập nên nhà Hồ. Đến 
cuối năm lại truyền ngôi cho con thứ là Hán 
Thương và cùng con trị vì đất nước. Vì 
những hành động táo bạo và tiếm quyền 
nhanh chóng này nên nhiều người đánh giá 
Hồ Quý Ly là kẻ đã cướp ngôi nhà Trần. 
Đương thời cũng không ít người phản đối. 
Các tướng sĩ Lê Á Phù, Nguyễn Hà, Nguyễn 
Bát Sách, Lê Lặc và Lương Thường thì đòi 
phục lại nhà Trần và đều bị Hồ Quý Ly giết 
hại. Năm 1398, Hồ Quý Ly đã giết hại khoảng 
300 người sau khi âm mưu ám sát Hồ Quý 
Ly của các đại thần thân tộc nhà Trần bị thất 
(*) Thạc sĩ, Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học 
xã hội Việt Nam. ĐT: 0435147105. 
Email: daovuvu@gmail.com. 
TRIẾT - LUẬT - TÂM LÝ - XÃ HỘI HỌC 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12(97) - 2015 
 48 
bại. Hồ Quý Ly đã tạo ra không khí khủng 
bố trong giới quan lại cũng như trong dân 
chúng, bởi “pháp quyền mà không hợp lòng 
dân thì trở thành sức mạnh áp bức bạo 
ngược, gây thù chuốc oán!” [1, tr.396]. 
Hồ Quý Ly là nhân vật phải đảm trách 
việc giải quyết khủng hoảng xã hội đương 
thời. “Triều đình cần một người có khả 
năng và quyền lực để nhận lãnh sứ mệnh 
giúp vua cai quản đất nước, chống giặc 
ngoại xâm. Người đó lúc này, không còn ai 
hơn Hồ Quý Ly” và “sự lên ngôi của Hồ 
Quý Ly năm 1400 như một sự chín muồi 
trong yêu cầu giải quyết khủng hoảng cung 
đình. Hồ lên thay Trần” [2, tr.88, 92]. 
Trong thời buổi mà nhiều người trong 
giới tăng lữ Phật giáo đã quá chây lì, ăn 
bám và lười biếng thì cần phải thay thế ý 
thức hệ Phật giáo bằng ý thức hệ mới làm 
chuẩn mực cho các quan hệ trong xã hội 
cũng như chuẩn mực đạo đức xã hội. Số 
lượng nho sĩ thời Trần đã tăng lên đáng kể, 
các ngành như văn học, sử học phát triển 
mạnh mẽ hơn trước đó. Việc các nhà nho 
công khai phê phán Phật giáo, có thể kể ra 
như Trương Hán Siêu, Lê Quát, Lê Văn 
Hưu cũng là việc dễ hiểu. Các nho sĩ chủ 
yếu phê phán “tác phong” của giới Phật 
giáo [3, tr.272 - 274], đồng thời đưa ra mẫu 
hình “xử sĩ” lí tưởng của Nho giáo. Những 
người theo “tư tưởng xử sĩ của Nho học 
chân chính rất sợ danh tiếng ở đời, sống vì 
danh, chết vì danh” vì thế “phải chờ thời, 
đợi thời cơ, cốt giữ lòng mình “tòng nhất 
nhi chung” và tin vào thiên mệnh, ý trời 
toàn trí, toàn năng, thường cùng với người 
lành” [4, tr.113]. Chính vì tâm thế xử sĩ này 
nên bản thân các nho sĩ đã không thoát khỏi 
sự kiềm tỏa của học thuyết Nho giáo mang 
tính ngoại lai. Về vấn đề này, Nguyễn Đăng 
Thục nhận định: “Triết lý vương đạo lý 
tưởng của Trần Nguyên Đán dặn lại 
Thượng hoàng Nghệ Tông, “coi Minh như 
cha, thương Chiêm Thành như con”, không 
thực tế chút nào cả, chỉ là thơ ngây và 
không tưởng” [4, tr.74]. 
Cũng có thể chính bởi bệnh giáo điều và 
rập khuôn của các nho sĩ nên khi Lê Bá 
Quát hay Phạm Sư Mạnh muốn thay đổi 
chế độ thì vua Trần đã không đồng ý [5, 
tr.273]. Nhưng khi đối chiếu với thái độ tin 
tưởng vào Hồ Quý Ly của vua Nghệ Tông, 
ta có thể hiểu rằng, việc thay đổi chế độ 
hiển nhiên là việc làm khó, tuy nhiên cái 
mà nhân dân cần chính là sự thực tế, những 
con người thực sự vì dân vì nước. 
