Vận dụng pháp luật của chính quyền cơ sở ở nông thôn Việt Nam
Tóm tắt Vận dụng pháp luật của chính quyền cơ sở ở nông thôn Việt Nam: ...Thái Bình và Hòa Bình, tỷ lệ người dân không được giám sát một số nội dung chính trong các vấn đề tại địa phương chiếm khoảng gần 40%, đặc biệt trong khoảng ba năm trở lại đây. Điều đó cho thấy, thực trạng về sự tham gia giám sát của người dân tại Thái Bình và Hòa Bình đối với 6 vấn đề...xử với nhau, giải quyết các vấn đề theo cách của người làng, của những người thật sự gần gũi, những tập tục như nội hôn trong các làng Việt từ xưa và vẫn còn lưu truyền đến nay là một trong những dẫn chứng cụ thể. Cho dù thế nào thì trong làng vẫn là “phi nội tắc ngoại”; vì vậy mà cách... lối “hành chính” và hầu như đã “hành chính hóa”, lệ thuộc vào chính quyền, mất khả năng kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền. Vai trò đại điện cho quyền lợi của các hội viên tập hợp quần chúng, thực hành dân chủ ở cơ sở nhiều nơi bị lu mờ. Thực chất, việc xem xét tham gia các ...
ình chính sách khác (32,5%). Tại hai tỉnh Thái Bình và Hịa Bình, tỷ lệ người dân khơng được giám sát một số nội dung chính trong các vấn đề tại địa phương chiếm khoảng gần 40%, đặc biệt trong khoảng ba năm trở lại đây. Điều đĩ cho thấy, thực trạng về sự tham gia giám sát của người dân tại Thái Bình và Hịa Bình đối với 6 vấn đề mà chúng tơi đưa ra rất cần phải xem xét. Trong khi ở các địa phương cịn lại, tỷ lệ này đều dưới 20%. Tuy nhiên nếu so giữa 3 tỉnh cịn lại thì Trà Vinh là địa phương cĩ tỷ lệ người dân khơng được tham gia giám sát cao hơn hẳn Quảng Ngãi và Đắk Lắk, ở mức trên dưới 11 điểm phần trăm. Sự khác biệt vùng miền cho thấy sự khác biệt khá rõ trong cách thức chính quyền địa phương vận động người dân cũng như cách thức quản lý tại các địa phương trong việc tổ chức, thu hút và tạo điều kiện cho người dân tham gia quản lý, giám sát hoạt động chính quyền một cách cơng khai, minh bạch. Trong vịng ba năm trở lại đây, cĩ tới 20%, thậm chí 40% người dân khơng được tham gia giám sát trong 6 nội dung khá cơ bản, quan trọng đối với bất cứ một địa phương nào. Điều đĩ cho thấy vấn đề thực hiện quyền giám sát thực thi pháp luật của các địa phương cần phải được xem xét. Việc thực thi đúng theo pháp luật của chính quyền địa phương thể hiện thơng qua việc Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(91) - 2015 100 tham gia giám sát của cư dân nơng thơn nhưng khơng rơi vào nhĩm cư dân cĩ thu nhập thấp cũng như các nhĩm cĩ nghề nghiệp ổn định mà chủ yếu thuộc nhĩm những nơng dân làm nơng/lâm/ngư nghiệp, những người cĩ trình độ học vấn cao đang đứng ngồi thực tế này. 2. Tuyên truyền các pháp luật của Nhà nước Pháp luật của Nhà nước là sự thể chế hĩa đường lối, chính sách của Đảng, thể hiện nguyện vọng cũng như ý chí của nhân dân và được thực hiện thống nhất trong cả nước. Để nhân dân cĩ thể hiểu biết, tuân thủ theo pháp luật thì việc tuyên truyền pháp luật của Nhà nước là nhiệm vụ quan trọng. Việc triển khai Tủ sách pháp luật trên tồn quốc theo Quyết định số 69/1998/QĐ-TTg ngày 31 tháng 3 năm 1998 về việc phát hành Cơng báo nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho cấp xã, phường, thị trấn và Chỉ thị số 03/1999/CT-BTP ngày 8 tháng 3 năm 1999 của Bộ Tư pháp về việc triển khai thực hiện các cơng tác trọng tâm của ngành Tư pháp năm 1999, trong đĩ giao trách nhiệm Ủy ban nhân dân cấp xã cĩ nhiệm vụ quản lý Tủ sách pháp luật