Về thời kỳ văn học Việt Nam trong khung phân loại DDC 14, ấn bản tiếng Việt

Tóm tắt Về thời kỳ văn học Việt Nam trong khung phân loại DDC 14, ấn bản tiếng Việt: ...iả này có một ký hiệu thời kỳ duy nhất là 52, thời kỳ 1900- 1945, Văn học Mỹ - DDC 22). 2. Thời kỳ văn học Việt Nam Chỉ số phân loại dành cho Văn học Việt Nam được mở rộng dựa trên các nguyên tắc của DDC, về thời kỳ văn học cũng cần bám sát tinh thần này, mục đích cao nhất là để thống nhất... 34. Như vậy, các tác phẩm của một tác giả viết trong những thời kỳ khác nhau sẽ được xếp vào những chỗ khác nhau trong kho sách mở. Việc xử lý và sắp xếp như vậy có trái với nguyên tắc chung của DDC hay không? Khi không xác định được thời kỳ, thì mới căn cứ theo thời kỳ sáng tác rực rỡ nhất...ách văn học Việt Nam đã sử dụng thời kỳ để ghép khi định ký hiệu. Tuy nhiên, chúng ta còn rất ít kinh nghiệm, về thời kỳ văn học vẫn còn cần tiếp tục xem xét. Các thư viện chưa xây dựng được phương án và văn bản thống nhất khi ghép ký hiệu thời kỳ, nên thời gian qua việc này hầu như vẫn là...

