Bài giảng Pháp luật đại cương - Nguyễn Hồng Ánh (Phần 1)

Tóm tắt Bài giảng Pháp luật đại cương - Nguyễn Hồng Ánh (Phần 1): ...duïng phaùp luaät laøm coâng cuï chuû yeáu nhaát. Giaû söû khoâng coù phaùp luaät thì nhaø nöôùc coi nhö khoâng coøn coâng cuï höõu hieäu ñeå quaûn lyù xaõ hoäi. Nhaø nöôùc coù quyeàn löïc nhaø nöôùc, nhöng nhaø nöôùc phaûi caàn ñeán phaùp luaät ñeå toå chöùc vaø thöïc hieän quyeàn löïc ñoù. Q...haùp luaät luoân laø söï bieåu hieän ñaày ñuû, chính xaùc vaø cuï theå nhaát cuûa phaùp luaät trong phaïm vi heïp nhaát. Noäi dung cuûa caùc quy phaïm phaùp luaät ñöôïc xaùc ñònh bôûi tính chaát caùc quan heä xaõ hoäi cuï theå maø caùc quy phaïm caàn ñieàu chænh. - Cheá ñònh phaùp luaät: ba...aát ñònh. Tuyø theo tính chaát cuûa töøng quan heä phaùp luaät hoaëc töøng nhoùm quan heä phaùp luaät maø ñoä tuoåi cuûa caù nhaân ñöôïc phaùp luaät quy ñònh ôû caùc möùc toái thieåu khaùc nhau. Ví duï ôû nöôùc ta, muoán tham gia vaøo quan heä hoân nhaân thì ngöôøi nam phaûi töøø 20 tuoåi trôû...

pdf75 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 429 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bài giảng Pháp luật đại cương - Nguyễn Hồng Ánh (Phần 1), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệm pháp lý đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Chủ thể này phải có năng lực 
trách nhiệm pháp lý để chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình (nếu không có 
năng lực trách nhiệm pháp lý thì không trở thành chủ thể của vi phạm pháp luật). 
Nếu chủ thể là cá nhân thì năng lực trách nhiệm pháp lý tuỳ thuộc vào độ tuổi do 
pháp luật quy định và cá nhân ấy phải có trí óc bình thường để có đủ nhận thức, điều 
khiển được hành vi của mình. Còn nếu chủ thể là tổ chức thì năng lực trách nhiệm pháp 
lý sẽ tuỳ thuộc vào tư cách pháp nhân hoặc địa vị pháp lý của tổ chức đó. Ở mỗi loại vi 
phạm pháp luật đều có cơ cấu chủ thể riêng, chúng ta sẽ nghiên cứu cụ thể thể hơn ở 
các chuyên ngành luật cụ thể trong Chương VIII. 
 68 
3.4. Khách thể vi phạm pháp luật 
Khách thể của vi phạm pháp luật là những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, 
nhưng đã bị hành vi vi phạm pháp luật xâm hại tới như: tính mạng, sức khoẻ, danh dự, 
nhân phẩm cá nhân, quyền sở hữu tài sản của nhà nước, của công dân, trật tự an toàn 
xã hội Ví dụ: hành vi trộm chiếc xe đạp của công dân A, đây là hành vi vi phạm pháp 
luật, hành vi đó đã xâm hại tới khách thể (quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ) là 
quyền sở hữu về tài sản của công dân A. 
Cần phân biệt khách thể của vi phạm pháp luật với đối tượng của hành vi vi 
phạm pháp luật. Trong ví dụ nêu trên thì đối tượng của hành vi vi phạm pháp luật là 
chiếc xe đạp của công dân A. 
Mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật phụ thuộc vào tính chất của khách 
thể. Những quan hệ xã hội khác nhau thì có tính chất và tầm quan trọng khác nhau, do 
vậy tính chất và tầm quan trọng của khách thể cũng là những yếu tố để xác định mức 
độ nguy hiểm của vi phạm pháp luật. Khách thể đã bị xâm hại càng quan trọng bao 
nhiêu thì hành vi vi phạm pháp luật càng thể hiện tính chất nghiêm trọng bấy nhiêu và 
trách nhiệm pháp lý cũng càng nặng bấy nhiêu. 
Những vấn đề về mặt khách quan, mặt chủ quan, chủ thể và khách thể của vi 
phạm pháp luật sẽ được làm rõ khi xem xét từng loại vi phạm pháp luật cụ thể. 
