Đặc thù trong giải quyết tranh chấp thuế bằng thủ tục khiếu nại ở Việt Nam

Tóm tắt Đặc thù trong giải quyết tranh chấp thuế bằng thủ tục khiếu nại ở Việt Nam: ...khiếu nại và làm các yêu cầu liên quan đến thủ tục khiếu nại. Nội dung công việc ủy quyền theo Hợp đồng ủy quyền được ký kết giữa người nộp thuế và tổ chức hoặc cá nhân nhận ủy quyền. 3.2.2. Nội dung khiếu nại thuế Đối tượng của khiếu nại về thuế là: (i) Nội dung quyết định của cơ quan... Hệ thống cơ quan thuế được tổ chức từ trung ương đến địa phương bao gồm Tổng Cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính, Cục thuế tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương và các chi cục thuế thuộc quận, huyện. Các cơ quan thuế được giao quyền quản lý thuế đối với các đối tượng nộp thuế. Theo đó, qu...ờng hợp không thụ lý giải quyết phải nêu rõ lý do (Điều 27 Luật KN). Người nộp thuế được bảo đảm giải quyết khiếu nại trong một thời hạn nhất định tùy thuộc vào tính phức tạp của vụ việc, lần khiếu nại, địa điểm tranh chấp thuế. Cụ thể là: theo Luật Khiếu nại, thời hạn giải quyết khiếu n...

pdf12 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 230 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đặc thù trong giải quyết tranh chấp thuế bằng thủ tục khiếu nại ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 hồ sơ báo cáo Chủ tịch 
tỉnh, thành phố ra quyết định xử phạt7. 
Với việc qui định thẩm quyền xử phạt trên 
đây, người nộp thuế khi bị xử phạt mà không 
đồng ý với quyết định xử phạt sẽ trực tiếp khiếu 
nại đến cơ quan ra quyết định xử phạt. 
3.3.2. Cơ quan thuế 
Hệ thống cơ quan thuế được tổ chức từ 
trung ương đến địa phương bao gồm Tổng Cục 
Thuế trực thuộc Bộ Tài chính, Cục thuế tỉnh 
thành phố trực thuộc Trung ương và các chi cục 
thuế thuộc quận, huyện. Các cơ quan thuế được 
giao quyền quản lý thuế đối với các đối tượng 
nộp thuế. Theo đó, quyết định thu thuế do các 
Cơ quan thuế ban hành do người đứng đầu ký 
tên hoặc ủy quyền ký tên. Khiếu nại việc ra 
quyết định thu thuế đối với Cơ quan thuế có 
thẩm quyền cũng chính là khiếu nại người có 
thẩm quyền ra quyết định thu thuế. 
Quyền xử phạt của cơ quan thuế được tiến 
hành bởi (i) công chức Thuế đang thi hành công 
vụ; Đội trưởng Đội Thuế; Chi cục trưởng Chi 
cục Thuế; Cục trưởng Cục Thuế; Tổng cục 
trưởng Tổng cục Thuế (Điều 44 Luật Xử lý vi 
phạm hành chính). 
Thẩm quyển của cơ quan giải quyết khiếu 
nại thuế được phân định theo phạm vi quản lý 
thuế. Cụ thể là: 
(1) Chi cục trưởng Chi cục thuế có thẩm 
quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định 
_______ 
7
 Nghị định số 127/2013/NĐ-CP ngày 15/10/2013 
của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính 
và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính trong 
lĩnh vực Hải quan. 
N.T.L. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 1 (2015) 11-22 17 
hành chính, hành vi hành chính của mình, của 
người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp. 
(2) Cục trưởng Cục thuế có thẩm quyền: (i) 
Giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành 
chính, hành vi hành chính của chính mình; của 
người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp và 
(ii) giải quyết khiếu nại mà Chi cục trưởng Chi 
cục thuế đã giải quyết nhưng còn có khiếu nại. 
(3) Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế có 
thẩm quyền: (i) Giải quyết khiếu nại đối với 
quyết định hành chính, hành vi hành chính của 
chính mình; của người có trách nhiệm do mình 
quản lý trực tiếp và (ii) Giải quyết khiếu nại mà 
Cục trưởng Cục thuế đã giải quyết lần đầu 
nhưng còn có khiếu nại. 
(4) Bộ trưởng Bộ Tài chính có thẩm quyền: 
(i) Giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành 
chính, hành vi hành chính của chính mình; của 
người có trách nhiệm do mình quản lý trực 
tiếp8; và (ii) giải quyết khiếu nại mà Tổng cục 
Trưởng Tổng cục Thuế đã giải quyết lần đầu 
nhưng còn khiếu nại9. 