Trong tình hình đó, Hồ Quý Ly đã đi 
đúng hướng. Trước hết, Hồ Quý Ly đã phê 
phán kịch liệt bọn “Nho sinh mặt trắng”, 
phê phán việc học Nho rập khuôn và thái độ 
sùng Tống Nho, tự ti trước Tống Nho của 
giới nho sĩ lúc bấy giờ. Cuốn Minh đạo của 
ông dâng lên vua Nghệ Tông thể hiện tinh 
thần mà theo Nguyễn Đăng Thục là “cùng 
lý trí dụng”, đặt tiêu chuẩn của học thuật 
vào cái thực dụng, thực tế, thực nghiệm làm 
chuẩn đích. Do đó, Hồ Quý Ly là nhân vật 
hiếm hoi trong lịch sử tư tưởng Việt Nam 
phê phán Nho học. Đại Việt sử ký toàn thư 
viết: “Quý Ly soạn sách Minh đạo gồm 14 
thiên dâng lên. Đại lược cho Chu Công là 
tiên thánh, Khổng Tử là tiên sư. Văn Miếu 
đặt tượng Chu Công ở chính giữa, nhìn về 
phương Nam, Khổng Tử ở phía bên, nhìn 
về phương Tây. Cho sách Luận Ngữ có bốn 
chỗ đáng ngờ, như Khổng Tử ra mắt nàng 
Nam Tử, Khổng Tử bị hết lương ở nước 
Trần, Công Sơn, Phật Hất cho gọi mà 
Khổng Tử đều muốn tới giúp. Cho Hàn Dũ 
là “đạo nho”, cho bọn Chu Mậu Thúc, 
Trình Di, Dương Thì, La Trọng Tố, Lý 
Diên Bình, Chu Tử, tuy học rộng nhưng ít 
Đào Vũ Vũ 
 49 
tài không sát với sự việc, chỉ thạo cóp nhặt 
[văn chương người xưa]” [6, tr.318 - 319]. 
Nhận thức được thực tế tình hình đất 
nước, lại có thái độ phê phán giới nho sĩ 
đông đảo nhưng thiếu thực chất, Hồ Quý 
Ly nhanh chóng nắm lấy quyền lực, dựng 
lên nhà Hồ để có thêm sức mạnh trong việc 
thực hiện các chính sách thực tế cho đất 
nước. Nhưng bản thân Hồ Quý Ly lại mâu 
thuẫn với ý thức hệ Nho giáo về vấn đề 
vương quyền, bởi ông không có một cơ sở 
nào để đứng lên ngôi vị làm “cha mẹ” của 
muôn dân. 
Nguyễn Tài Thư trong bài “Hồ Quý Ly: 
cuộc thử nghiệm về xây dựng nền Nho học 
mang sắc thái Việt Nam” [7] đã chỉ ra rằng, 
cải cách Nho học của Hồ Quý Ly là “cuộc 
thử nghiệm về xây dựng nền Nho học mang 
sắc thái dân tộc Việt Nam, sao cho nó thiết 
thực hơn, dân tộc hơn và phổ cập hơn”. 
Trong tương quan với thời đại Nho học bị 
phê phán là “học phong rập khuôn theo 
kiểu phương Bắc” với toàn bọn “học trò 
mặt trắng” [8, tr.145] và cục diện tư tưởng 
như đã phân tích ở trên, thì đánh giá về vị 
trí của Hồ Quý Ly trong dòng tư tưởng Nho 
giáo Việt Nam như “cuộc thử nghiệm” là 
hoàn toàn xác đáng. 
