Vai trò của thông tin – thư viện trong hoạt động tuyên truyền, quáng bá, xúc tiến du lịch ở Quảng Ninh

Tóm tắt Vai trò của thông tin – thư viện trong hoạt động tuyên truyền, quáng bá, xúc tiến du lịch ở Quảng Ninh: ...ựa chọn những điểm du lịch, tự khám phá sự thú vị riêng cho từng chuyến tham quan mà không bị gò bó bởi sự sắp đặt trước của các công ti du lịch. - Đối với các nhà nghiên cứu: Thư viện cung cấp tài liệu trong việc nghiên cứu các vấn đề về cơ sở lí luận, thực tiễn phát triển du lịch, nghiên cứu...với thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ du lịch, tăng cường liên kết vùng, đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế, mở rộng thị trường khách. Tuy nhiên, việc tuyên truyền, quảng bá và xúc tiến du lịch ở Quảng Ninh cũng gặp phải hạn chế của ngành du lịch Việt Nam đó là chưa có sự tham ...trung tâm xúc tiến du lịch tận dụng khai thác để cung cấp thông tin đến với du khách. Cùng với đó, tại các đơn vị kinh doanh du lịch, việc quảng cáo các dịch vụ theo kiểu "mạnh ai nấy làm" đã dẫn đến hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch ở Quảng Ninh đạt hiệu quả không cao. Đây ...

pdf11 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 345 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Vai trò của thông tin – thư viện trong hoạt động tuyên truyền, quáng bá, xúc tiến du lịch ở Quảng Ninh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ịch, thông tin giúp họ lựa chọn được những chuyến đi phù hợp với sở thích và 
kinh tế cũng như sự yên tâm tin tưởng trước khi đi tham quan và mua các sản phẩm dịch 
vụ du lịch từ các doanh nghiệp. Đây chính là yếu tố quan trọng thúc đẩy các hoạt động 
kinh doanh của ngành du lịch phát triển. 
Hiểu được tầm quan trọng của thông tin trong hoạt động phát triển du lịch, trong nhiều 
năm qua, ngành du lịch đã dành khoản kinh phí không nhỏ để thực hiện các chương trình 
quảng bá du lịch nhằm cung cấp các thông tin cần thiết tới du khách. Theo số liệu của 
Tổng cục Du lịch, trong 10 năm (2000 – 2010), kinh phí dành cho hoạt động xúc tiến 
quảng bá du lịch Việt Nam khoảng 150 tỷ đồng (tương đương 10 triệu USD), với hàng 
loạt các chương trình, sự kiện và hoạt động xúc tiến du lịch như: " Việt Nam - điểm đến 
của thiên niên kỉ mới", "Việt Nam - vẻ đẹp tiềm ẩn", tham gia 150 hội chợ du lịch quốc 
tế, quảng cáo trên báo chí, truyền hình, Internet trong nước và quốc tế... bước đầu đã có 
thành công nhất định, hình ảnh Việt Nam từng bước được nâng cao, góp phần quan trọng 
vào thu nhập nền kinh tế quốc dân... Tuy nhiên, nếu so với những tiềm năng du lịch tự 
nhiên và nhân văn hiện có tại Việt Nam thì hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch chưa đạt 
yêu cầu. Theo đánh giá của một số nhà du lịch trong và ngoài nước, cách tuyên truyền, 
quảng cáo và làm du lịch của Việt Nam còn thiếu tính chuyên nghiệp, chủ động, sáng tạo 
và liên kết, sản phẩm du lịch nghèo, trùng lặp. Nguyên nhân chủ yếu là do tổ chức bộ 
máy của cơ quan xúc tiến du lịch quốc gia chưa được thống nhất, chưa có sự quản lí điều 
hành theo hệ thống thông tin thông suốt trên môi trường mạng và môi trường Internet nên 
hình ảnh Việt Nam đến với du khách chưa nhiều. Đặc biệt, một số lãnh đạo còn cho rằng 
hoạt động tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch là việc riêng của ngành du lịch, mà 
không nghĩ rằng hoạt động đó cần có sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân, sự hợp tác 
của nhiều ngành liên quan, trong đó có ngành thông tin – thư viện. 
