Xu hướng quản lí nguồn lực thông tin ở thư viện đại học Việt Nam

Tóm tắt Xu hướng quản lí nguồn lực thông tin ở thư viện đại học Việt Nam: ...thông tin, TV còn phải có khả năng chỉ dẫn các nguồn thông tin trong nước và quốc tế theo nhu cầu của người tìm thông tin, một công việc đòi hỏi cán bộ TV phải nâng cao trình độ hiểu biết của mình ở nhiều chuyên ngành khác nhau. Trên bình diện quốc gia, các TV đại học phải liên kết tiề...ị, hội thảo và nhiều loại hình sinh hoạt học thuật khác. Hoạt động tạo nguồn thông tin nội sinh là một hoạt động có kế hoạch, chịu sự quản lí trực tiếp của nhà trường. Kinh phí triển khai hoạt động này một phần do Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Quỳnh Chi ______________________________..._____________________________________________________________________________________ 38 dạng của loại hình thông tin chắc chắn sẽ đem đến cho người sử dụng một sự lựa chọn rộng lớn, và điều đó rất có ý nghĩa trong tình hình ngân sách của từng trường không thực sự dồi dào và không thể ...

pdf6 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 294 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Xu hướng quản lí nguồn lực thông tin ở thư viện đại học Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 59 năm 2014 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 34
XU HƯỚNG QUẢN LÍ NGUỒN LỰC THÔNG TIN 
Ở THƯ VIỆN ĐẠI HỌC VIỆT NAM 
LÊ QUỲNH CHI* 
TÓM TẮT 
Bài viết đề cập 5 xu hướng quản lí nguồn lực thông tin ở các thư viện (TV) đại học 
Việt Nam ở thời điểm hiện nay, đó là: (1) Chuyển từ hình thức sở hữu sang hình thức tiếp 
cận; (2) Đa dạng hóa sản phẩm thông tin và tăng cường số hóa tài liệu; (3) Phát triển 
nguồn thông tin nội sinh; (4) Liên kết, chia sẻ nguồn lực thông tin giữa các TV; và (5) 
Tăng cường hoạt động tiếp thị (marketing) nguồn lực thông tin. 
Từ khóa: thư viện đại học, xu hướng quản lí nguồn lực thông tin, giáo dục đại học. 
ABSTRACT 
The trends of information resource management 
in Vietnam university libraries 
This article refers to the five trends of information resource management in Vietnam 
university libraries. These trends are (1) switching from possessive to accessed resources, 
(2) diversifying information products and services as well as increasing the digitalization 
of materials, (3) promoting institutional repositories, (4) cooperating and sharing 
information resources, and (5) increasing the marketing of information resources. 
Keywords: university libraries, the trends of information resource management, 
higher education. 
* NCS, Trường Đại học Sư phạm TPHCM 
1. Đặt vấn đề 
Quản lí nguồn lực thông tin ở một 
TV đại học có tầm quan trọng đặc biệt 
đối với sự phát triển của trường chủ quản. 
Mục tiêu cơ bản của công tác này là xây 
dựng khả năng cung cấp thông tin theo 
cách tốt nhất cho người sử dụng thư viện, 
góp phần tích cực vào hoạt động đào tạo, 
nghiên cứu khoa học của trường. Trên thế 
giới, việc quản lí nguồn lực thông tin nói 
chung, và của TV đại học nói riêng, được 
thực hiện theo hướng vừa nâng cao tiềm 
lực thông tin hiện có, vừa nâng cao khả 
năng tiếp cận các nguồn thông tin bên 
ngoài. 
Thư viện đại học Việt Nam cũng 
không ngoại lệ. Ở nước ta, để quản lí 
nguồn lực thông tin, các TV đại học phải 
giải quyết một mâu thuẫn: một bên là nhu 
cầu thông tin ngày càng lớn của độc giả; 
một bên là khả năng tài chính hạn hẹp, 
không cho phép TV sở hữu toàn bộ khối 
lượng thông tin đang gia tăng hàng ngày. 