 Xu hướng cải cách Nho giáo theo hướng 
chống giáo điều và thực tế của Hồ Quý Ly 
có một phần như một số học giả nhận định 
là: “Xuất phát từ lợi ích của tập đoàn phong 
kiến do Hồ Quý Ly làm đại biểu” [3, 
tr.276]. Nhưng có thể thấy rằng, Hồ Quý Ly 
là nhân vật đã thúc đẩy cho quá trình 
chuyển giao ý thức hệ từ Phật giáo sang 
Nho giáo. Thái độ phê phán Nho giáo của 
Hồ Quý Ly đã mở ra khuynh hướng đề cao 
tính thực tiễn của Nho giáo, khuynh hướng 
này có thể thấy ở các học giả như Lê Quý 
Đôn, Lê Hữu Trác. Mặc dù “vấn đề lớn mà 
Hồ Quý Ly nêu ra là thay đổi học phong thì 
không được triều đại nào thừa nhận” (theo 
nhận định của Nguyễn Tài Thư) nhưng nếu 
nhìn từ góc độ giá trị quan, Hồ Quý Ly đã 
khôi phục giá trị thực dụng cho Nho giáo 
Việt Nam thời kì này. 
Trên thực tế, những việc làm của Hồ Quý 
Ly đã không được lòng người thuận theo, 
mặc dù đều thực tế và cần kíp cho đất nước 
lúc bấy giờ. Thất bại của Hồ Quý Ly đã 
được nhiều học giả chỉ ra. Hồ Quý Ly tiếm 
quyền, đẩy đất nước vào cảnh ngoại xâm là 
những lý do thường được dẫn ra nhất. Nhân 
dân thì mệt mỏi nhưng Hồ Quý Ly lại áp 
dụng nhiều chính sách cứng nhắc. Việc xây 
dựng thành nhà Hồ khiến dân chúng oán 
thán. Đó cũng là lý do khiến Hồ Quý Ly thất 
bại trong công cuộc chuyển đổi đất nước 
sang ý thức hệ Nho giáo. “Lòng dân mạnh 
hơn pháp luật - không được ủng hộ của 
nhân dân là nguyên nhân quyết định sự thất 
bại của nhà Hồ” [1, tr.396]. Hồ Quý Ly đã 
không lấy được lòng dân nên những chủ 
trương của ông dù đúng đắn, vẫn thất bại. 
3. Tư tưởng trọng Nho giáo của 
Nguyễn Trãi 
Nguyễn Trãi (1380 - 1442), năm 1400, 
ông đỗ Thái học sinh trong khoa thi Đình 
đầu tiên dưới triều nhà Hồ. Năm sau ông 
giữ chức Ngự sở đài Chính chưởng. Năm 
1407, giặc Minh xâm lược, cha con Hồ Quý 
Ly bị bắt, nhiều người bị giết hoặc đưa về 
Trung Quốc, Nguyễn Trãi trốn thoát được. 
Đến năm 1418, ông gặp Lê Lợi, trao Bình 
Ngô sách và thuyết phục Lê Lợi khởi nghĩa, 
giành lại độc lập cho dân tộc. Sau khi đánh 
đuổi giặc Minh và dựng lên nhà Lê, 
Nguyễn Trãi với tư cách là Khai quốc công 
thần viết Bình Ngô đại cáo để tuyên bố với 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12(97) - 2015 
 50 
nhân dân về sự thắng lợi này cũng như sự ra 
đời của nhà Lê. 
Trong Bình Ngô đại cáo, bản thân 
Nguyễn Trãi đã phê phán Hồ Quý Ly: 
“Nhân họ Hồ chính sự phiền hà/ Để trong 
nước lòng dân oán hận”. Thậm tệ hơn, ông 
còn cho đó là lí do khiến “quân cường Minh 
thừa cơ tứ ngược”, khiến cho đất nước rơi 
vào cảnh ngoại xâm, nhân dân chịu bao sự 
tàn sát, bóc lột của chúng. Từng là người 
làm việc trong triều đình Hồ Quý Ly và ở 
những chỗ khác, Nguyễn Trãi thể hiện thái 
độ cô trung với nhà Hồ, ông gọi Hồ Quý Ly 
là “anh hùng trên đời, anh hùng một thời” 
đồng thời cũng là “anh hùng di hận, anh 
hùng thế thượng, anh hùng thệ” [9, tr.433 - 
445]... Điều này cho thấy, Nguyễn Trãi 
công nhận con người và những việc Hồ 
Quý Ly đã làm, nhưng ông cũng đã tiếp nối 
tinh thần phê phán của Hồ Quý Ly để phê 
phán một dạng nhà Nho khác, không phải là 
“nho sinh mặt trắng” mà là “nho sĩ chuyên 
quyền” mà đại diện là Hồ Quý Ly. 