pdf7 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 325 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Về thời kỳ văn học Việt Nam trong khung phân loại DDC 14, ấn bản tiếng Việt, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Về thời kỳ văn học Việt Nam trong 
khung phân loại DDC 14, ấn bản 
tiếng Việt 
1. Nguyên tắc chung 
Đề mục văn học Việt Nam trong Khung DDC 14, ấn bản tiếng Việt 
được mở rộng trên cơ sở ký hiệu 895.922 của DDC 22. Việc phân định 
thời kỳ văn học Việt Nam trong DDC 14 đã được các chuyên gia Hoa 
Kỳ xử lý thống nhất với các nền văn học khác trong toàn Khung DDC, 
nghĩa là khi chia nhỏ thời kỳ 1900- hầu như bao giờ cũng có hai thời kỳ: 
1900-1945, 1945-1999 v.v... 
Trong tài liệu hướng dẫn sử dụng DDC của tác giả Lois Mai Chan và J. 
Mitchell (chỉ dành cho DDC 22, với bảng 3A), ở tr. 116 cũng chỉ đề cập 
đến 4 thành tố: Lớp chính + ngôn ngữ + thể loại + thời kỳ, trong ký hiệu 
phân loại văn học, chứ không đề cập đến cách xác định thời kỳ văn 
học cho một tác phẩm cụ thể, mà chỉ nói chung là “thời kỳ trong đó tác 
giả đã viết (the period in which an author wrote). Đáng chú ý nhất 
là câu: “Có những cái bẫy (pitfalls) như: tác phẩm có thể đã được viết 
vào thời gian trước thời kỳ hoặc những thời kỳ trong đó tác giả được 
biết đến là đã sáng tác những tác phẩm chính yếu của mình”; và phía 
dưới cũng có nói: dùng số Cutter để tập hợp vào một chỗ các tác phẩm 
của một tác giả theo vần chữ cái là một sự trợ giúp cho người dùng (chứ 
không nói rõ là trong từng thời kỳ cụ thể). Trong những thí dụ tiếp theo 
của cuốn sách này, luôn luôn cung cấp năm sinh và năm mất của tác giả 
để tiện đối chiếu với bảng thời kỳ, chứ không cung cấp năm viết tác 
phẩm đang phân loại, để làm căn cứ ghép ký hiệu. 
Từ hướng dẫn này, có thể thấy rõ việc xác định một thời kỳ nhất định 
cho tác giả cá nhân (thời kỳ rực rỡ nhất hay thời kỳ mà tác giả được biết 
đến là đã sáng tác những tác phẩm chính yếu, và trên thực tế các thư 
viện Hoa Kỳ đã làm như vậy), chắc chắn là với mục đích nhằm đạt được 
sự nhất quán trong việc sử dụng ký hiệu thời kỳ cho các tác giả. (Ví dụ: 
các tác phẩm Ông già và biển cả, Chuông nguyện hồn ai của E. 
Hemingway đều có ký hiệu đầy đủ 813.52, ký hiệu xếp giá (call-
number) là 813. Tác giả này có một ký hiệu thời kỳ duy nhất là 52, thời 
kỳ 1900- 1945, Văn học Mỹ - DDC 22). 
2. Thời kỳ văn học Việt Nam 
Chỉ số phân loại dành cho Văn học Việt Nam được mở rộng dựa trên các 
nguyên tắc của DDC, về thời kỳ văn học cũng cần bám sát tinh thần này, 
mục đích cao nhất là để thống nhất về ký hiệu phân loại. Nhưng vấn đề 
đặt ra ở đây là: Căn cứ (cơ sở) để xác định thời kỳ văn học Việt Nam nói 
chung là gì? Hay nói cách khác, cần xác định chỉ số thời kỳ theo tác 
phẩm hay theo tác giả? Nhìn chung, khi phân loại tác phẩm văn học, cần 
ghép ký hiệu thời kỳ văn học cho: 
a. Những tác giả sống và sáng tác trước Cách mạng 1945: Có thời kỳ -32 
(điều này đã rất rõ, ví dụ Thạch Lam, Hàn Mặc Tử, Khái Hưng, Nhất 
Linh) 
b. Những người sống và sáng tác trong cả hai thời kỳ trước và sau Cách 
mạng tháng Tám như Tố Hữu, Nguyễn Bính, Nguyên Hồng, Chế Lan 
Viên, Xuân Diệu, Huy Cận v.v 
c. Các tác giả của thời kỳ chống Mỹ và hiện nay, có nghĩa là vẫn tiếp tục 
sáng tác, như Trần Đăng Khoa, Chu Lai, Vương Trí Nhàn, Ma Văn 
Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, v.v và rất nhiều người 
khác. 
d. Các tác giả thuộc thế hệ 8x, 9x 
Nếu áp dụng cách phân định thời kỳ cho từng tác phẩm văn học theo 
năm cuốn sách được viết ra, thì những sáng tác của nhà thơ Tố Hữu 
trước cách mạng tháng Tám có chỉ số thời kỳ là -32, sau cách mạng là -
34. Như vậy, các tác phẩm của một tác giả viết trong những thời kỳ khác 
nhau sẽ được xếp vào những chỗ khác nhau trong kho sách mở. Việc xử 
lý và sắp xếp như vậy có trái với nguyên tắc chung của DDC hay 
không? Khi không xác định được thời kỳ, thì mới căn cứ theo thời kỳ 
sáng tác rực rỡ nhất của tác giả. Vậy cần hiểu thế nào là thời kỳ rực rỡ 
của một tác giả? 
Ở DDC 14 mục Văn học Việt Nam không có hướng dẫn gì cụ thể hơn về 
vấn đề này. Việc xác định vấn đề này trong văn học Việt Nam hoàn toàn 
không đơn giản. Cần phải có căn cứ xác đáng, phù hợp với mỗi tác giả, 
để đạt đến mục đích chung và không xảy ra tranh luận, có ý kiến trái 
chiều nhau trong quá trình phân loại tài liệu. Có thể có nhiều cách 
hiểu về thời kỳ rực rỡ khác nhau, mỗi người, mỗi nơi đều có nhận thức 
và lý lẽ của mình, nhưng điều quan trọng nhất ở đây là sự đồng thuận 
trong các thư viện. Để đạt được sự nhất quán về sử dụng thời kỳ, cần 
thống nhất phương án dùng chung cho tất cả các thư viện, không phân 
biệt là hệ thống nào. 
Dựa vào hướng dẫn về DDC 22 của các tác giả Lois Mai Chan và J. 
Mitchell nêu trên, cơ sở để xác định thời kỳ văn học là thời kỳ mà tác 
giả sống và đã có những sáng tác chính yếu của mình. Có thể hiểu rằng 
đây cũng chính là thời kỳ sáng tác rực rỡ nhất của tác giả. 
Sau 3 năm áp dụng DDC 14, nhiều thư viện khi phân loại sách văn học 
Việt Nam đã sử dụng thời kỳ để ghép khi định ký hiệu. Tuy nhiên, 
chúng ta còn rất ít kinh nghiệm, về thời kỳ văn học vẫn còn cần tiếp tục 
xem xét. Các thư viện chưa xây dựng được phương án và văn bản thống 
nhất khi ghép ký hiệu thời kỳ, nên thời gian qua việc này hầu như vẫn 
làm theo nhận thức và cách tư duy của một vài khung phân loại trước 
DDC, nghĩa là chủ yếu xác định thời kỳ cho tác phẩm văn học là chính. 
Trên thực tế, trong CSDL các thư viện vẫn có một số tác giả mà tác 
phẩm được phân loại và ghép ký hiệu ở một số thời kỳ khác nhau, như 
vậy chưa tập trung sách của từng tác giả vào một khu vực trong kho 
sách. Nếu từng thư viện riêng lẻ đều có cách hiểu khác nhau, thì cho dù 
có áp dụng chung một Khung phân loại cũng sẽ không đạt được sự 
thống nhất trong cộng đồng thư viện cả nước. Do vậy, rất cần một thư 
viện làm đầu mối, biên soạn tài liệu hướng dẫn (tạm gọi là Bảng thời kỳ 
văn học cho tác giả Việt Nam, trên cơ sở có ý kiến tư vấn của chuyên 
gia chuyên ngành), trong đó quy định mỗi tác giả một ký hiệu thời kỳ 
nhất định, và thường xuyên được cập nhật, bổ sung khi cần thiết. Thư 
viện Quốc gia Việt Nam cần tiếp tục duy trì Văn phòng DDC hay một 
tiểu ban chuyên trách để tư vấn, giải quyết vấn đề này, cũng như giải 
đáp những thắc mắc trong quá trình áp dụng DDC nói chung. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Khung phân loại thập phân Dewey rút gọn, ấn bản 14. – H. : Thư viện 
Quốc gia Việt Nam, 2006. - 1067 tr. 
2. Nguyễn Thanh Vân. Một số quy định cụ thể của Thư viện Quốc gia 
Việt Nam trong việc áp dụng Khung phân loại DDC//Tạp chí Thư viện 
Việt Nam, số 3(19), 7 - 2009. – tr. 38-45. 
3. Dewey Decimal Classification: a practical guide/Lois Mai Chan... [et 
al.]. 2nd ed. - 1996. - xvi, 246 p. 
4. Chan, lois Mai. Dewey Decimal Classification: principles and 
application/ Lois Mai Chan, Joan S. Mitchell. - Dublin, Ohio: OCLC, 
2003. - xi, 216 p. 
______________ 
ThS. Hoàng Thị Hòa 
Trung tâm TT-TV, ĐHQGHN 
Nguồn: Tạp chí Thư viện Việt Nam số 2(22) – 2010 (tr.3-4) 

File đính kèm:

  • pdfve_thoi_ky_van_hoc_viet_nam_trong_khung_phan_loai_ddc_14_an.pdf