Mâu thuẫn này chỉ có thể được giải quyết 
bằng việc xác định một phương thức 
quản lí đúng đắn, không những đối với 
bộ sưu tập tài liệu TV hiện có, mà còn 
đối với những nguồn thông tin bên ngoài 
mà TV có thể vươn tới. Quản lí nguồn 
lực thông tin ở TV đại học Việt Nam, 
như vậy, không thể đi theo một con 
đường khác so với con đường mà các TV 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Quỳnh Chi 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 35
trên thế giới đã và đang trải qua. 
Vào những năm 80 của thế kỉ XX, 
hoạt động của nhiều TV đại học Việt 
Nam bị hạn chế bởi cách quản lí thụ 
động, chủ yếu là xử lí, tổ chức, bảo quản 
kho sách. Phương thức quản lí này không 
còn phù hợp với thời đại mới - thời đại 
thông tin. Từ thập niên 90 trở đi, xuất 
phát từ việc xem người sử dụng thông tin 
là trung tâm, các TV trên thế giới đã có 
hàng loạt thay đổi nhằm giảm thiểu 
những điểm yếu của phương thức quản lí 
truyền thống, và xây dựng một phương 
pháp quản lí theo hướng chỉ đường tới 
kho tàng tri thức của nhân loại, chủ động 
đưa thông tin tới người dùng. Đây không 
đơn giản là “thiện chí” của TV trong việc 
cung cấp một dịch vụ ngày càng tốt hơn, 
mà còn là sức ép của thời đại. Bởi vì nếu 
không theo kịp cơn lốc “tin hóa”, thì TV 
sẽ là vật cản đối với đời sống xã hội, 
trước hết là đối với guồng máy giáo dục 
và đào tạo. 
2. Xu hướng quản lí nguồn lực 
thông tin ở thư viện đại học Việt Nam 
2.1. Chuyển đổi phương thức quản lí 
nguồn lực thông tin 
Ở thời điểm hiện tại, xu thế phát 
triển của các trường đại học được phản 
ánh qua những đặc thù sau: 
- Hoạt động đào tạo gắn kết với hoạt 
động nghiên cứu khoa học; 
- Phương thức đào tạo theo niên chế 
chuyển sang phương thức đào tạo theo tín 
chỉ; 
- Vai trò của mạng thông tin đối với 
hoạt động nghiên cứu và đào tạo ngày 
càng mang tính quyết định; 
- Sinh viên phải tự học, tự nghiên 
cứu nhiều hơn, và việc tìm kiếm thông tin 
là bắt buộc, không chỉ trong giờ học, mà 
cả ngoài giờ học. 
Những đặc thù nói trên buộc TV 
của các trường đại học phải thay đổi 
phương thức hoạt động của mình. Trước 
hết, việc quản lí nguồn lực thông tin phải 
đi theo hướng chuyển từ hình thức sở hữu 
sang hình thức tiếp cận, có nghĩa là tạo 
điều kiện cho người sử dụng TV “chạm” 
tới thông tin từ xa. Để đạt được mục đích 
này, toàn bộ nguồn thông tin của TV phải 
được sắp xếp lại một cách chặt chẽ và dễ 
truy cập hơn trong bản thân hệ thống 
mạng của trường. Hệ thống mạng không 
dây, tại cơ sở đào tạo cũng như tại nơi ở 
của sinh viên, cũng là một sự hỗ trợ đắc 
lực của trường trong việc mở cánh cổng 
thông tin đầu tiên cho những người có 
nhu cầu tra cứu. Xa hơn, để có những 
thông tin cập nhật và chuyên sâu, TV 
phải có sự trợ giúp của trường trong việc 
cấp kinh phí hàng năm cho việc mua 
quyền truy cập cơ sở dữ liệu của một số 
nhà xuất bản trên thế giới. Bên cạnh khả 
năng cung cấp thông tin, TV còn phải có 
khả năng chỉ dẫn các nguồn thông tin 
trong nước và quốc tế theo nhu cầu của 
người tìm thông tin, một công việc đòi 
hỏi cán bộ TV phải nâng cao trình độ 
hiểu biết của mình ở nhiều chuyên ngành 
khác nhau. Trên bình diện quốc gia, các 
TV đại học phải liên kết tiềm lực của 
mình để khắc phục tình trạng hữu hạn về 
tài nguyên, sao cho người sử dụng có thể 
khai thác một cách dễ dàng và bình đẳng 
tất cả những nguồn thông tin mà các TV 
trong nước có thể cung cấp, đặc biệt đối 
với những người không học ở cùng một 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 59 năm 2014 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 36
cơ sở đào tạo nhưng có chung một 
chuyên ngành. 