Ông chỉ ra nguyên nhân thất bại của Hồ 
Quý Ly là đã “để lòng dân oán hận”. 
Nguyễn Trãi đúc kết từ kinh nghiệm lịch 
sử, từ sự thất bại của nhà Hồ, và từ chính tư 
tưởng Nho giáo chân chính. Tư tưởng của 
Nguyễn Trãi là bổ khuyết cho sai lầm của 
Hồ Quý Ly, đó là việc đúc rút ra tư tưởng 
chính trị mang tính chất trọng dân: “Chở 
thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là 
dân”, đó là việc tuyên bố “việc nhân nghĩa 
đích thực”: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân/ 
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Trong câu 
nói trên, Nguyễn Trãi vừa chứng tỏ cái 
“nhân nghĩa đúng đắn”, đích thực của Nho 
giáo là phải làm dân yên lòng, việc làm nhân 
nghĩa của quân điếu phạt phải là trừ bạo chứ 
không phải để sát phạt khi thao túng quyền 
lực như Hồ Quý Ly đã từng làm. 
Nguyễn Trãi có tư tưởng thương người 
khi ông hiểu con người ai cũng có quyền 
sống. Lấy căn cứ từ “lòng trời bất sát”, 
trong những lần thư từ trao đổi với tướng 
giặc, Nguyễn Trãi cho rằng ai sinh ra cũng 
đều có quyền sống, có quyền sinh hoạt yên 
ổn: “Ghét chết thích sống, tìm vinh tránh 
nhục, đó là thường tình của người ta” [10, 
tr.358]. Chính vì thế không thể vì bất cứ lý 
do nào để cướp đi cuộc sống, tính mạng của 
con người. Ông phê phán hành động 
“Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn/ 
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ” của giặc Minh 
là hành động “bại nhân nghĩa nát cả càn 
khôn”, là hành động phá hoại nhân nghĩa, 
đạo lý của trời đất. Hành động bạo ngược 
của chúng khiến trời đất không thể dung 
thứ, khiến con người không thể nhẫn nhịn 
chịu đựng, vì thế phải điếu phạt để trừ bạo, 
để trừ khử những kẻ xâm hại tới thiên đạo 
hiếu sinh. Tư tưởng nhân nghĩa này mang ý 
nghĩa bảo vệ cái chính nghĩa. Chính nghĩa ở 
đây là việc dấy nghĩa binh chống lại những 
kẻ đang dẫm đạp lên đất nước của người 
khác, chống lại những kẻ giết hại người dân 
vô tội. 
Nguyễn Trãi cũng dùng chính tư tưởng 
nhân nghĩa để “đối lý” với tướng giặc: 
“Nước mày [...] mượn danh nghĩa điếu dân 
phạt tội để thực hành việc bạo tàn, lấn cướp 
đất nước ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng 
hình ác, vơ vét của quý, người dân hèn mọn 
nơi xóm làng chẳng được sống yên. Lòng 
nhân nghĩa mà lại như thế ư?” [10, tr.377 - 
378]. Ông tuyên cáo về cuộc chiến dối trá, 
giả danh nhân nghĩa của giặc Minh. Nhưng 
ông cũng đối xử với quân giặc theo đúng 
nghĩa con người. Ông tôn trọng chúng hết 
mực, cư xử tử tế với đúng địa vị của chúng: 
Đào Vũ Vũ 
 51 
“Đệ ở Đông Quan, nghe tin hiền huynh dời 
ra ngoài thành bái kiến Trần chúa của 
chúng tôi. Thật đáng mừng! Từ nay giải 
binh... Như thế mới đúng là bậc quân tử 
biết thời cơ. Đó là cái tình giao hảo, dù đến 
trăm năm cũng không quên” [10, tr.392]. 
Cũng với quan điểm nhất quán tin tưởng 
vào ý hướng thiện và lòng người biết phải, 
khi quân giặc đã thua trận, đã chịu đầu 
hàng, Nguyễn Trãi không vì oán giận mà 
chém giết, ông quay về với tư tưởng thương 
người, trung thành với đạo hiếu sinh của 
trời đất để mở đường sống cho giặc. Ông kể 
trong Bình Ngô đại cáo: “Bắt tướng giặc 
mang về, nó đã vẫy đuôi phục tội/ Thể lòng 
trời đất bất sát, ta cũng mở đường hiếu 
sinh”. Có thể thấy, Nguyễn Trãi đã nhìn 
tướng giặc ở vị trí của những con người 
trước khi coi họ là kẻ thù đã dẫm đạp lên 
quê hương, đất nước mình. 
