Vai trò ca nương trong nghệ thuật ca trù
Tóm tắt Vai trò ca nương trong nghệ thuật ca trù: ...g lớp trớ thức), trong ủú ả ủào giữ vai chớnh bờn cạnh kộp28 ủệm ủàn ủỏy và 27 Hai khỏi niệm này cú trong cỏc thư tịch, ễn Như Nguyễn Văn Ngọc ủó sử dụng ủể làm tiờu ủề cho tỏc phẩm của mỡnh - ðào nương ca (1932). 28 Kộp là một nam nghệ nhõn giữ vai trũ nhạc cụng gảy ủàn ủỏy bờn cạnh...u, khẩn thiết ủúng rễ sõu trong văn húa dõn gian” [Lờ Văn Hảo 1963: 734]. ðể cho ủồng chúng “lờn” (hiển linh), cỏc cung văn cũng diễn xướng như ả ủào vừa hỏt những cõu xướng tụng cụng ủức, kể lể, cầu khẩn Ca trự và chầu văn giống nhau ở hỡnh thức ca hỏt chầu thỏnh, ủều cú chung chủ thể v... tiếng hỏt [Bựi Trọng Hiền, in trong Hồ sơ ứng cử quốc gia: 70], 38 Trớch Tang thương ngẫu lục [dẫn theo Dương ðỡnh Minh Sơn 2009: 93-94]. Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013 Trang 102 dĩ thay thế ủược cả tuồng, lại cả chốo” [Tchya 1959: 46]. 3.2. Ca nương với vai...
những ca vũ nữ (kỹ nữ) trong các đền tamil (Nam Ấn), theo nghĩa gốc là “nữ tỳ của các thần”, như một bầy linh nữ nhiệm vụ chính là múa hát trước các ngẫu tượng nhưng thực chất là làm vui tai các tu sỹ Bà La Mơn [DURANT Will 2004: 228- 229] . của devadasi Ấn ðộ, vai trị ca nương thể hiện chất giọng của ả đào Việt Nam cĩ nét “tế nhị” và trang nhã hơn nhiều. Họ hát trước hương án (trong đình- khơng gian hẹp) cho các chức sắc của làng xem và hát ở ngồi sân (khơng gian rộng) cho đơng đảo quần chúng thưởng thức. Hát cửa đình vừa mang tính chất thính phịng vừa mang tính chất đại chúng, trong những lễ hội lớn, cần huy động vài chục đào nương thay phiên diễn xướng kéo dài tới cả tuần lễ, cho nên tục hát thẻ mới nảy sinh, để tiện lợi việc chi trả tiền một lần cho đồn hát. Ngồi thưởng thẻ, sau khi hát thờ thần xong, ả đào cịn được các quan viên thưởng tiền trực tiếp, gọi là “lệ thưởng đào”34. Sự xuất hiện của những cái thẻ và quá trình biến đổi của nĩ sang hình thức thưởng tiền trực tiếp phản ánh bước ngoặt chuyển tiếp vai trị đào nương từ một “người hồn tồn tài tử” sang một nghệ sỹ chuyên nghiệp. 2.2. Vai trị ca nương trong các tập tục/lễ nghi khác Bên cạnh tập tục thờ cúng, lệ khao vọng cũng là một trào lưu phong hĩa của chốn hương thơn Việt Nam, người thi đỗ, được thăng chức, hay lên hạng bơ lão, đều phải khao. “Cỗ khao nhiều nơi dùng lệ nặng, dân làng ăn xong đến lượt tiệc riêng để khoản đãi bọn chức sắc, bọn này ở lại chơi đêm, bày ra nào là tổ tơm, nào là thuốc phiện, nào là hát ả đầu” [Phan Kế Bính 1972: 131]. Hát khao vọng khơng thuần túy thưởng thức văn nghệ như hát chơi, mục đích là hướng tới sự chúc tụng một cá nhân trước cơng chúng. Vai trị của đào nương là “người cổ vũ”, dùng tiếng hát 34 Làng Bát Tràng và làng Thị Cầu (Bắc Ninh) cĩ tục thưởng giải ca chúc thần. “Bọn thập bát (18 con trai) phải ra dõng dạc gọi bọn con hát ở trước mặt dân, xong rồi ném tiền xuống chiếc mâm thau dưới chiếu đào kép