và hàng ngày tổ chức phục vụ cán bộ, nhân dân cĩ nhu cầu nghiên cứu được trực tiếp tìm hiểu các văn bản pháp luật của Nhà nước. Nhiệm vụ phổ biến, giáo dục pháp luật cấp xã được thực hiện theo Quyết định số 37/2008/QĐ- TTg ngày 12 tháng 3 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm 2008 đến năm 2012. Tiếp đến là Quyết định số 06/2010/QĐ-TTg ngày 25 tháng 1 năm 2010 về việc xây dựng, quản lý, khai thác Tủ sách pháp luật. Hiện nay, cách thức phổ biến pháp luật chủ yếu của chính quyền địa phương được người dân đĩn nhận vẫn là thơng qua các cuộc họp thơn (66,4%) và thơng qua hệ thống loa truyền thanh xã (55%), đặc biệt là qua hệ thống truyền thơng đại chúng ti vi, báo, đài (84,9%). Cách thức lựa chọn tuyên truyền pháp luật tại mỗi địa phương cĩ sự khác biệt. Bảng 2: Người dân biết được thơng tin về pháp luật qua một số nguồn chính Đơn vị: % Thái Bình Hịa Bình Quảng Ngãi Đắk Lắk Trà Vinh Tổng Họp thơn 18,6 24,4 26,1 13,3 17,6 100 Loa truyền thanh xã 30,2 21,3 18,9 10,7 18,9 100 Ti vi, báo, đài 20,9 19,9 19,5 20,2 19,5 100 Nguồn: Số liệu từ cuộc khảo sát 5 tỉnh của đề tài: “Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp áp dụng luật pháp và hương ước trong quản lý xã hội nơng thơn mới”. Cĩ thể nĩi, đây là những cách thức tuyên truyền pháp luật chủ yếu đem lại hiệu quả cho người dân, với 5 tỉnh khảo sát cách thức thực hiện được sự đồng thuận của nhân dân là khác nhau. Nĩ cĩ thể xuất phát từ rất nhiều lý do trên thực tế để các địa phương lựa chọn cách thức tuyên truyền phù hợp với mình. Trình độ học vấn của người dân cịn hạn chế là một trong những lý do chính quyền địa phương một số tỉnh lựa chọn cách thức tuyên truyền này. Tuy nhiên, điều đáng lưu ý đĩ là yếu tố dân tộc khơng phải là nguyên nhân gây khĩ khăn cho việc áp dụng pháp luật tại địa phương. Hạn chế về trình độ chuyên mơn, kiến thức từ cán bộ tuyên truyền gây những ảnh hưởng khá rõ. Một trong những lý do để việc thực thi Vận dụng pháp luật của chính quyền cơ sở... 101 pháp luật khĩ khăn tại các địa phương là người dân thích giải quyết bằng tình hơn lý (33,3%). Người dân Việt Nam từ xưa đến nay luơn coi trọng tình cảm, đĩ là mối quan hệ gắn bĩ khăng khít giữa những người cùng một dịng máu “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, là tình cảm gắn bĩ mật thiết giữa những người khơng quen biết “bán anh em xa, mua láng giềng gần”. Cĩ lẽ vì những quan niệm như vậy nên họ trọng tình cảm hơn trong việc xử lý những vấn đề gặp phải trong cuộc sống hàng ngày. Quan điểm duy tình hơn duy lý của người dân nơng thơn cĩ thể được giải thích bởi quan niệm về “tính tự trị” của làng xã Việt Nam. “Bởi sự thật thì tính tự trị thường được tạo bởi chính những người dân trong làng để bảo đảm sự an tồn thơng qua các quan chức của làng tại những thời điểm chính quyền trung ương bị chỉ trích, lên án mạnh mẽ”. Cĩ thể thấy rằng, bản chất của tính tự trị trong xã hội nơng thơn Việt Nam đã là một biểu hiện của tính duy tình trong cách ứng xử giữa người làng với người làng, là sự khác biệt giữa dân nội tịch với nhiều ưu đãi và lợi thế so với dân ngoại tịch. Và cĩ lẽ cũng vì thế mà người dân trong làng đối xử với nhau, giải quyết các vấn đề theo cách của người làng, của những người thật sự gần gũi, những tập tục như nội hơn trong các làng Việt từ xưa và vẫn cịn lưu truyền đến nay là một trong những dẫn chứng cụ thể. Cho dù thế nào thì trong làng vẫn là “phi nội tắc ngoại”; vì vậy mà