4. Phân loại vi phạm pháp luật 
Vi phạm pháp luật là một hiện tượng xã hội rất đa dạng. Bất cứ nhà nước nào cũng 
phải nghiên cứu sâu về các hiện tượng vi phạm pháp luật để có những biện pháp xử lý 
phù hợp và đấu tranh nhằm hạn chế, loại trừ vi phạm pháp luật một cách có hiệu quả. 
Dưới góc độ khoa học pháp lý, vi phạm pháp luật có thể được phân thành bốn loại sau: 
4.1. Vi phạm pháp luật hình sự (tội phạm): là hành vi vi phạm nguy hiểm cho xã 
hội được quy định trong bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực 
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh 
thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an 
ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, 
sức khoẻ, danh dự, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm 
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN. Những hành vi này còn gọi là 
tội phạm, đây là những hành vi vi phạm mang tính nguy hiểm lớn nhất cho xã hội, nó 
thường thể hiện mức độ nghiêm trọng hơn và gây ra những hậu quả lớn hơn so với 
những loại vi phạm pháp luật khác. Chủ thể của tội phạm chỉ là những cá nhân (không 
thể là tổ chức) có năng lực trách nhiệm pháp lý hình sự. 
4.2. Vi phạm pháp luật hành chính: là những hành vi do cá nhân, tổ chức thực 
hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà không phải 
là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Chủ thể 
của vi phạm pháp luật hành chính có thể là cá nhân và cũng có thể là tổ chức. 
 69 
4.3. Vi phạm pháp luật dân sự: là những hành vi trái pháp luật, có lỗi xâm hại tới 
những quan hệ tài sản và quan hệ nhân thân được pháp luật dân sự điều chỉnh. Chủ thể 
vi phạm pháp luật dân dự có thể là cá nhân và cũng có thể là tổ chức. 
4.4. Vi phạm kỷ luật: là những hành vi vi phạm vào những quy định trong nội quy, 
quy chế của các cơ quan, đơn vị, trường học gây thiệt hại cho hoạt động bình thường 
của các cơ quan, đơn vị, trường học đó. Chủ thể của vi phạm kỷ luật có thể là cá nhân 
và cũng có thể là tập thể, họ chỉ là cán bộ, công chức, người lao động, học sinh, sinh 
viên có quan hệ ràng buộc (phụ thuộc) với cơ quan, tổ chức, trường học nào đó. 
Vi phạm pháp luật là sự kiện pháp lý và là cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý 
đối với chủ thể đã có hành vi vi phạm đó. 
III. TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ 
1. Khái niệm và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý 
1.1. Khái niệm trách nhiệm pháp lý 
Thuật ngữ trách nhiệm có nhiều nghĩa khác nhau cả về tích cực và tiêu cực như: 
bổn phận, nghĩa vụ, chức trách, công việc được giao hay việc phải gánh chịu những hậu 
quả bất lợi về mặt vật chất, tinh thần do không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ quy 
định. Ở đây, ta sẽ nghiên cứu khái niệm trách nhiệm theo nghĩa tiêu cực, đó là những hậu 
quả pháp lý bất lợi mà nhà nước áp dụng đối với chủ thể đã có hành vi vi phạm pháp luật. 
Theo cách hiểu này, chúng ta có khái niệm: Trách nhiệm pháp lý là trách nhiệm 
của các chủ thể vi phạm pháp luật trước nhà nước, thể hiện ở mối quan hệ đặc biệt giữa 
Nhà nước với chủ thể vi phạm pháp luật, trong đó chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh 
chịu những hậu quả bất lợi và những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. 
Mọi hành vi vi phạm pháp luật dù ở mức độ khác nhau, nhưng chúng đều có 
điểm chung là đã phá vỡ trật tự xã hội, gây ra những thiệt hại về vật chất và tinh thần 
cho con người, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Do đó, việc truy 
cứu trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể đã vi phạm pháp luật là một yêu cầu khách 
quan của xã hội, nhằm đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật, giáo dục ý thức pháp 
luật cho mọi người, xác lập trật tự xã hội, bảo vệ lợi ích chung cho cộng đồng. 