Như vậy, từ đầu tới cuối, trong suốt cuộc 
khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi trung 
thành với tư tưởng và hành động nhân 
nghĩa của mình, với đúng tinh thần mà ông 
tuyên bố: “Đem đại nghĩa để thắng hung 
tàn/ Lấy chí nhân mà thay cường bạo”. Cơ 
sở để ông thực hiện được triết học nhân 
nghĩa của mình là niềm tin vào con người, 
vào lương tâm trong sâu thẳm tâm hồn con 
người, vào ý hướng biết điều chính nghĩa, 
biết hướng thiện của con người. Chính vì 
vậy mà ông đã cảm phục được nhân tâm 
của không chỉ người Việt Nam mà còn của 
cả kẻ địch và đã hoàn thành sứ mệnh giành 
lại độc lập dân tộc, xây dựng nên nhà nước 
mới, đại diện cho người Việt Nam. Khi nhà 
Lê với mô hình Nho giáo được dựng lên 
cũng là lúc đánh dấu sự lên ngôi chính 
thống của Nho giáo trong lịch sử tư tưởng 
dân tộc. 
4. Kết luận 
Vào thế kỷ XIV - XV, Nho giáo đáp ứng 
được việc giải quyết các yêu cầu của lịch 
sử, là ý thức hệ phù hợp với thời đại lúc đó. 
Hồ Quý Ly tuy trọng Nho giáo nhưng thất 
bại trong cải cách của mình bởi đã không 
thu hút được nhân dân tham gia vào sự 
nghiệp chung. Bài học cần rút ra ở đây, 
cũng chính là điều mà nhiều triết nhân đã 
chỉ ra, đó là “hãy tự biết mình”. Chỉ trong 
một thời gian ngắn, Hồ Quý Ly đã trở thành 
người nắm giữ quyền lực với đường lối dứt 
khoát, thực dụng và mạnh mẽ. Bản thân ông 
cũng tự xưng là vua, tự dựng lên nhà Hồ và 
đã mạnh tay loại bỏ những ai không theo 
mình. Hồ Quý Ly đứng ở lập trường bản 
thân mình là chủ, đất nước mà ông cai quản 
nằm trong quyền kiểm soát của ông và ông 
có toàn quyền để thực thi các chính sách cải 
cách của mình. Nhưng Hồ Quý Ly đã tạo ra 
không khí khủng bố trong dân chúng và 
triều đình, không lấy được lòng dân, không 
thuyết phục được dân chúng thực hiện theo 
các chính sách của mình. Do đó, ông không 
được nhân dân ủng hộ. Hồ Quý Ly đề cao 
Nho giáo nhưng lại phê phán những nhà 
nho “mặt trắng” chỉ biết núp sau bóng của 
các thánh nhân Trung Quốc nên không 
được giới trí thức Nho học trong xã hội ủng 
hộ. Thái độ đề cao sự độc lập tư tưởng 
trong Nho giáo Việt Nam của ông là đúng 
nhưng cách thức phê phán của ông là sai. 
Nho giáo có những nội dung giá trị và việc 
học cái đúng đắn và hành động theo cái 
đúng đắn không thể là sai lầm. Vấn đề nằm 
ở chỗ làm thế nào để khơi gợi sức mạnh từ 
cái đúng đắn? Nguyễn Trãi là người đã làm 
được việc đó. 
Trong cuộc kháng chiến chống quân 
Minh, Nguyễn Trãi giương cao ngọn cờ 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 12(97) - 2015 
 52 
nhân và nghĩa. Tư tưởng nhân nghĩa của 
Nguyễn Trãi là một giá trị nhân bản. Ông 
mô tả trong Bình Ngô đại cáo rằng, nhà 
Minh bòn rút của cải, bóc lột dân chúng, 
đốt sách vở và phá hoại nền nhân văn nước 
Việt, chém giết dân đen không thương tiếc. 
Với Nguyễn Trãi, vấn đề nhân tính quan 
trọng không kém vấn đề dân tộc. Con người 
tại sao lại có thể chém giết lẫn nhau? Bản 
thân việc chém giết ấy không thể là hành 
động của con người, của loài người. 