ngồi”. Làng Phù Lưu (Bắc Ninh) cĩ tục phẩy quạt rao, lấy tiền thưởng đào, mỗi khi cĩ lễ vào đám thì mời một số quan viên, dân chúng bên Hà Dương sang dự tiệc tại đình và cĩ ả đào giúp vui. Người chủ tế sau khi xướng mấy câu thơ liền lấy tiền thưởng đào, dân hai làng biểu lộ sự đồng tình bằng cách: người Hà Dương cầm đũa gõ bát mà rao, người Phù Lưu đứng dậy, cầm quạt chỉ lên trời vừa phất vừa rao [Xem Bắc ninh khảo dị, dẫn theo Lê Văn Hảo 1963: 737]. TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 16, SỐ X2- 2013 Trang 101 để vinh danh đối tượng được chúc tụng, làm tăng thêm tính long trọng, linh đình của cuộc lễ. Cũng như hát thờ, hát khao cũng kể lể cơng đức, ca ngợi sự nghiệp, nhưng đây là cơng đức và sự nghiệp của người cịn sống, đang hiện hữu. Tham gia vào cuộc lễ khao vọng trong khơng gian tư gia, ả đào đã gĩp phần mở rộng phạm vi hoạt động và tính chất của nghệ thuật ca trù. So với chèo và hát bội cũng là những loại hình nghệ thuật rất được ưa dùng trong lễ khao vọng, thì sự cĩ mặt của ả đào và nghệ thuật ca trù đã khẳng định đẳng cấp của chủ thể cuộc lễ. Trong khi phần lớn các võ thần và hạng quân nhân thích chèo, tuồng (mang nét dân dã) thì các văn nhân chọn hát ả đào là để thể hiện sở thích mang tính trí tuệ, tính quý phái. Nếu như hát khao vọng đối tượng được chúc tụng là dân thường thì hát chúc hỗ35, đối tượng được chúc là vua, nhưng dân chúng là nhân chứng đến tụ họp để xem. Vì giữ vai trị là người đại diện dân nĩi lời sùng bái vua, đồng thời thay vua kể cơng đức của vua cho dân nghe nên đào nương hát chúc hỗ được bao cấp hồn tồn mọi chi phí, nếu tài năng cịn được phong làm đào ngự giữ một địa vị danh giá nhất của nghệ thuật ca trù. 3. Vai trị ca nương khi ca trù đã biến thành thú vui của một thiểu số (giới quý tộc, trí thức) Khi được tiến cung, rồi vào nhà quan, đào nương đã thốt ly khỏi mơi trường đại chúng, trở thành đối tượng sở hữu độc quyền của một tầng lớp yếu nhân trong xã hội: quý tộc, trí thức. Tầng lớp này cĩ nhu cầu giải trí bằng hình thức viết lách, soạn thành nhạc và nuơi dạy ả đào hát xướng lên để tơn vinh đẳng cấp của họ: “Kẻ thường đâu dám chi nghìn lạng/ Phải đợi vương tơn quẩy rượu sài” 36. Nhu cầu này đã cho ả đào 35 Hát chúc hỗ là những bài hát chúc tụng cơng đức của vua, tức là vừa tế, vừa hát xướng, nguyên nghĩa chữ “chúc hỗ” là lời chúc cho vua, mà nhân dân thường gọi là tấu nhạc ca. 36 Trích trong bài thơ của Ninh Tốn (1743-1795) tiến sỹ đời vua Lê Cảnh Hưng (1740-1786) viết ca ngợi phường hát Hịe Nhai. một cơ hội giữ vai trị quan trọng trong văn học (một cố vấn tinh thần, một nàng thơ) và trong sinh hoạt văn hĩa của giai cấp quý tộc phong kiến, gĩp phần tạo nên văn hĩa ả đào- văn hĩa kỹ nữ. 3.1. Ca nương với vai trị là nhân vật văn hĩa của giai cấp thống trị Trong cung đình, ả đào đĩng vai trị cung nữ phục vụ giải trí ca, nhạc, vũ. ðặc điểm của âm nhạc cung đình là “thích cả nhạc hát lẫn nhạc