1.2. Đặc điểm của trách nhiệm pháp lý 
Trách nhiệm pháp lý được xem xét trong mối quan hệ mật thiết giữa nhà nước 
với chủ thể vi phạm pháp luật và với hành vi vi phạm pháp luật, nó có một số đặc điểm 
cơ bản sau: 
- Cơ sở của trách nhiệm pháp lý là vi phạm pháp luật. Vì trách nhiệm pháp lý chỉ 
được áp dụng khi trong thực tế xẩy ra vi phạm pháp luật, do đó giữa vi phạm pháp luật 
và trách nhiệm pháp lý có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó vi phạm pháp luật 
là cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý. Đồng thời việc truy cứu trách nhiệm pháp lý 
là nhằm trừng phạt, răn đe đối với chủ thể đã vi phạm pháp luật và phòng ngừa chung 
đối với mọi người trong xã hội. 
 70 
- Việc truy cứu trách nhiệm pháp lý chỉ do các cơ quan nhà nước hay nhà chức 
trách có thẩm quyền (cơ quan quản lý nhà nước, Tòa án...) tiến hành đối với chủ thể vi 
phạm pháp luật. Nó thể hiện ở việc nhà nước (thông qua các cơ quan hay nhà chức 
trách có thẩm quyền) theo thủ tục, trình tự luật định yêu cầu chủ thể bị truy cứu trách 
nhiệm pháp lý phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi (về nhân thân, về tài sản, về 
tự do) đã được quy định trong bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật. 
- Trách nhiệm pháp lý luôn gắn liền với những biện pháp cưỡng chế nhà nước do 
cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng với chủ thể đã vi phạm pháp luật. Truy cứu 
trách nhiệm pháp lý về thực chất là áp dụng những biện pháp cưỡng chế nhà nước đã 
được quy định trong bộ phận chế tài của các quy phạm pháp luật đối với các chủ thể vi 
phạm pháp luật. Tuy nhiên, bản thân trách nhiệm pháp lý không phải là sự cưỡng chế 
nhà nước mà chỉ là nghĩa vụ phải gánh chịu những biện pháp cưỡng chế nhà nước do 
pháp luật quy định. Chủ thể vi phạm pháp luật bị nhà nước áp dụng những biện pháp 
cưỡng chế được quy định ở trong bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật. Như vậy, về 
nội dung thì trách nhiệm pháp lý là sự áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước đối 
với chủ thể vi phạm pháp luật, còn về hình thức thì đó là việc nhà nước tổ chức cho các 
chủ thể vi phạm pháp luật thực hiện bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật. 
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là có một số biện pháp cưỡng chế được nhà nước áp 
dụng không liên quan gì tới trách nhiệm pháp lý, nghĩa là nó được áp dụng cả khi không 
xẩy ra vi phạm pháp luật. Chẵng hạn nhà nước có thể áp dụng biện pháp cưỡng chế 
nhằm cách ly một số người mắc một số bệnh truyền nhiễm; nhà nước có thể áp dụng 
biện pháp trưng mua, trưng dụng một số tài sản nào đó khi thấy cần thiết vì lợi ích của 
quốc gia 
- Truy cứu trách nhiệm pháp lý là một quá trình hoạt động phức tạp của các cơ 
quan nhà nước, các nhà chức trách có thẩm quyền trong việc xem xét, tìm hiểu sự việc 
bị coi là vi phạm pháp luật, ra quyết định giải quyết vụ việc và tổ chức thực hiện quyết 
định đó. Trách nhiệm pháp lý hình thành dựa trên các quyết định của cơ quan nhà nước 
có thẩm quyền, từ các quyết định này mới chính thức xác định hành vi nào là vi phạm 
pháp luật và áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với chủ thể vi phạm pháp luật đó. 
Sỡ dĩ nhà nước áp dụng trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể vi phạm pháp 
luật là vì: Thứ nhất, các chủ thể pháp luật (trong trạng thái bình thường) luôn hoạt động 
có lý trí và có tự do ý chí, nghĩa là họ có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi 
của mình và có đủ điều kiện để tự lựa chọn cho mình những cách xử sự khác nhau trong 
một hoàn cảnh điều kiện nhất định; Thứ hai, trong quy phạm pháp luật nhà nước đã đưa 
ra trước những cách xử sự có tính khuôn mẫu mà các chủ thể buộc phải lựa chọn cho 
mình cách xử sự phù hợp từ những cách xử sự mà trong quy phạm pháp luật đã nêu ra. 
Nếu chủ thể không thực hiện đúng những mệnh lệnh của nhà nước, vi phạm pháp luật 
thì chủ thể phải chịu trách nhiệm về việc làm của mình, phải gánh chịu trách nhiệm 
pháp lý. 