2.2. Đa dạng hóa sản phẩm thông tin 
và tăng cường số hóa tài liệu 
Sự phát triển mạnh mẽ của Internet 
và khả năng ứng dụng rộng khắp của 
công nghệ thông tin đã tạo một bước đột 
phá trong hoạt động của TV: bên cạnh 
nguồn tin truyền thống, chúng ta có thêm 
một loại hình thông tin mới, đó là tin điện 
tử. Chính khả năng “nén” của công nghệ 
thông tin giúp cho nguồn lực thông tin 
của TV được tăng lên nhiều lần. Ngoài 
các xuất bản phẩm truyền thống (dạng 
in), thông tin dưới dạng điện tử đang phát 
triển nhanh chóng (ebook, cơ sở dữ liệu, 
bản tin điện tử), và điều đó cho phép 
người tìm tin tiếp cận dữ liệu mọi lúc, 
mọi nơi, không lệ thuộc vào thời khóa 
biểu của trường hay lịch làm việc của 
TV. Trong các loại hình đào tạo của 
trường, bộ sưu tập số góp phần đắc lực 
vào việc phát triển hình thức đào tạo trực 
tuyến, nâng cao khả năng tiếp cận thông 
tin cho những học viên không có điều 
kiện theo học hệ chính quy. Ngoài ra, số 
hóa tài liệu còn là lựa chọn tối ưu vì nó 
bảo tồn lâu dài các tài liệu quý hiếm, 
ngăn chặn những rủi ro hủy hoại do thời 
gian, thiên tai, khí hậu và tần suất sử 
dụng. Tận dụng những ưu thế này, các 
TV ngày càng chú trọng công tác số hóa 
tài liệu và cung cấp những sản phẩm 
thông tin có giá trị cao được thu thập từ 
nhiều nguồn, đã qua phân tích và cô 
đọng, như thư mục chuyên đề, thông tin 
chọn lọc, tổng luận, đĩa CD-ROM được 
biên soạn theo chủ đề... 
Thực tế cho thấy, ngày càng nhiều 
TV đại học Việt Nam đi theo xu hướng 
số hóa và xây dựng cơ sở dữ liệu toàn 
văn (TV trung tâm Đại học Quốc gia Hà 
Nội, Đại học Quốc gia TPHCM, Đại học 
Bách Khoa Hà Nội, Đại học Công nghiệp 
TPHCM, Đại học Sư phạm TPHCM). 
Với sự đa dạng hóa các loại hình xuất 
bản phẩm và mở rộng phạm vi số hóa, thì 
việc hình thành nguồn tài liệu số đang 
làm thay đổi cơ cấu và thành phần của 
nguồn lực thông tin, thay đổi quy trình xử 
lí thông tin và tác động mạnh mẽ đến 
hoạt động của TV, thúc đẩy TV chuyển 
từ vai trò “mua sách và quản lí sách” 
sang “mua thông tin và quản lí thông 
tin”. 