đàn, chuộng âm sắc trang nhã, sự tinh tế của hệ thống đàn dây gảy37”, là sự tiếp biến mơ phỏng hệ thống nhã nhạc Trung Hoa, trang phục của con hát sang trọng gấm vĩc sặc sỡ, đèn lồng kết hoa cơng phu, đắt tiền “biểu diễn trên thuyền rồng, trong đêm thanh vắng nghe như khúc nhạc của quần tiên tụ hội”38. Bức chạm tiên nữ cưỡi hươu gảy đàn đáy là một biểu tượng cho hình ảnh đào ngự. Những yếu tố đĩ làm nên phong cách ả đào: tính đài các, phong lưu vương giả, trong một hình thức giải trí cao cấp. Hệ quả của nĩ: Ả đào được chọn để tiếp sứ, giữ vai trị truyền tải thơng điệp ngoại giao văn hĩa. Trong văn bia Bản huyện giáo phường lập đoan bi ký cịn ghi: “Năm Long ðức thứ 3 (1734), giáo phường An Thanh huyện Lập Thạch đã được mời về kinh để hát xướng đĩn sứ bộ các nước” [Nguyễn Xuân Diện 2007b: 80]. Trong những thời khắc của lịch sử, ả đào cịn được xem như một quân cờ cạnh tranh chính trị trên lĩnh vực văn hĩa tư tưởng: “Khi ðào Duy Từ thổi vào mơn hát tuồng một nguồn sinh lực mới tại phủ ðồng Sơn (Bình ðịnh) thì ngồi Bắc đang lúc thịnh thời của các chúa Trịnh- muốn thưởng thức một thứ nhạc bác học đi song song với tửu sắc, thi ca. Chúa chọn hát cơ đào để gây ra một nghệ thuật khả 37 Trúc sinh (đàn khơ), đàn cầm, đàn 7 dây, đàn 9 dây, đàn tranh. Cường độ dàn nhạc họ dây luơn vừa tầm, khơng lấn át tiếng hát [Bùi Trọng Hiền, in trong Hồ sơ ứng cử quốc gia: 70], 38 Trích Tang thương ngẫu lục [dẫn theo Dương ðình Minh Sơn 2009: 93-94]. Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013 Trang 102 dĩ thay thế được cả tuồng, lại cả chèo” [Tchya 1959: 46]. 3.2. Ca nương với vai trị nghệ nhân phục vụ thú tiêu khiển của tầng lớp trên Sùng bái văn hĩa ca vũ cung đình, nhiều quan đại thần, trong nhà, cũng thường nuơi riêng một nhĩm ả đào để tiện bề hưởng thú phong lưu, như: Nguyễn Hữu Chỉnh nuơi hơn mười ả đào để tiếp đãi tân khách, ơng cịn đặt ra những bài hát mới cho ả đào múa hát, hào hoa phong nhã thứ nhất ở kinh kỳ [Hồng Lê nhất thống chí, dẫn theo Nguyễn Nghĩa Nguyên 2011: 85]. “Nguyễn Khản thích hát xướng, gặp khi con hát cĩ tang trở cũng cứ cho tiền bắt hát, khơng lúc nào bỏ tiếng tơ, tiếng nhạc” [Phạm ðình Hổ 1989: 42-47]. Xét mối quan hệ giữa nghệ thuật và chính trị, cĩ thể xem vai trị ả đào trong dinh quan (tư gia) là vai trị quan kỹ (hay tư kỹ), tức là kỹ nữ phục vụ giải trí cho quan lại, quý tộc địa phương. Song, vai trị ả đào cĩ phần thiên về nghệ thuật nhiều hơn là hầu hạ, khơng giống như các kiseang kwanggi (quan kỹ) của Hàn Quốc, ngồi vai trị nghệ thuật, các kisaeng cịn đảm đương nhiều vai trị rất xa lạ với văn hĩa ả đào, như vai trị y nữ khám chữa bệnh cho con gái nhà quý tộc- yakbang kisaeng (dược phịng kỹ), vai trị thợ may, may vá trang phục cho giới quý tộc- sangbang kisaeng (thường phịng kỹ sinh) Nguyên do lịch sử kisaeng được viết nên từ cuộc đời của các hwarang- con nhà gia thế bị bắt làm tù nhân, hay tầng lớp lang thang bị bắt