Nguyễn Trãi dùng ngòi bút (khi thì nạt nộ, 
khi thì thuyết phục, khi thì mạt hạ, khi lại 
đề cao) để khơi gợi lên tính người của các 
viên tướng chỉ huy giặc Minh. Chính vì thế, 
tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là giá 
trị có tính toàn cầu. Nó phải là nguyên tắc 
nền tảng để xây dựng các giá trị khác trong 
thời đại ngày nay. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Phan Đăng Thanh (2008), “Pháp quyền 
Hồ Quý Ly”, trong: Họ Hồ và Hồ Quý Ly 
trong lịch sử (Nguyễn Hiền - Đức tổ chức 
bản thảo), Tạp chí Xưa và Nay và Nxb 
Văn hóa Sài Gòn, Tp. Hồ Chí Minh. 
[2] Văn Tạo (2006), Mười cuộc cải cách, đổi 
mới lớn trong lịch sử Việt Nam, Nxb Đại 
học Sư phạm, Hà Nội. 
[3] Nguyễn Trọng Chuẩn (Chủ biên) (2006), 
Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, t.1, 
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[4] Nguyễn Đăng Thục (1998), Lịch sử tư 
tưởng Việt Nam, t.5, Nxb Tp. Hồ Chí 
Minh, Tp. Hồ Chí Minh. 
[5] Phan Phu Tiên viết: “Triều thần bấy giờ 
như Lê Bá Quát, Phạm Sư Mạnh muốn 
thay đổi chế độ. Vua (Trần Minh Tông) 
nói: Nhà nước đã có phép tắc nhất định, 
Nam Bắc khác nhau, nếu nghe theo kế 
của kẻ học trò mặt trắng tìm đường tiến 
thân thì loạn ngay”. Dẫn theo: Nguyễn 
Trọng Chuẩn (Chủ biên) (2006), sđd, t.1, 
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[6] Công ty Đông A (2010), Đại Việt sử ký 
toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[7] Nguyễn Tài Thư (2012), “Hồ Quý Ly: 
Cuộc thử nghiệm về xây dựng nền Nho 
học mang sắc thái Việt Nam”, Kỷ yếu 
Hội thảo Mối quan hệ giữa Nho giáo và 
các trào lưu tư tưởng khác trong lịch sử 
tư tưởng Việt Nam và Hàn Quốc do 
Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học 
xã hội Việt Nam và Trung tâm Nghiên 
cứu Nho giáo - Đại học Chung Nam 
Hàn Quốc tổ chức. 
[8] Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho 
học ở Việt Nam (Một số vấn đề lý luận và 
thực tiễn), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[9] Xem thêm: Bùi Duy Tân (2008), “Hồ Quý 
Ly qua thơ văn của Nguyễn Trãi”, trong: 
Họ Hồ và Hồ Quý Ly trong lịch sử 
(Nguyễn Hiền - Đức tổ chức bản thảo), 
Tạp chí Xưa và Nay và Nxb Văn hóa Sài 
Gòn, Tp. Hồ Chí Minh. 
[10] Trung tâm Nghiên cứu Quốc học (1998), 
“Thư gửi thái giám Sơn Thọ”, Nguyễn Trãi 
toàn tập tân biên, t.1, Nxb Văn học, Hà Nội 
và Trung tâm Nghiên cứu Quốc học. 
[11] Nguyễn Công Lý (2011), “Danh nhân 
Nguyễn Trãi: Sự hội tụ những tinh hoa 
của văn hóa Thăng Long thời Lý - Trần”, 
Tạp chí Hán Nôm, số 1 (104). 
[12] Nguyễn Tài Thư (Chủ biên) (1993), Lịch 
sử tư tưởng Việt Nam, t.1, Nxb Khoa học 
xã hội, Hà Nội. 
[13] Nguyễn Hiền - Đức tổ chức bản thảo 
(2008), Họ Hồ và Hồ Quý Ly trong lịch 
sử, Tạp chí Xưa và Nay, Nxb Văn hóa Sài 
Gòn, Tp. Hồ Chí Minh. 
Đào Vũ Vũ 
 53 

File đính kèm:

  • pdftu_tuong_trong_nho_giao_cua_ho_quy_ly_va_nguyen_trai.pdf