 71 
2. Căn cứ để truy cứu trách nhiệm pháp lý 
Muốn xác định cũng như áp dụng trách nhiệm pháp lý cho bất cứ chủ thể vi 
phạm pháp luật nào, đòi hỏi chúng ta phải xác định được những căn cứ, dựa trên cơ sở 
những căn cứ đó mới truy cứu trách nhiệm pháp lý, buộc chủ thể có nghĩa vụ phải gánh 
chịu những biện pháp cưỡng chế đối với hành vi vi phạm pháp luật của mình. 
2.1 Vi phạm pháp luật là cơ sở để truy cứu trách nhiệm pháp ly ù. Do vậy, để truy 
cứu trách nhiệm pháp lý cần phải xác định được cấu thành vi phạm pháp luật và thời 
hiệu truy cứu đối với trường hợp cụ thể đó. Khi xác định cấu thành vi phạm pháp luật 
điều đầu tiên phải tiến hành là xác định được trong thực tế đã xảy ra hành vi trái pháp 
luật nguy hiểm. Để xác định có vi phạm pháp luật xảy ra hay không, thì cần phải xác 
định được những yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật đó (bao gồm: chủ thể, khách 
thể, mặt chủ quan, mặt khách quan của vi phạm pháp luật) để khẳng định đó là loại vi 
phạm pháp luật trong lĩnh vực nào, từ đó mới xác định được trách nhiệm pháp lý. 
Tiếp đến là cần phải đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật đó 
thông qua việc xác định sự thiệt hại của xã hội về vật chất, về tinh thần và những thiệt 
hại khác nếu có do hành vi đó gây ra. Trong một số trường hợp mức độ nguy hiểm của 
hành vi còn là căn cứ để xác định loại trách nhiệm pháp lý cần truy cứu. Chẳng hạn, 
căn cứ vào mức độ thương tích của người bị hại mà quyết định truy cứu trách nhiệm 
hình sự hay trách nhiệm hành chính. Cần làm rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi với 
hậu quả, tuyệt đối không được suy diễn về hậu quả, nghĩa là phải xác định một cách 
chắc chắn rằng sự thiệt hại của xã hội là do chính hành vi trái pháp luật đó trực tiếp gây 
ra. Không thể bắt chủ thể thực hiện hành vi trái pháp luật phải chịu trách nhiệm về 
những thiệt hại mà hành vi trái pháp luật của họ không trực tiếp gây ra (giữa hành vi 
trái pháp luật của họ và sự thiệt hại của xã hội không có mối quan hệ nhân quả). 
Bên cạnh đó, để cải tạo, giáo dục chủ thể vi phạm pháp luật có hiệu quả khi truy 
cứu trách nhiệm pháp lý cần phải xác định thời gian, địa điểm và cách thức mà chủ thể 
thực hiện vi phạm pháp luật. Khi xác định được những điều nói trên thì việc lựa chọn 
biện pháp cưỡng chế mới chính xác, phù hợp với mục đích cần truy cứu trách nhiệm 
pháp lý và đạt được hiệu quả cao trong việc cải tạo, giáo dục chủ thể vi phạm pháp luật. 
Việc xác định lỗi, động cơ và mục đích vi phạm trong nhiều trường hợp khi truy cứu 
trách nhiệm pháp lý là rất cần thiết, nó cho phép lựa chọn biện pháp cưỡng chế phù hợp. 
Ngoài việc xác định các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật còn phải xem xét 
thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với trường hợp vi phạm cụ thể đó và những 
trường hợp được miễn trách nhiệm pháp lý khi tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lý. 
2.2 Thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý: 
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý là thời hạn do pháp luật quy định mà khi 
thời hạn đó kết thúc thì chủ thể vi phạm pháp luật sẽ không bị truy cứu trách nhiệm 
 72 
pháp lý nữa. (Thời hạn là một khoảng thời gian được xác định từ thời điểm này đến thời 
điểm khác. Khoảng thời gian đó có thể tính bằng giờ, ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng 
một sự kiện nào đó). Thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý được tính từ thời điểm vi 
phạm pháp luật được thực hiện. Đối với các loại vi phạm pháp luật khác nhau thì thời 
hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý cũng được quy định khác nhau, trong đó có cả những 
vi phạm pháp luật không được áp dụng thời hiệu. Pháp luật của nhiều nước không áp 
dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với một số loại vi phạm pháp luật quá 
nguy hiểm gây thiệt hại lớn cho xã hội. Ví dụ: Bộ luật hình sự Việt Nam quy định 
không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một số tội xâm phạm an 
ninh quốc gia; các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh. 