làm nơ lệ, trong khi giới ả đào xuất thân từ giáo phường ở nơng thơn, khơng cĩ sự phân biệt rõ nét về chức năng hay cấp bậc. Khoảng từ cuối thế kỷ XIX, đào nương đã tích lũy được vốn liếng, kinh nghiệm, tự thân thốt ly khỏi giáo phường, ra thành thị mở ca quán. Ca quán là một khơng gian tự do, trong đĩ ả đào giữ vai trị người nghệ sỹ đồng thời là người chủ kinh doanh nghề hát. Cái tên cơ đầu đã nĩi lên tầm quan trọng của vai trị này. Ca quán khơng dành riêng cho giới quý tộc và quan lại, mà đĩ là nơi các văn nhân tài tử (giới trí thức) thường lui tới, những người chấp nhận chi trả một khoản tiền khơng nhỏ để đổi lấy thú vui tao nhã từ sự xa xỉ, cầu kỳ của nghệ thuật và cái ái tình lãng mạn của cơ đầu. Xưa kia, người hát đến nhà người nghe (ả đào đến hát ở tư gia), giờ đây người nghe đến nhà người hát (ca quán). Cái mối quan hệ “riêng một thú thanh sơn đi lại39” này đã làm nên nhiều áng thơ tuyệt tác trong văn Nơm ta, gắn liền với những bậc tài danh như: Nguyễn Cơng Trứ (1778-1858), Dương Khuê (1839-1902), Trần Tế Xương (1870-1907) 3.3. Ca nương với vai trị là đối tượng khơi nguồn sáng tạo và thưởng thức thơ Trong giai đoạn sơ khởi, ca trù là những bài hát giản dị gần với phương ngơn và ca dao40, nhưng một khi đã cĩ tài hoa của các văn nhân can thiệp, ca trù trở thành một sinh hoạt nghệ thuật sáng tác và thưởng thức thơ. Thế kỷ XIX ghi dấu sự hồn thiện của thể cách hát nĩi cả về âm nhạc, văn chương và việc thưởng ngoạn [Nguyễn Xuân Diện 2007: 83]. Ca trù được đơn giản hĩa nhạc khí và người biểu diễn để tiện cho việc diễn xướng thơ trong khơng gian thính phịng, người nghe hát như là “một thứ khách thính văn học (salon littéraire) của xã hội Tây phương” [Vũ Bằng 1971: 14]. Lúc này, thanh sắc ả đào đĩng vai trị phục vụ nhu cầu khối cảm “được nghe thơ mình qua giọng giai nhân”- một khối cảm tổng hợp của nhiều khối cảm. Khối cảm làm được một bài thơ rồi tự cầm chầu thưởng thức nĩ giữa chốn đơng người đều là những tài tử giai nhân, khác loại cơng chúng bình thường. Khối cảm được cộng hưởng niềm vui, cùng chia sẻ những giá trị văn hĩa “vừa tư tưởng, vừa âm luật hỗn hợp với nhau, vừa văn chương vừa mỹ thuật cùng nhau điều hịa, vừa tài tử, vừa giai nhân cùng nhau gặp gỡ, cùng nhau sánh cạnh mà chia 39 Trích câu thơ của Dương Khuê trong bài Gặp đào Hồng, đào Tuyết. 40 Những bài hát cổ hiện cịn lưu truyền đều mang nặng sắc thái này [ðỗ Bằng ðồn 1960: “Quá trình tiến hĩa của ca trù và ảnh hưởng của ca trù đối với văn hĩa dân tộc”, TC.Bách khoa, số 132, tr.28]. TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 16, SỐ X2- 2013 Trang 103 vui” [Nguyễn Văn Ngọc, dẫn theo Nguyễn ðức Mậu 2010: 53]. ðể đảm đương vai trị ấy, ả đào phải cĩ kỹ năng tổng hợp, ngồi kỹ năng nghề ca xướng, ả đào cịn phải học chữ để cĩ thể đọc và hiểu thơ, để hát cho đúng ý tứ của tác giả. “Xem như kỹ nữ các nước, trong nghề hương phấn ca ngâm đều cĩ mùi pha văn học cả, vì nước