cách ứng xử trong làng vẫn là theo “cái tình cái nghĩa”. Cĩ lẽ cách ứng xử với pháp luật như vậy cho thấy, sự tác động trong cách thức quản lý của chính quyền địa phương dẫn tới quan điểm của người dân vẫn xem “chính quyền xã là hình ảnh thu nhỏ của Nhà nước, cơng cụ bảo đảm lợi ích của Nhà nước chứ khơng phải là phương thức để dân chúng thực hiện tự quản cộng đồng”. Tại 5 điểm khảo sát tỷ lệ các văn bản luật khơng phù hợp với thực tiễn địa phương chỉ chiếm 8,0% trong số các lý do giải thích cho việc áp dụng luật pháp tại địa phương gặp khĩ khăn vẫn cịn là một con số nhỏ so với thực tế. Theo thống kê của Bộ Tư pháp, trong 10 tháng đầu năm 2014 đã cĩ 9.017 văn bản cĩ dấu hiệu vi phạm các điều kiện về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản (chiếm tỷ lệ 22%). Điều đĩ cho thấy tình trạng đáng báo động với việc xây dựng cũng như ra quyết định đối với các văn bản pháp luật hiện nay, nĩ sẽ là một trong những nguyên nhân quan trọng tác động tới thực tế và hiệu quả thực thi pháp luật tại các địa phương, và đặt ra vấn đề về tính hiệu quả trong cách tuyên truyền, chủ trương chính sách pháp luật nhà nước của chính quyền địa phương. Tất nhiên, bên cạnh nguyên nhân chủ quan về trình độ học vấn cĩ giới hạn của người dân thì sự hạn chế trong trình độ, thiếu linh hoạt trong cách thức tuyên truyền hay tình trạng gia tăng các văn bản vi phạm các điều kiện về tính hợp hiến, hợp pháp là những nhân tố quan trọng dẫn tới tình trạng tuyên truyền pháp luật tại các địa phương cịn hạn chế. 3. Vai trị các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tuyên truyền và vận động thực hiện pháp luật Hiến pháp xác định Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, cùng với Hội Nơng dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đồn Thanh niên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước. Theo quy định của Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, đại diện các đồn thể quần chúng đều phải được tham gia vào tất cả các phiên họp, các quyết định và nhiều kì họp quan trọng khác nhau trong hệ thống chính trị ở cấp tương đương. Sở dĩ cĩ được mối quan hệ dễ dàng của các tổ chức này với cơ quan nhà nước là do vị trí của họ được thừa nhận Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(91) - 2015 102 trong hệ thống chính trị. Vì thế, trong bất cứ hoạt động nào của chính quyền địa phương chúng ta đều thấy vai trị khá nổi bật của các tổ chức đồn thể này với tư cách như là cánh tay nối dài của chính quyền trong việc tuyên truyền, vận động hay phổ biến các chủ trương, chính sách pháp luật của nhà nước sẽ triển khai theo một quy trình nhất định. Các tổ chức chính trị - xã hội đã và đang làm tốt vai trị là cầu nối giữa chính quyền với người dân trong việc phố biến cũng như áp dụng các chính sách của Nhà nước, đồng thời giúp người dân phản ánh mong muốn của mình tới chính quyền. Các hoạt động kinh tế - xã hội đã được các tổ chức đồn thể này vận dụng một cách khá linh hoạt phù hợp với người dân địa phương, từ đĩ tạo ra được hiệu quả trong các hoạt động của các hội cũng như sự gắn kết giữa người dân với hội cũng như với chính quyền địa phương. Các tổ chức chính trị - xã hội cùng với các tổ chức khác của làng xã, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng bộ xã đang thể hiện như là một cộng đồng tự quản chính sách xã hội mạnh và cĩ tổ chức. Theo kết quả khảo sát tại 5 tỉnh cho thấy, trong số các tổ chức chính trị - xã hội thì tỷ lệ người dân tham gia cao nhất tập trung ở Hội Phụ nữ (48,6%), các tổ chức cịn lại chiếm tỷ lệ khơng nhiều. Vì cĩ một tỷ lệ đơng đảo hội viên như vậy so với các tổ chức/đồn thể khác mà việc tham gia vào các tổ chức này giúp các thành viên được “bảo vệ”. Khảo sát cho thấy những đánh giá tích cực về gĩp phần xĩa đĩi giảm nghèo của các tổ chức chính trị - xã hội. Trong đĩ, tỷ lệ được ghi nhận cao nhất là Hội Phụ nữ (73%), Hội Nơng dân (30%) và Hội Cựu chiến binh (21%). Nhìn chung, Hội Phụ nữ được tỷ lệ người dân ghi nhận cao nhất so với các tổ chức khác trong việc tác động tích cực đến hoạt động “nâng cao vai trị phụ nữ” (82%). Đối với tác động “trợ giúp, bảo vệ Đảng, chính quyền” và “chống tham nhũng”, Hội Phụ nữ cĩ tỷ lệ người dân ghi nhận đứng thứ hai, thấp hơn so với Hội Cựu chiến binh. Ngồi hai khía cạnh trên, Hội Cựu chiến binh cịn được đánh giá cao trong việc tác động tích cực đến “chống tệ nạn xã hội”, “tăng cường đồn kết cộng đồng”, “phát huy dân chủ”, thúc đẩy cơng bằng, bình đẳng và nâng cao đời sống văn hĩa tinh thần”. Đồn Thanh niên được đánh giá cao trong các hoạt động bảo vệ mơi trường và chống các tệ nạn xã hội. Tuy nhiên, các đồn thể chính trị - xã hội hiện nay vẫn hoạt động trên cơ sở vận động là chủ yếu, chưa mang tính chủ động tham gia với ý thức xây dựng cộng đồng và xã hội. Cách thức hoạt động của các đồn thể chính trị - xã hội vẫn mang tính “hành chính hĩa” và các đồn thể này đang làm việc do Ủy ban nhân dân phân cơng “sai khiến” nên đánh mất các chức năng thực sự của một hội. Các tổ chức trong hệ thống chính trị ở cơ sở chưa phát huy được vai trị vị trí của mình. Các tổ chức chính trị - xã hội như Mặt trận Tổ quốc, Đồn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nơng dân được tổ chức và hoạt động rập khuơn theo lối “hành chính” và hầu như đã “hành chính hĩa”, lệ thuộc vào chính quyền, mất khả năng kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền. Vai trị đại điện cho quyền lợi của các hội viên tập hợp quần chúng, thực hành dân chủ ở cơ sở nhiều nơi bị lu mờ. Thực chất, việc xem xét tham gia các đồn thể quần chúng của các thành viên khơng chỉ để tìm những lý do, động cơ, sức hút từ các tổ chức mà cịn là sự nhận định, đánh giá về vai trị của các tổ chức đồn thể quần chúng. Quan trọng hơn đĩ là sự phản ánh “tiếng nĩi” của các tổ chức quần chúng trong việc đưa ra các quyết định về kinh tế - xã hội địa phương. 4. Vai trị của tổ/ban hịa giải trong việc giải quyết các khiếu nại Vận dụng pháp luật của chính quyền cơ sở... 103 Tổ hịa giải là một tổ chức của nhân dân, do nhân dân bầu ra và được thành lập ở thơn/xĩm/ấp nhằm giải quyết kịp thời các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân, nhằm củng cố khối đại đồn kết tồn dân. Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hịa giải ở cơ sở năm 1998, Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18 tháng 10 năm 1999 của Chính phủ và Thơng tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV gĩp phần làm rõ hơn nhiệm vụ tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hịa giải của Ủy ban nhân dân cấp xã. Thơng thường ban hịa giải tại các xã gồm: tư pháp, đại diện các đồn thể tham gia tổ hịa giải. Cĩ thể nĩi vai trị của các tổ chức chính trị - xã hội khá quan trọng trong các hoạt động hịa giải tại các địa phương. Thống kê từ Hội Nơng dân Hưng Yên cho thấy: thành viên của hội đã tham gia vào 1.018 tổ hịa giải, 1.283 