Có thể nói, hệ thống thông tin - thư viện có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông 
tin phục vụ ngành du lịch nói chung, hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch 
Việt Nam nói riêng. Với vốn tài liệu đa dạng gồm các thông tin trong và ngoài nước, 
thông tin về quá khứ, hiện tại và những dự báo trong tương lai, thư viện cung cấp những 
thông tin cần thiết cho từng đối tượng người dùng tin du lịch, cụ thể như sau: 
- Đối với các nhà lãnh đạo, quản lí du lịch: Thư viện cung cấp tài liệu về đường lối, chiến 
lược, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, pháp luật của nhà nước; kế hoạch, chiến lược phát 
triển kinh tế, tiềm năng du lịch tự nhiên, các giá trị văn hoá của từng vùng miền, từng địa 
phương; xu hướng phát triển du lịch, nhu cầu về chất lượng sản phẩm, dịch vụ, địa điểm 
loại hình du lịch được ưa thích... Đây là những thông tin quan trọng trong quá trình hoạch 
định xây dựng chiến lược tuyên truyền, quảng bá du lịch và ra quyết định quản lí trong 
hoạt động du lịch. 
- Đối với các nhà đầu tư du lịch: Thư viện cung cấp các thông tin về tiềm năng, thế mạnh 
du lịch, bản sắc văn hoá vùng miền, nguồn nhân lực... cũng như các chủ trương, chính 
sách chế độ ưu đãi của nhà nước, địa phương cho các dự án, giúp họ yên tâm, tin tưởng 
trong việc triển khai các dự án đầu tư tại các điểm du lịch hấp dẫn của Việt Nam. 
- Đối với những người hoạt động trong ngành du lịch: Thư viện cung cấp thông tin về các 
điểm du lịch trong và ngoài nước, giúp họ tự trang bị cho mình vốn kiến thức phong phú 
về du lịch, từ đó có thể hướng dẫn và trả lời bất cứ câu hỏi nào của khách du lịch khi họ 
muốn tìm hiểu đất nước – con người Việt Nam nói chung và từng địa phương nói 
riêng. Ngoài ra, thông qua tài liệu, họ còn hiểu đặc điểm tâm lí, phong tục tập quán của 
các dân tộc, quốc gia trên thế giới, giúp họ có phông giao tiếp rộng, tránh được những 
điều cấm kị, tạo cho khách một tâm lí thoải mái khi tham gia các chương trình du lịch tại 
Việt Nam. 
- Đối với khách du lịch: Thư viện là chiếc cầu nối giữa điểm du lịch với du khách bằng 
những ấn phẩm và dịch vụ thông tin đặc trưng được thư viện phục vụ qua hình thức 
truyền thống (đọc mượn tại thư viện địa phương) và hiện đại (qua mạng), từ đó, giúp họ 
chủ động lựa chọn những điểm du lịch, tự khám phá sự thú vị riêng cho từng chuyến 
tham quan mà không bị gò bó bởi sự sắp đặt trước của các công ti du lịch. 
- Đối với các nhà nghiên cứu: Thư viện cung cấp tài liệu trong việc nghiên cứu các vấn 
đề về cơ sở lí luận, thực tiễn phát triển du lịch, nghiên cứu thị trường, tiêu chuẩn định 
mức kinh tế – kĩ thuật ngành du lịch, các giải pháp tăng cường hiệu lực quản lí và hiệu 
quả kinh doanh du lịch. Đặc biệt, thư viện còn cung cấp nhiều tài liệu quan trọng trong 
việc thực hiện các đề tài nghiên cứu về môi trường cảnh quan, bảo tồn sinh thái, từ đó ra 
đời các quy trình công nghệ mới, hạn chế những tác động tiêu cực của du lịch đến môi 
trường, cải tạo, bảo vệ môi trường và định hướng cho ngành du lịch phát triển bền vững. 