nào cũng cĩ một thứ chữ, một thứ sách vở riêng của nước ấy, càng làm kỹ nữ càng phải giao thiệp nhiều, càng phải dị dẫm xem lấy những chuyện khĩc cười, chuyện xa gần, để làm cái tài liệu tiếp khách” [Nguyễn ðơn Phục 1923]. Theo Nguyễn Xuân Diện, việc trí thức hĩa nghề ả đào là một biệt lệ chưa từng cĩ ở những người phụ nữ bình dân. Chính cái tri thức đã làm nên nét văn hĩa ả đào: sang trọng, đài các, phong lưu, khu biệt với các kỹ nữ tầm thường khác Vai trị “nàng thơ” của ả đào cũng tựa như ca nương của ca Huế, “câu ca xứ Huế, cơ đầu tỉnh Thanh”. Cùng chung một nguồn gốc nhã nhạc cung đình, nghệ thuật trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở ðàng Trong phát tán thành một lối gọi là ca Huế (gồm cả ca và đàn) hay là “lối hát ả đào của người Huế”. Ca Huế tương đồng với ca trù về lối chơi văn chương, tri âm tri kỷ, sự trau chuốt của giọng hát, ngĩn đàn và khơng gian thính phịng, một lối chơi của các ơng hồng bà chúa. Như ả đào, ca nương của ca Huế cũng giữ một vai khơng thể thay thế. Nhưng, ca nương của ca Huế gắn liền với văn hĩa cố đơ Huế nên mang bản sắc địa phương rõ nét hơn ả đào. Hình thức “mượn tiếng mỹ nhân để thưởng ngoạn nghệ thuật” của hát ả đào cịn dễ khiến người ta liên tưởng geisha Nhật Bản hay kisaeng Hàn Quốc như “ả đào Nhật Bản, ả đào Hàn quốc”. Tương tự ca quán, nhà geisha hay tửu quán, trà động của kisaeng, đều là khơng gian phịng, khơng cĩ những tiết mục sơi động như ca vũ tạp kỹ, chỉ thuần túy là khơng gian trị chuyện, luận đàm văn chương, ... Vì thế, nhạc cụ cũng khá tinh giản, ả đào chỉ dùng đơi phách tre; geisha ngồi cây đàn shanmisen cịn dùng sáo trúc và mấy chiếc trống, trống nhỏ tsutsumi vác lên vai, trống nhỡ ơkawa kê trên đùi, cịn trống lớn taikơ đặt cạnh người diễn; kisaeng dùng đàn gayageum (12 dây) và đàn geomungo (6 dây). Trong vai trị khơi nguồn sáng tạo nghệ thuật, ả đào gĩp phần làm phong phú các điệu hát ca trù bằng cách bắt chước điệu hát Huế, điệu hát xẩm, điệu hát phường chèo, làm thêm “gia vị” cho cuộc hát. Cơng lao tiếp biến của ả đào đã quyết định tên gọi cho điệu hát, như một số điệu nếu kép hát thì gọi là hà nam, là hát trai, cịn đào hát thì gọi là hát nĩi, hát gái. Tương tự, các kisaeng Hàn Quốc cũng cĩ cơng thiết lập trường phái nghệ thuật bản địa như thơ sijo (thơ thời điệu), nghệ thuật hội họa (kisaeng Juk Hyang- thế kỷ XIX), nghệ thuật múa kiếm (kisaeng Unsim- thế kỷ XVIII), thậm chí các kisaeng cịn tham gia viết lời và diễn xuất những vở pansori (truyện kể đại chúng); các geisha Nhật Bản đã cĩ cơng phát triển nghệ thuật kịch kabuki, họ cịn viết hồi ký, nhờ đĩ mà người phương Tây mới biết về thân phận làm geisha Hiểu được điều này, chúng ta mới thấm thía câu nĩi: “Hàng trăm tiên sinh đạo học khuyên đời, khơng bằng sức một con hát41”. Ngồi ra, vai trị của nhan sắc ả đào cũng đĩng gĩp khơng nhỏ trong việc tạo nên sức hấp dẫn của nghệ thuật ca trù trong hát chơi. Giới quý tộc, trí