ban thanh tra nhân dân và 912 tổ an ninh cho thấy vai trị của tổ chức này trong cơng tác hịa giải tại địa phương. Mâu thuẫn, xích mích và khiếu nại là những vấn đề chủ yếu mà người dân thường phải đối mặt trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, trên thực tế tại 5 địa phương khảo sát tỷ lệ này khơng cao, chủ yếu tập trung liên quan đến vấn đề đất đai. Quan điểm xử lý, giải quyết gọn nhẹ của người dân chính là lý do để các địa phương này cĩ tỷ lệ các vụ khiếu kiện, mâu thuẫn, tranh chấp và xích mích là tương đối nhỏ. Chẳng hạn, cĩ người nhận xét: “dân mình cứ nĩi: 100 cái lý khơng bằng một tí cái tình. Cái gì giải quyết gọn nhẹ, hịa giải được thì giải quyết, nếu sau đĩ khơng cịn cái tình gì thì mới ra pháp luật”. Tuy thế cĩ những trường hợp mâu thuẫn nhất thiết phải nhờ đến sự giải quyết của chính quyền. Các vấn đề xích mích, khiếu kiện hay mâu thuẫn xảy ra trong các địa phương chiếm tỷ lệ nhỏ và người dân lựa chọn cách thức giải quyết chủ yếu là nhờ tới chính quyền hay nĩi chính xác là tìm đến pháp luật. Sự phân bổ tỷ lệ này thực tế tại các địa phương cĩ sự khác biệt khá rõ. Trong số các địa phương khảo sát thì Trà Vinh là địa phương cĩ tỷ lệ người dân tìm tới chính quyền xã/thơn/ấp cao nhất so với các tỉnh cịn lại khi khơng giải quyết được các vấn đề xích mích, mâu thuẫn, tranh chấp và khiếu nại. Hịa Bình và Đắk Lắk, là hai địa phương cĩ tỷ lệ xử lý các vấn đề này tại chính quyền xã thấp nhất. Nghiên cứu trường hợp tại Đắk Lắk cho thấy, giá trị và vai trị của luật tục trong các quan hệ xã hội ở nơi đây vẫn cịn nhiều ảnh hưởng, tác động và chi phối tới cách thức lựa chọn các tương tác xã hội của cư dân nơi đây. Với những đặc trưng của một địa phương cịn chịu những ảnh hưởng khá rõ của luật tục và “người dân cịn sợ, cịn ngại pháp luật” thì việc họ khơng đánh giá cao vai trị của các tổ chức hịa giải từ chính quyền như ở Đắk Lắk là điều cĩ thể hiểu được. Điều đĩ cũng đặt ra vấn đề đối với các địa phương, đặc biệt là các địa phương mà vai trị của các luật tục, quy ước, hương ước cũ vẫn cịn những ảnh hưởng và tác động tới quan niệm cũng như cách thức sinh hoạt của bà con. 5. Kết luận Cơng khai, minh bạch và cơng bằng là những chỉ số quan trọng trong đánh giá vai trị thực thi pháp luật của chính quyền địa phương. Quá trình tham gia, giám sát của người dân trong các hoạt động kinh tế - xã hội tại địa phương thực chất là đảm bảo nền dân chủ cơ sở. Về cơ bản, vấn đề thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở thực chất là đảm bảo cơ chế giải trình với người dân. Sự cởi mở, cơng khai, minh bạch của chính quyền địa phương sẽ giúp thu ngắn khoảng cách giữa Nhà nước với Nhân dân. Đĩ là sự tác động hai chiều: một mặt là sự chuẩn bị các cơng cụ của nhà nước nhằm thực hiện tốt quá trình cơng khai, minh bạch trong quản Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6(91) - 2015 104 lý, mặt khác đĩ là thiết lập các cơ chế để tiếp nhận và xử lý các thơng tin giám sát của người dân, từ đĩ điều chỉnh các cơng cụ, cách thức hoạt động của bộ máy nhằm đảm bảo dịch vụ tốt nhất đối với người dân. Các tổ chức chính trị - xã hội đĩng vai trị quan trọng trong việc tuyên truyền, thực hiện pháp luật cũng như tham gia giám sát các hoạt động tại địa phương. Với tư cách là một trong những thành viên khơng thể thiếu của ban hịa giải, các tổ chức này cùng với cán bộ tư pháp và lãnh đạo thơn đĩng vai trị quan trọng trong việc giải quyết