- Đối với người dân địa phương: Tài liệu thư viện góp phần nâng cao nhận thức cho 
người dân, giúp họ hiểu được các giá trị tự nhiên, giá trị nhân văn nơi mình đang cư trú, 
nhận thức được vị trí, vai trò của du lịch trong đời sống văn hoá xã hội và kinh tế của địa 
phương, của gia đình. Từ đó, họ có ý thức hơn trong việc bảo tồn các di sản tự nhiên, di 
sản văn hoá của dân tộc cũng như cách ứng xử giao tiếp với du khách. Người dân trở 
thành những tuyên truyền viên, hướng dẫn viên du lịch không chuyên nhưng rất gần gũi 
và cuốn hút du khách khi muốn tìm hiểu khám phá những điều mới lạ, khác biệt với quê 
hương họ. 
- Đối với học sinh-sinh viên đang theo học ngành du lịch: Thư viện là nơi đảm bảo chất 
lượng và hiệu quả giáo dục. Song song với chương trình đào tạo, các giờ học trên lớp, thư 
viện là giảng đường thứ hai của học sinh – sinh viên. Nó cung cấp thông tin cần thiết 
phục vụ việc học tâp, nghiên cứu và khả năng tư duy sáng tạo giúp các em hoàn thành tốt 
các kì thi và làm khoá luận tốt nghiệp, mở ra những cơ hội tri thức và nghề nghiệp. 
Với những điều trên, có thể khẳng định thư viện có vai trò quan trọng trong việc cung cấp 
thông tin phục vụ các hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch. Tuy nhiên, để 
làm được điều này đòi hỏi ngành thông tin - thư viện phải có sự quan tâm đầu tư về 
nguồn tài liệu, kinh phí, cơ sở vật chất và con người trong việc xử lí thông tin phục vụ du 
lịch, nhất là các thư viện thuộc ngành du lịch, thư viện các trường đào tạo du lịch, thư 
viện thuộc các tỉnh, thành phố có thế mạnh về du lịch. Song hiện nay, đa số các sản phẩm 
và dịch vụ thông tin ở các thư viện còn mang tính truyền thống, phương thức phục vụ 
mới dừng lại ở việc phục vụ thông tin theo cách “người dùng tin đến với thư viện, rất ít 
dịch vụ thư viện đến với người dùng tin”, việc cung cấp thông tin cho du khách tại các 
điểm du lịch còn hạn chế, bởi chưa có sự phối hợp trong việc trao đổi và khai thác thông 
tin giữa các thư viện với nhau, giữa ngành thư viện với ngành du lịch. Điều này đã làm 
hạn chế hiệu quả các hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch. 