thức thích đi hát và cĩ cảm tình gắn bĩ với nghệ thuật là vì cái đẹp của ả đào. “ðào nương thuở ấy hễ tĩc đen mườn mượt, tĩc dài thậm thượt thì được người yêu. Thường thì đào nương hát về đêm, người nghe vì thế phải trằn trọc suốt canh thâu” [dẫn theo Trần Văn Khê 1960: 71]. Sắc đẹp của đào nương là một mảng đề tài lớn trong các sáng tác của văn nhân, như các bài: Tặng cơ đầu Văn của Dương Tự Nhu; Tiểu ca cơ của Phạm ðình Hổ; Long thành cầm giả ca của Nguyễn Du; thậm chí bài Bỡn cơ đào già của Nguyễn Cơng Trứ cịn đem cái duyên của ả đào 41 Nhận định của Trần Hồng Thụ, danh sỹ đời Minh [ðàm Phàm 2004: 6] Science & Technology Development, Vol 16, No.X2- 2013 Trang 104 ra để đùa cợt tình tứ cho thấy sự cảm tình đặc biệt và sự đề cao vai trị của nhan sắc ả đào. Kết luận Từ những nội dung trình bày, chúng tơi rút ra một số kết luận sau: 1. Hai trào lưu nghệ thuật trên đều cĩ sự đĩng gĩp thiết yếu của thanh sắc ả đào. Trong lịch sử, với vai trị nghệ nhân (con hát) và vai trị người phục vụ (kỹ nữ). Văn hĩa ả đào luơn thích nghi với những biến đổi của phong khí thời đại. Thời đại chuộng nhạc thì họ đàn ca, hát xướng, thời đại chuộng thơ thì họ cĩ thể làm bạn thơ với văn nhân, thời đại chuộng sắc thì họ hĩa thân như kỹ nữ, “làng chơi làm sao thì nhà nghề làm vậy”. 2. Qua vai trị ả đào, nghệ thuật ca trù tồn tại song hành hai đặc tính vừa bác học vừa dân gian. Ngay trong thời đại tính bác học trơng cĩ vẻ “lấn át tính dân gian” (từ sau thế kỷ XIX), hát cửa đình vẫn là một hoạt động văn hĩa tồn tại và bám rễ lâu bền trong đời sống nhân dân ở các làng xã cho đến những năm đầu thế kỷ XX. 3. ðể khơi phục những tinh hoa của ca trù, ta cần phải khu biệt đào nương ngày nay với ả đào ngày xưa. Vai trị đào nương ngày nay chỉ là vai trị của cơ ca sỹ hát lại các bài hát xưa, hoặc hát những bài mới do những khán giả yêu ca trù sáng tác, nhưng, khơng tạo ra được khơng gian trữ tình của “tài tử giai nhân cùng nhau hội ngộ, cùng nhau sánh cạnh chia vui”. Các ca nương trong các câu lạc bộ ca trù hiện nay chỉ đĩng một vai rất hạn chế của ca trù hát chơi trong ca quán ngày trước, chưa nĩi đến vai trị phục vụ tín ngưỡng hay các sự kiện văn hĩa lễ hội mà xưa kia các đào nương đã đảm nhiệm. 4. Mặt khác, để nghệ thuật ca trù tồn tại được trong đời sống đương đại thì vai trị đào nương ngày nay cần phải được đại chúng hĩa, đào nương khơng thể chỉ đĩng một vai “nghệ nhân giữ gìn vốn cổ”, mà cịn phải đảm đương nhiều vai như một ngơi sao, một nghệ sỹ thực thụ trên các phương tiện truyền thơng, điện ảnh, ðồng thời, các nhà đạo diễn và các nhà thiết kế chương trình nên khuyến khích những ngơi sao hĩa thân vào vai ả đào hiện đại, như trường hợp Madona hĩa thân làm geisha chẳng hạn. The Role of Female Vocalists in Catrù Art • Nguyen Hoang Anh Tuan University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM ABSTRACT: This paper highlights the importance of the role of