các xích mích, khiếu nại chủ yếu. Thơng thường, những thành viên của ban hịa giải này hồn thành nhiệm vụ của mình khi mà cư dân nơng thơn Việt Nam vẫn quen với cách cư xử theo lối duy tình hơn duy lý. Thực tiễn xây dựng nơng thơn mới ở nước ta chứng tỏ rằng, nếu chỉ coi pháp luật là cơng cụ duy nhất để điều hành xã hội, điều chỉnh các quan hệ xã hội thì hiệu quả của cơng tác quản lý xã hội nĩi chung và xây dựng nơng thơn mới nĩi riêng khơng thể đạt kết quả cao. Việc xĩa bỏ hương ước, loại nĩ ra ngồi quá trình quản lý xã hội ở nơng thơn đã tạo ra một khoảng trống trong đời sống cộng đồng làng xã. Trong khi pháp luật nước ta chưa được xây dựng hồn chỉnh, cơng tác tuyên truyền phổ biến pháp luật cịn hạn chế, ý thức pháp luật của nhân dân chưa cao thì những mặt tích cực của lệ làng vẫn cần được phát huy. Đĩ sẽ là cánh tay nối dài trợ giúp chính quyền địa phương quản lý xã hội trên cơ sở nền tảng là sự tuân thủ pháp luật. Tài liệu tham khảo 1. Toan Ánh (2004), Nếp cũ. Làng xĩm Việt Nam, Nxb Trẻ. 2. Đồn Khắc Bản (2002), “Để quy chế dân chủ ở cơ sở thực sự đi vào cuộc sống”. Tạp chí Nơng thơn mới, số 69. 3. Bùi Thế Cường và đồng nghiệp (2003), Phong trào xã hội từ nỗ lực tập thể đến tổ chức xã hội, đề tài cấp Viện Xã hội học. 4. Bùi Quang Dũng (2002), “Giải quyết xích mích trong nội bộ nhân dân - Phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính”, Tạp chí Xã hội học, số 3. 5. Bùi Quang Dũng (2002), Quy chế dân chủ cơ sở và sự tham gia của người dân, đề tài cấp Viện Xã hội học. 6. Bùi Quang Dũng (2013), Nơng dân những vấn đề cơ bản và đương đại, Nxb Khoa học xã hội. 7. Phan Thanh Hà (2011), “Về vấn đề dân chủ trong cải cách chính quyền địa phương ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 12. 8. Insun Yu (1994), Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 9. Jairo Acuđa-Alfaro và Đỗ Thanh Huyền (2014), “Cơng khai, minh bạch và giải trình: Vai trị của chính quyền địa phương?”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 19. 10. John Kleinen (2012), Làng Việt. Đối diện tương lai hồi sinh quá khứ, Nxb Lao động, Hà Nội. 11. Nguyễn Văn Long (2000), Bàn thêm về quan hệ lệ làng - luật nước trong quản lý xã hội ở nơng thơn nước ta, Tạp chí Thơng tin lý luận, số 4. 12. Bế Quỳnh Nga (2008), Các tổ chức xã hội tự nguyện ở nơng thơn và vai trị trợ giúp xã hội trong bối cảnh nền kinh tế chuyển đổi, Tạp chí Xã hội học, số 2. 13. Lê Minh Thơng (2002), Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn tổ chức và hoạt động của chính quyền cấp xã hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 643. 14. Shozo Sakata (2006), Changing roles of mass-organizations in poverty reduction in Vietnam, in Actor for Poverty Reduction in Vietnam, Institute of developing economies Japan external trade organization. 15. Wischerman, Jorg and Nguyen Quang Vinh (2002), The Relationship between Societal Organizations and Governmental Orgranizations in Vietnam: Selected Findings of an Empirical Survey. Getting organized in Vietnam - Moving in and around the Socialist State, Singapore. 16. Nguyễn Đức Vinh (2013), “Thực trạng các tổ chức xã hội Việt Nam trong giai đoạn phát triển Vận dụng pháp luật của chính quyền cơ sở... 105 hiện nay”. Tạp chí Xã hội học, số 4. 17. Báo Tuổi trẻ Online ngày 15 tháng 1 năm 2015, con-ne-nang-trong-xu-ly-van-ban/699345.html
File đính kèm:
- van_dung_phap_luat_cua_chinh_quyen_co_so_o_nong_thon_viet_na.pdf