Là cán bộ thư viện hiện đang công tác tại Quảng Ninh - một tỉnh có thế mạnh phát triển 
về du lịch, chúng tôi xin đưa một vài số liệu về kết quả hoạt động du lịch cũng như sự 
ảnh hưởng của hệ thống thư viện trong hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch 
ở Quảng Ninh như sau: 
Theo Báo cáo của Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch Quảng Ninh, năm 2009, khách du 
lịch đến Quảng Ninh là 4,8 triệu lượt, trong đó khách quốc tế đạt 2 triệu lượt, tổng doanh 
thu đạt 2.800 tỷ đồng. Đây là một nguồn thu không nhỏ, song so với những tiềm năng du 
lịch nhân văn, du lịch tự nhiên của Quảng Ninh thì số lượng khách cũng như doanh thu 
của ngành du lịch như vậy là chưa nhiều. Theo kết quả điều tra từ ngành du lịch, du 
khách đến Quảng Ninh chủ yếu là tham quan Vịnh Hạ Long, khu du lịch Yên Tử, còn các 
điểm tham quan hấp dẫn khác như: khu di tích Bạch Đằng, đền Cửa Ông, khu du lịch 
Vân Đồn, Trà Cổ - Móng Cái... hầu như khách du lịch không mấy quan tâm, nên không 
giữ chân được du khách ở lại Quảng Ninh, vì vậy số ngày lưu trú của khách tính trung 
bình từ 1,5 - 2 ngày. Sở dĩ có hiện tượng như vậy là do nhiều nguyên nhân như: công tác 
tuyên truyên, quảng bá du lịch đến với du khách chưa nhiều; chất lượng, hiệu quả kinh 
doanh du lịch chưa cao, sản phẩm du lịch chưa đa dạng; chương trình du lịch, tuyến du 
lịch còn kém hấp dẫn; cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch còn nhiều bất cập. Để khắc phục tình 
trạng này, năm 2010, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Quảng Ninh đưa ra nhiều chương 
trình hoạt động quảng bá xúc tiến du lịch gắn với thị trường, nâng cao chất lượng sản 
phẩm và dịch vụ du lịch, tăng cường liên kết vùng, đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế, 
mở rộng thị trường khách. Tuy nhiên, việc tuyên truyền, quảng bá và xúc tiến du lịch ở 
Quảng Ninh cũng gặp phải hạn chế của ngành du lịch Việt Nam đó là chưa có sự tham 
gia của mọi tầng lớp nhân dân, sự hợp tác của nhiều ngành liên quan, đặc biệt chưa biết 
tận dụng khai thác nguồn thông tin từ các thư viện. 
Ở Quảng Ninh, mạng lưới thư viện phủ rộng khắp từ tỉnh đến huyện, xã, phường; các 
trường cao đẳng, THCN, trường phổ thông... Các thư viện đã nỗ lực phát huy chức năng, 
nhiệm vụ của mình nhằm phục vụ tốt mọi đối tượng bạn đọc. Trong đó, thư viện có vốn 
tài liệu và số lượng bạn đọc nhiều nhất tại Quảng Ninh phải nói đến Thư viện tỉnh với 
vốn tài liệu khoảng 140.000 bản, hơn 2.000 đơn vị báo - tạp chí đóng quyển và gần 200 
đầu báo - tạp chí. Riêng đối với nguồn thông tin phục vụ du lịch, thư viện tỉnh đã dành 
một sự đầu tư hơn nhiều so với các ngành kinh tế khác. Điều này được thể hiện qua việc 
thư viện triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu bài trích gồm các bài viết về du lịch đăng tải 
trên các báo - tạp chí trung ương và địa phương; biên soạn và phát hành thư mục "Du lịch 
Quảng Ninh tiềm năng và triển vọng", "Du lịch Quảng Ninh trên đường phát triển", tuyên 
truyền giới thiệu sách phục vụ "Lễ hội du lịch Carnaval Hạ Long", trưng bày sách với 
chủ đề "Quảng Ninh - Hạ Long miền đất hứa"... Đặc biệt, kho tài liệu địa chí của thư viện 
có hơn 2.000 tài liệu gồm các tư liệu về lịch sử, kinh tế, văn hoá xã hội, phong tục tập 
quán của 22 dân tộc hiện đang sinh sống trên địa bàn tỉnh, với nhiều truyền thuyết dân 
gian, nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, các công 
trình nghiên cứu địa chất, địa mạo Vịnh Hạ Long, hệ thống khách sạn - nhà hàng, các 
tuyến điểm du lịch cũng như các văn bản chính sách về du lịch của tỉnh... nhằm tạo điều 
kiện cung cấp mọi thông tin cần thiết phục vụ hoạt động xúc tiến du lịch. 