female vocalists (đào nương) associated with the historical origins of Catru art, and their influence on the trend to enjoy this kind of art. Through female vocalists’ role, existence and evolution rules of Catru are thoroughly understood. From popular trend, Catru exists in the form of communal house theater in the village (hát cửa đình), banquet theater (hát khao vọng), etc. going hand-in-hand with madarin home theater (hát nhà tơ), bar (ca quán), and determining the orientation to preserve and promote Catru art. TẠP CHÍ PHÁT TRIỂN KH&CN, TẬP 16, SỐ X2- 2013 Trang 105 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Will DURANT 2004: Lịch sử văn minh Ấn ðộ (Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb VHTT, Cty VH Phương Nam phát hành, TpHCM, 556tr. [2]. Will DURANT 2006: Nguồn gốc văn minh (Nguyễn Hiến Lê dịch), Nxb VHTT, TpHCM, 204tr. [3]. Dương Quảng Hàm 1968: Việt Nam văn học sử yếu, BGD-Trung tâm học liệu xuất bản, SG., 496tr. [4]. ðàm Phàm 2004: Lịch sử con hát (Cao Tự Thanh dịch), Nxb Tổng hợp Tp.HCM, 324 tr. [5]. ðỗ Bằng ðồn- ðỗ Trọng Huề 1994: Việt Nam ca trù biên khảo, Nxb Tp.HCM, 678 tr. [6]. Hát cửa đình Lỗ Khê 1980, (Nhiều tác giả), Sở VHTT Hội Văn nghệ H. xb. [7]. Hồ sơ ứng cử quốc gia 2006 (phần Phụ lục): Hát ca trù người Việt, 7/2006 đệ trình UNESCO xét duyệt di sản phi vật thể truyền khẩu nhân loại, Bộ Văn hĩa thơng tin, H., 216 tr. [8]. Lê Văn Hảo 1963: “Vài nét về sinh hoạt của hát ả đào trong truyền thống văn hĩa Việt Nam”, TC ðại học số 29, tr. 718 – 750 [9]. Nguyễn ðơn Phục 1923: “Khảo luận về cuộc hát ả đào”, Nam phong tạp chí, số 70/1923, tr.277-289 [10]. Nguyễn ðức Mậu 2003 (gt&bs): Ca trù nhìn từ nhiều phía, Nxb VHTT, H., 620tr. [11]. Nguyễn ðức Mậu 2010: Ca trù Hà Nội trong lịch sử và hiện tại, Nxb H., 700tr. (khổ A4) [12]. Nguyễn Xuân Diện: “ði tìm vẻ đẹp của nghệ thuật ca trù”, [13]. Nguyễn Xuân Diện 2007: Lịch sử và nghệ thuật ca trù, khảo sát nguồn tư liệu tại Viện nghiên cứu Hán – Nơm [chuyên khảo trên cơ sở luận án Tiến sỹ Ngữ văn Hán Nơm], Nxb Thế Giới H. [14]. Phạm ðình Hổ 1989: Vũ trung tùy bút, (bản dịch của ðơng Châu Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú thích), Nxb Trẻ, Hội NCGDVH TP.HCM, tr. 42, 43, 46 & 47 [15]. Phan Kế Bính 1972: Việt Nam phong tục, [“Bộ quốc sử - Contribution à l’histoire d’Annam”, trích ðơng Dương tạp chí số 24- 49, 1913- 1914], Phong trào văn hĩa xb, SG., 366 tr. [16]. Tchya 1959: “Ca kịch Việt Nam”, Phổ thơng Tạp chí văn hĩa (chủ bút Nguyễn Vỹ) số 25, tr.46- 50 [Cơ sở biên mục dựa vào số 1(15/11/1958)] [17]. Trần Văn Khê 1960: “Hát ả đào”, TC. Bách khoa số 81, 82, & 83 [18]. Trần Văn Khê 2000: Trần Văn Khê và âm nhạc dân tộc, Nxb Trẻ, Tp. HCM. [19]. Vũ Bằng 1971: “Hát ả đào- lịch sử ra sao? Ơng tổ là người nào? Mà ả đào, cơ đầu và nhà tơ cĩ khác nhau khơng?”, TC. Văn học, số 138, tr.3- 5
File đính kèm:
- vai_tro_ca_nuong_trong_nghe_thuat_ca_tru.pdf