2.3. Phát triển nguồn thông tin nội 
sinh 
Cùng với quy mô phát triển của hệ 
thống giáo dục đại học, chất lượng của 
công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học 
cũng không ngừng được nâng cao. Chính 
trong quá trình đào tạo và nghiên cứu 
khoa học, đội ngũ giảng viên và sinh viên 
các trường đại học đã và đang tạo ra một 
khối lượng tài liệu khoa học có giá trị, 
được gọi là nguồn thông tin nội sinh, do 
TV trường quản lí. Nguồn thông tin này 
phản ánh đầy đủ và có hệ thống tiềm lực 
khoa học của nhà trường. Nó bao gồm 
các luận văn, luận án, hệ thống chương 
trình, giáo trình, đề cương bài giảng, báo 
cáo kết quả nghiên cứu, các tham luận 
khoa học, kỉ yếu hội nghị, hội thảo và 
nhiều loại hình sinh hoạt học thuật khác. 
 Hoạt động tạo nguồn thông tin nội 
sinh là một hoạt động có kế hoạch, chịu 
sự quản lí trực tiếp của nhà trường. Kinh 
phí triển khai hoạt động này một phần do 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Quỳnh Chi 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 37
Nhà nước cấp, một phần do nguồn tự có 
của trường và các nguồn tài trợ khác. 
Điều này tạo điều kiện thuận lợi để mảng 
thông tin nội sinh phát triển mạnh mẽ, 
nhưng cũng đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ 
giữa các bộ phận, cá nhân trong trường 
đối với việc quản lí và sử dụng chúng. 
Những đơn vị cần có sự quan hệ chặt chẽ 
với TV là các khoa, các phòng ban (Đào 
tạo, Sau đại học, Khoa học Công nghệ, 
Tạp chí Khoa học), các đơn vị liên kết 
đào tạo trong nước và nước ngoài Để 
thông tin nội sinh được xây dựng một 
cách có hệ thống, việc nộp sản phẩm 
khoa học cho TV được nhiều trường thể 
chế hóa bằng những quy định cụ thể, 
ngay cả đối với những cán bộ đi học, đi 
tu nghiệp và hoàn thành công trình 
nghiên cứu ở nước ngoài. 
Nguồn lực thông tin nội sinh được 
các trường phổ biến dưới các hình thức 
khác nhau, như xuất bản phẩm, tin số hóa 
trên mạng. Với công nghệ thông tin, khả 
năng tích hợp các nguồn thông tin nội 
sinh với nhau và với các nguồn thông tin 
khác được thực hiện đồng bộ, và bằng 
cách đó mở rộng phạm vi tra cứu, cả về 
nguồn dữ liệu, cả về sự đa dạng của các 
ngành khoa học. Điều này còn đáp ứng 
yêu cầu của trường về việc sản sinh kiến 
thức mới từ kiến thức hiện có, cũng như 
chia sẻ chúng với các trường bạn và với 
cộng đồng. 
2.4. Liên kết và chia sẻ nguồn lực 
thông tin giữa các thư viện 
Trước đây, chất lượng của một TV 
được đánh giá chủ yếu trên số lượng 
sách, báo, tạp chí và các loại tài liệu khác 
mà TV sở hữu. Ngày nay, việc đánh giá 
không chỉ dựa trên vốn tài liệu mà còn 
coi trọng các dịch vụ thông tin thông qua 
mạng Internet, CD-ROM và khả năng 
chia sẻ thông tin của TV với các cơ quan 
thông tin khác. Vì vậy, việc liên kết 
nguồn lực thông tin giữa các TV nói 
chung và giữa các TV đại học nói riêng 
là xu hướng tất yếu để các TV có một 
tầm hoạt động lớn hơn. Sự phát triển của 
khoa học kĩ thuật và công nghệ thông tin 
đã đáp ứng nhu cầu trên bằng cách cho 
phép hình thành các hệ thống thông tin tự 
động, kết nối các TV trong nước và trên 
thế giới qua mạng nhằm chia sẻ tài 
nguyên của mình. Những hệ thống đó 
cũng là bước đầu của loại hình TV điện 
tử, một bước tiến quan trọng trong việc 
tự động hóa TV trong tương lai. 