Tuy đã có sự đầu tư về nguồn thông tin phục vụ du lịch, song hiệu quả phục vụ hoạt động 
du lịch tại thư viện lại không cao. Theo số liệu năm 2009, thư viện tỉnh thu hút khoảng 
2.400 bạn đọc đến đăng kí thẻ, phục vụ hơn 61.000 lượt bạn đọc, 191.000 lượt sách báo 
luân chuyển, song số lượng người dùng tin du lịch chiếm một tỉ lệ khiêm tốn khoảng 120 
thẻ/2.400 thẻ (chiếm 5%) chủ yếu là những người hiện đang tham gia hoạt động trong 
ngành du lịch và các học sinh-sinh viên đang theo học các cơ sở đào tạo du lịch tại Quảng 
Ninh, còn đối tượng là các nhà quản lí du lịch, khách du lịch... hầu như không đến thư 
viện để tìm kiếm thông tin. Khi được hỏi các đối tượng này thường trả lời không có thời 
gian đến thư viện, các sản phẩm thông tin và dịch vụ thư viện còn nghèo và mang tính 
truyền thống, việc tra cứu thông tin trên trang Web của thư viện mới chỉ là dữ liệu thư 
mục, chưa có dữ liệu toàn văn. 
Mặc dù ngành thư viện và ngành du lịch cùng chịu sự quản lí của Sở Văn hoá, Thể thao 
và Du lịch, song giữa hai ngành này không hề có mối liên kết nào trong việc xây dựng 
kho cơ sở dữ liệu và khai thác thông tin phục vụ du lịch địa phương, cũng như việc tuyên 
truyền, giáo dục người dân có ý thức hơn trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc cùng 
môi trường cảnh quan tại các điểm du lịch. Trong khi đó, năm 2008, tỉnh có thành lập 
"Trung tâm xúc tiến du lịch", sau một thời gian hoạt động, cho đến nay, trung tâm này 
chưa phát huy hết được chức năng, nhiệm vụ của mình do thiếu cán bộ, và không chủ 
động được vấn đề kinh phí trong việc thực hiện các hoạt động quảng bá, xúc tiến du lịch, 
đặc biệt là kho cơ sở dữ liệu của trung tâm mới dừng lại các thông tin đơn giản như danh 
mục hệ thống khách sạn nhà hàng, chương trình, tuyến điểm du lịch, địa chỉ, giá cả, thời 
tiết, khí hậu, giờ giấc, ngôn ngữ, dịch vụ rút tiền, đổi tiền; phương tiện vận tải, quy định 
thủ tục hành chính, visa... Trong khi đó, vốn tài liệu tại thư viện lại có nhiều thông tin về 
các loại hình du lịch (du lịch tự nhiên, du lịch nhân văn, du lịch sinh thái... ), nguồn gốc, 
cảnh quan điểm du lịch; các loại hình nghệ thuật truyền thống, lễ hội, làng nghề, phong 
tục tập quán, nền văn hoá bản địa; các công trình kiến trúc; di sản văn hoá, di sản thiên 
nhiên được thế giới công nhận; các thông tin nền tảng tạo nên những thắng cảnh thiên 
nhiên, nhân văn như địa lí, khảo cổ học, tự nhiên học, tôn giáo... không được trung tâm 
xúc tiến du lịch tận dụng khai thác để cung cấp thông tin đến với du khách. Cùng với đó, 
tại các đơn vị kinh doanh du lịch, việc quảng cáo các dịch vụ theo kiểu "mạnh ai nấy 
làm" đã dẫn đến hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch ở Quảng Ninh đạt 
hiệu quả không cao. Đây chính là điểm yếu không chỉ của ngành du lịch mà cũng chính 
là điểm hạn chế của ngành thông tin - thư viện. 