Pháp luật quy định cũng có thể miễn trách nhiệm pháp lý cho một số chủ thể 
trong những trường hợp nhất định. Trách nhiệm pháp lý sẽ chấm dứt khi xẩy ra sự kiện 
pháp lý thích ứng như có quyết định ân xá, đặc xá; thời hạn trừng phạt đã kết thúc; nộp 
phạt xong 
3. Phân loại trách nhiệm pháp lý 
Hiện tượng vi phạm pháp luật trong đời sống xã hội rất đa dạng, chúng được chia 
thành những loại vi phạm pháp luật khác nhau. Do đó, việc áp dụng trách nhiệm pháp 
lý đối với các loại vi phạm pháp luật cũng bao gồm nhiều loại khác nhau. Thông thường 
chúng được chia thành bốn loại sau: 
3.1. Trách nhiệm pháp lý hình sự 
Trách nhiệm pháp lý hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất do 
Tòa án áp dụng đối với những người đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự 
(hành vi phạm tội). Trách nhiệm pháp lý hình sự chỉ áp dụng đối với chủ thể là cá nhân 
khi họ phạm tội. Người phạm tội bị nhà nước áp dụng những biện pháp cưỡng chế được 
quy định ở trong bộ phận chế tài của quy phạm pháp luật hình sự (hay còn được gọi là 
hình phạt, được quy định trong Bộ luật hình sự). 
Theo quy định tại Điều 28 Bộ luật hình sự năm 1999 thì hệ thống hình phạt bao 
gồm các loại sau: Các hình phạt chính là: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục 
xuất, tù có thời hạn, tù chung thân và tử hình. Ngoài ra còn có các hình phạt bổ sung. 
3.2. Trách nhiệm pháp lý hành chính 
Trách nhiệm pháp lý hành chính là loại trách nhiệm pháp lý do cơ quan quản lý 
nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với chủ thể đã vi phạm pháp luật hành chính. 
Phạm vi áp dụng trách nhiệm hành chính rộng hơn so với trách nhiệm hình sự, nhưng 
tính chất của chế tài hành chính ít nghiêm khắc hơn so với trách nhiệm hình sự. Chế tài 
hành chính thể hiện ở những biện pháp như: cảnh cáo, phạt tiền, tịch thu giấy phép, 
công cụ, phương tiện vi phạm, buộc tháo dỡ, khôi phục lại tình trạng ban đầu 
 73 
3.3. Trách nhiệm pháp lý dân sự 
Trách nhiệm pháp lý dân sự là loại trách nhiệm pháp lý do Tòa án áp dụng đối 
với chủ thể vi phạm pháp luật dân sự. Chế tài trách nhiệm dân sự chủ yếu là về tài sản 
như: bồi thường thiệt hại về tài sản, nhằm khôi phục lại quyền lợi ban đầu cho chủ thể 
đã bị xâm phạm, cải chính công khai 
3.4. Trách nhiệm kỷ luật và trách nhiệm vật chất 
Trách nhiệm kỷ luật là loại trách nhiệm pháp lý do thủ trưởng cơ quan, tổ chức, 
đơn vị, trường học, bệnh viện áp dụng đối với cán bộ, nhân viên, học sinh, sinh viên, 
người lao động đã vi phạm vào nội quy, quy chế, kỷ luật của cơ quan, đơn vị, trường 
học đó. Ngoài trách nhiệm kỷ luật, người vi phạm nếu gây thiệt hại về tài sản của cơ 
quan, tổ chức còn có thể bị áp dụng trách nhiệm vật chất. 
Trách nhiệm vật chất là loại trách nhiệm pháp lý do các cơ quan, tổ chức, đơn 
vị áp dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức, công nhân của cơ quan, tổ chức, đơn 
vị ấy trong trường hợp họ gây thiệt hại về tài sản cho cơ quan, tổ chức, đơn vị 
Qua việc phân loại trách nhiệm pháp lý nêu trên, cần lưu ý là có thể đồng thời 
áp dụng nhiều loại trách nhiệm pháp lý cho một chủ thể đã vi phạm pháp luật, bởi vì 
hành vi vi phạm pháp luật của chủ thể ấy đã vi phạm vào nhiều quy định khác nhau. 
Tuy nhiên không thể áp dụng đồng thời trách nhiệm pháp lý hình sự và trách nhiệm 
pháp lý hành chính cho một hành vi vi phạm pháp luật. 

File đính kèm:

  • pdfbai_giang_phap_luat_dai_cuong_nguyen_hong_anh_phan_1.pdf