Tuy nhiên, với hiện trạng của hệ 
thống TV Việt Nam, muốn kết nối các 
TV, những nhà quản lí phải giải quyết 
nhiều vấn đề, từ những vấn đề cơ bản 
mang tính pháp lí, đến những vấn đề 
mang tính nghiệp vụ và cả đến những vấn 
đề mang tính quyền lợi của các đơn vị 
chia sẻ thông tin. Song, dù khó khăn đến 
đâu cũng phải thấy rằng chia sẻ nguồn 
lực thông tin là giải pháp hữu hiệu để 
khắc phục tình trạng thiếu thông tin của 
các TV hoạt động riêng lẻ, đồng thời 
tránh được việc lãng phí ngân sách do sự 
trùng lắp tài liệu. Vì vậy, để đáp ứng nhu 
cầu ngày càng đa dạng của người dùng 
tin, các TV phải kiên trì theo đuổi xu 
hướng liên kết và chia sẻ tài nguyên. 
Hình thức liên kết có thể là cùng mua 
hoặc trao đổi cơ sở dữ liệu điện tử hay sử 
dụng dịch vụ mượn liên TV Một tiềm 
lực thông tin mạnh mẽ cùng với sự đa 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 59 năm 2014 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 38
dạng của loại hình thông tin chắc chắn sẽ 
đem đến cho người sử dụng một sự lựa 
chọn rộng lớn, và điều đó rất có ý nghĩa 
trong tình hình ngân sách của từng 
trường không thực sự dồi dào và không 
thể theo sát nhu cầu của người dùng tin. 
2.5. Tăng cường hoạt động tiếp thị 
(marketing) 
Ngày nay, mọi lĩnh vực của đời 
sống xã hội, trong đó có lĩnh vực thông 
tin TV, đều cần đến hoạt động tiếp thị 
như một công cụ cho phép đạt được mục 
tiêu mà tổ chức đề ra. Thực tế chứng 
minh rằng một sản phẩm có chất lượng 
tốt, nếu được tiếp thị tốt, sẽ mang lại hiệu 
quả sử dụng cao, và ngược lại. Hoạt động 
tiếp thị nguồn thông tin của TV được 
xem như phương cách có hiệu quả nhất 
trong việc giới thiệu đến bạn đọc những 
sản phẩm và dịch vụ có tại TV, cũng như 
khả năng đáp ứng của TV đối với nhu 
cầu của họ. 
Cho đến nay, các TV vẫn phải đối 
mặt với tình trạng vừa thiếu vừa thừa. 
Một mặt, giảng viên và sinh viên phàn 
nàn rằng họ không tìm thấy tài liệu cần 
thiết; mặt khác, nhiều cuốn sách, tạp chí, 
cơ sở dữ liệu điện tử có giá trị cao và rất 
đắt tiền lại được ít người sử dụng. 
Để thông tin được nhiều người biết 
đến và được sử dụng một cách có hiệu 
quả, tránh lãng phí trong việc mua sắm, 
đồng thời làm thay đổi phong cách làm 
việc của cán bộ TV, các TV đại học hiện 
nay rất coi trọng hoạt động tiếp thị, 
quảng bá. Hoạt động tiếp thị không chỉ là 
phổ biến nguồn lực thông tin, mà còn bao 
gồm việc giới thiệu cách sử dụng các 
nguồn lực đó, cách tìm kiếm và tạo lập 
các nguồn lực bên ngoài. Thay vì thụ 
động chờ bạn đọc tới TV, cán bộ TV chủ 
động xây dựng kế hoạch đến với bạn đọc, 
tạo môi trường thân thiện, thông thoáng, 
không chỉ bằng trình độ nghiệp vụ, mà 
còn bằng khả năng giao tiếp. Tuy các ứng 
dụng của công nghệ thông tin cho phép 
TV tiếp xúc với bạn đọc thông qua email, 
bản tin, thư mục thông báo tài liệu, diễn 
đàn trao đổi trên website, nhưng tiếp 
xúc trực tiếp với bạn đọc vẫn là phương 
án tối ưu trong việc thắt chặt mối quan hệ 
giữa TV và người sử dụng TV, tạo môi 
trường tương tác hiệu quả cho cả hai bên. 