Để hoạt động tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch ở Quảng Ninh nói riêng, ở Việt 
Nam nói chung đạt hiệu quả cao, đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành du lịch 
trong thời kì hội nhập quốc tế, theo chúng tôi ngành Thông tin - thư viện, ngành Du lịch 
cần phải triển khai đồng bộ các giải pháp sau: 
- Một là: Tổ chức các sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện vừa có chất lượng vừa đáp 
ứng được nhu cầu cho từng đối tượng người dùng tin du lịch. Chú trọng phát triển nguồn 
lực thông tin trong đó ưu tiên thông tin phục vụ du lịch. Bên cạnh việc bảo quản củng cố 
các sản phẩm thông tin truyền thống như sách, báo - tạp chí, thư mục chuyên ngành, hệ 
thống mục lục (truyền thống và hiện đại), tiếp tục xây dựng sản phẩm thông tin khác như 
cơ sở dữ liệu toàn văn về các lĩnh vực danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, phong tục tập 
quán, tiềm năng du lịch tự nhiên, du lịch sinh thái... các công trình nghiên cứu về địa 
chất, địa mạo, các đề tài, dự án, văn bản chính sách của Đảng, nhà nước và của tỉnh, 
thành phố...; biên soạn ấn phẩm tóm tắt, tổng quan về ngành du lịch... Thông tin được lưu 
giữ trên cả chất liệu truyền thống và hiện đại. 
- Hai là: Tăng cường hình thức phục vụ theo chế độ hỏi đáp, hội thảo khoa học, nói 
chuyện chuyên đề, dịch vụ tư vấn, trao đổi thông tin, dịch vụ tra cứu và phục vụ thông tin 
trên mạng, triển lãm các sản phẩm thông tin của thư viện tại các điểm du lịch... với 
phương châm “Thông tin đảm bảo chính xác, đầy đủ, phù hợp với nhu cầu của người 
dùng tin du lịch”. 
- Ba là: Tăng cường sự trao đổi và khai thác thông tin giữa các thư viện với nhau, giữa 
ngành thư viện với ngành du lịch trong việc biên tập, lựa chọn các thông tin quảng cáo và 
phổ biến thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua mạng, tại khách sạn - 
nhà hàng và các điểm du lịch. Phục vụ thông tin thư viện đảm bảo tiêu chí “vốn tài liệu 
của riêng mình sang phục vụ vốn tài liệu của nhiều thư viện, từ nguồn tài liệu trong nước 
đến nguồn tài liệu nước ngoài, từ địa phương vươn tới toàn cầu”. 
- Bốn là: Xây dựng chiến lược khai thác, tiếp thị và chính sách tuyên truyền quảng bá phù 
hợp; nghiên cứu thị trường du lịch để xây dựng sản phẩm du lịch phù hợp với thị hiếu 
khách du lịch. Ứng dụng công nghệ thông tin, các kĩ thuật truyền thông để đa dạng hoá 
các hoạt động tuyên truyền, quảng bá và xúc tiến du lịch, mở các dịch vụ tư vấn giới 
thiệu sản phẩm du lịch; tổ chức hoặc tham quan các hội nghị, hội thảo, hội thi chuyên 
ngành và các sự kiện du lịch khác trong và ngoài nước nhằm quảng bá hình ảnh đất nước, 
con người và sản phẩm du lịch Việt Nam 
- Năm là: Ngành thông tin thư viện phối hợp với ngành du lịch tổ chức thiết lập hệ thống 
thông tin du lịch (cấu trúc tương tự như liên thư viện); xây dựng cơ sở dữ liệu du lịch 
quốc gia và tổ chức thông tin du lịch tại các cửa khẩu quốc tế, các trung tâm du lịch; xuất 
bản các ấn phẩm, vật phẩm phục vụ công tác tuyên truyền, quảng cáo, xúc tiến du lịch. 
- Sáu là: Liên kết phối hợp các cơ quan, tổ chức xã hội trong hoạt động tuyên truyền, 
quảng bá du lịch như quảng bá các sản phẩm và dịch vụ thông tin du lịch trên các phương 
tiện thông tin đại chúng; đồng thời nâng cao nhận thức của người dân bằng việc tổ chức 
các cuộc thi tìm hiểu về địa phương, về vai trò của du lịch trong việc phát triển kinh tế - 
xã hội địa phương, từ đó khơi dậy niềm tự hào quê hương, và có ý thức bảo tồn, giữ gìn 
tài nguyên du lịch, giữ gìn môi trường và kĩ năng giao tiếp, mỗi người dân thực sự trở 
thành một tuyên truyền viên quảng bá hình ảnh quê hương đất nước tới du khách trong và 
ngoài nước. 
- Bảy là: Tăng cường cơ sở vật chất và trang thiết bị hiện đại và kinh phí đảm bảo cho 
xây dựng các cơ sở dữ liệu, cũng như các hoạt động tuyên truyền, quảng bá du lịch tại 
các thư viện, các trung tâm xúc tiến du lịch theo hướng hiện đại hoá trên môi trường 
mạng và môi trường Internet. 
- Tám là: Có kế hoạch tổ chức đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ các kiến 
thức cơ bản thuộc lĩnh vực du lịch, lĩnh vực tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch cho 
cán bộ thư viện, cán bộ du lịch. 
Cùng với sự nỗ lực của ngành thư viện và ngành du lịch, để hoạt động tuyên truyền, 
quảng bá, xúc tiến du lịch đạt hiệu quả cao, còn cần có sự quan tâm của các cấp lãnh đạo 
từ trung ương đến địa phương với một định hướng chiến lược cụ thể, một cơ chế thông 
thoáng, chính sách phù hợp và có sự phân công rõ ràng đối với các ngành có liên quan. 
Hi vọng rằng trong tương lai, du lịch Quảng Ninh nói riêng, du lịch Việt Nam nói chung 
với những sản phẩm du lịch đặc sắc sẽ là điểm đến yêu thích của du khách trong và ngoài 
nước, từ đó góp phần thúc đẩy ngành du lịch cũng như sự phát triển kinh tế xã hội trong 
tiến trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Chương trình hành động của ngành du lịch thực hiện 
chương trình hành động của chính phủ sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế 
giới WTO giai đoạn 2007 - 2012. – H., 2007. 
2. Cổng thông tin điện tử Quảng Ninh. Du lịch Quảng Ninh trước thời cơ mới. – 2010. 
3. Lê Nhiệm. Để tuyên truyền quảng bá du lịch có hiệu quả // Du lịch Việt Nam. – 2003. 
– Số 2. – tr.3. 
4. Nguyễn Mạnh Tuấn. Sản phẩm và dịch vụ thông tin thư viện. - H.: Trung tâm thông tin 
tư liệu khoa học và công nghệ, 1998. 
5. Nguyễn Tài Cung. Thông tin tuyên truyền quảng cáo đối với phát triển du lịch bền 
vững ở Việt Nam // Du lịch Việt Nam. - 2001. – Số 5. - tr17 - 19. 
6. Phan Thị Huệ. Tăng cường hoạt động thông tin tại thư viện tỉnh Quảng Ninh phục vụ 
du lịch địa phương, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành khoa học thư viện. – 2004. 
7. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Ninh, Báo cáo tổng kết hoạt động du lịch 
Quảng Ninh năm 2009. 
8. Trần Nhạn. Du lịch và kinh doanh du lịch. – H.: Văn hóa thông tin, 1996. 
9. Thư viện tỉnh Quảng Ninh. Báo cáo tổng kết hoạt động thư viện tại thư viện tỉnh 
Quảng Ninh năm 2009; Sổ đăng kí bạn đọc, Sổ đăng kí tổng quát; Sổ đăng kí cá biệt. 
10. Tổng cục Du lịch Việt Nam. Dự thảo Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam giai 
đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn đến 2030. - 2009. 
____________ 
ThS. Phan Thị Huệ 
Trường Cao đẳng VHNT & DL Hạ Long 
Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam số 4(24) – 2010 (tr.23-28) 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_thong_tin_thu_vien_trong_hoat_dong_tuyen_truyen.pdf