3. Kết luận 
Ở thời điểm hiện tại, các TV đại 
học Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó 
khăn: sự gia tăng nhanh chóng của thông 
tin, sự gia tăng của nhu cầu thông tin, sự 
thay đổi thường xuyên về chính sách và 
quy mô đào tạo của trường đại học, sự 
hạn hẹp về tài chính của nhà trường trong 
việc mua sắm tài liệu, sự chậm trễ trong 
khả năng quản lí của TV so với yêu cầu 
phát triển của xã hội 
Tuy nhiên, những tiến bộ về khoa 
học công nghệ, nhất là công nghệ thông 
tin, cũng đang đem đến cho chúng ta 
nhiều giải pháp hữu hiệu, giúp chúng ta 
giảm bớt những hạn chế của tài liệu ở 
dạng truyền thống, phương cách phục vụ 
truyền thống và cách tiếp cận thông tin 
cũng mang tính truyền thống. Bên cạnh 
đó, làn sóng toàn cầu hóa buộc những 
nhà cung cấp thông tin, trên bình diện 
quốc gia hay quốc tế, liên kết với nhau để 
có một phạm vi hoạt động lớn hơn, một 
chất lượng công việc tốt hơn, và bằng 
cách đó khẳng định chắc chắn hơn vai trò 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Quỳnh Chi 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 39
của mình trong xã hội. Nắm bắt được 
thời cơ đó và tận dụng được những điều 
kiện thuận lợi hay không, điều đó không 
chỉ phụ thuộc vào sự năng động của 
những người làm công tác TV mà còn 
phụ thuộc rất nhiều vào cách thức quản 
lí, tầm nhìn của lãnh đạo trường chủ 
quản. 
Thực tế cho thấy, các TV đại học ở 
nước ta đã nhận được sự quan tâm đúng 
mức của nhà trường và đã có những thay 
đổi đáng kể theo yêu cầu của thời đại. 
Song, vì những lí do lịch sử và với một 
xuất phát điểm khiêm tốn, TV đại học 
Việt Nam còn nhiều việc phải làm, cả về 
mặt thể chế lẫn về mặt chuyên môn 
nghiệp vụ. Trong muôn vàn nhiệm vụ 
đang đặt ra trước mắt, 5 giải pháp nêu 
trên là những giải pháp cơ bản mà TV 
phải kiên trì theo đuổi để hoạt động 
nghiệp vụ của mình có thể đạt đến một 
tầm cao mới, không đơn thuần với vai trò 
của người phục vụ, mà còn với vai trò 
của người “hoa tiêu” trên đại dương 
thông tin. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Hữu Hùng (1995), “Vấn đề phát triển nguồn lực thông tin trong bối cảnh 
công nghệ thông tin mới”, Tạp chí Thông tin và tư liệu, (2), tr.11-14. 
2. Vũ Bích Ngân (2009), “Hướng đến một mô hình thư viện đại học hiện đại phục vụ 
chiến lược nâng cao chất lượng giáo dục đại học”, Tạp chí Thư viện Việt Nam, (1), 
tr.17-22. 
3. Nguyễn Hồng Sinh, Huỳnh Thị Mỹ Phương (2013), “Xây dựng nguồn tài liệu nội 
sinh trong trường đại học”, Tạp chí Thông tin và tư liệu, (4), tr.19–25. 
4. Trần Mạnh Tuấn (2010), “Dịch vụ thông tin tại các Trung tâm Học liệu: Hiện trạng 
và xu hướng phát triển”,  
5. Joseph Branin, Frances Groen, Suzanne Thorin (2002), “The Changing Nature of 
Collection Management in Research Libraries”, Library Resources and Technical 
Services, vol.44, pp.23-32. 
6. Robert D. Stueart, Barbara B. Moran (2007), “Library and information center 
management”, Libraries Unlimited, pp.463-467. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 05-02-2014; ngày phản biện đánh giá: 16-5-2014; 
ngày chấp nhận đăng: 17-6-2014) 

File đính kèm:

  • pdfxu_huong_quan_li_nguon_luc_thong_tin_o_thu_vien_dai_hoc_viet.pdf