Như vậy theo qui định trên, việc xác định 
thẩm quyền giải quyết khiếu nại theo nguyên 
tắc giải quyết khiếu nại lần đầu tại cơ quan 
quyết định thu thuế, xử phạt, còn giải quyết 
khiếu nại lần hai tại cơ quan có thẩm quyền cấp 
trên. Căn cứ vào thời hiệu khiếu nại, thời hạn 
thụ lý, thời hạn giải quyết khiếu nại, người nộp 
thuế thực hiện quyền khiếu nại yêu cầu cơ quan 
có thẩm quyền quyết định thu thuế, xử phạt 
xem xét lại quyết định đã ban hành. 
_______ 
8
 Thanh tra Bộ Tài chính là cơ quan thuộc Bộ Tài chính 
có thẩm quyền xử phạt, theo đó người ra quyết định xử 
phạt là Chánh thanh tra là chủ thể bị khiếu nại. 
9
 Điều 59 Thông tư 28/2008/TT-BTC ngày 
28/2/2011 hướng dẫn thi hành một số điều của Luật 
quản lý thuế, hướng dẫn thi hành Nghị định 
85/2007/nĐ-CP ngày 25/5/2007 và Nghị định 
106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010. 
3.4. Các hành vi vi phạm của Cơ quan có thẩm 
quyền thu thuế, xử phạt bị khiếu nại 
So với giải quyết bằng thủ tục tố tụng tại 
tòa án10, giải quyết khiếu nại đơn giản hơn 
nhiều. Cơ quan ra quyết định xem lại căn cứ ra 
quyết định để xác định đúng hay sai trong nội 
dung khiếu nại của người nộp thuế. Tuy nhiên, 
việc xử lý này không được thực hiện bởi một cơ 
quan độc lập nên không thể phủ nhận kết quả 
thông thường trong khiếu nại thuế là cơ quan 
giải quyết khiếu nại giữ nguyên quan điểm 
trong quyết định thu thuế hoặc xử phạt. 
Trong trường hợp kết quả giải quyết khiếu 
nại lần đầu là giữ nguyên quyết định thu thuế 
hoặc xử phạt thì người nộp thuế có quyền khiếu 
nại lần hai lên cơ quan cấp trên. Hoặc lựa chọn 
khởi kiện ra tòa án hành chính11. 
Tùy thuộc vào nội dung khiếu nại, cơ quan 
tiếp nhận khiếu nại phải xem xét nội dung khiếu 
nại và trả lời trong thời hạn pháp luật qui định. 
Theo kinh nghiệm của Cục Thuế thành phố Hồ 
Chí Minh, các vụ khiếu nại xoay quanh các nội 
dung: (i) Thiếu căn cứ ấn định thuế, truy thu 
thuế, xử phạt vi phạm; (ii) Hết thời hiệu truy 
thu, phạt; (iii) Không tuân thủ thời hạn theo qui 
định về thanh tra, kiểm tra, ban hành quyết định 
thanh tra, kiểm tra không đúng thẩm quyền; (iv) 
Lỗi trong qui trình thanh tra, kiểm tra như lập 
biên bản kiểm tra, biên bản thanh tra; (v) 
_______ 
10
 Việc giải quyết tranh chấp tại tòa án ngoài tham 
gia của thẩm phán, hội thẩm nhân dân, còn có sự 
tham gia của kiểm sát viên, và việc thu thập chứng 
cứ tuân theo các trình tự thủ tục Luật định với thời 
hạn giải quyết dài hơn giải quyết khiếu nại. 
11
 Luật Tố tụng hành chính 2010 qui định quyền 
quyết định và tự định đoạt khởi kiện của tổ chức và 
cá nhân (Điều 7), ngoài ra, cho phép người khởi kiện 
lựa chọn khởi kiện vụ án hành chính tại tòa án hoặc 
khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu 
nại khi cùng một lúc có đơn khiếu nại và vừa có đơn 
khởi kiện (Điều 31). 
N.T.L. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 1 (2015) 11-22 
18 
Không tống đạt hoặc tống đạt không hợp lệ các 
văn bản liên quan đến thanh tra, kiểm tra ; (vi) 
Ban hành quyết định xử phạt các nội dung 
thanh tra, kiểm tra vượt phạm vi cho phép ; (vii) 
Quyết định xử phạt không đúng đối tượng 
nhầm lẫn giữa pháp nhân và cá nhân [4]. 
Với lý do tranh chấp kể trên, có thể thấy 
rằng khi cơ quan ra quyết định thu thuế và xử 
phạt chưa tuân thủ qui định pháp luật về căn cứ 
thu thuế, thẩm quyền, trình tự thủ tục kiểm tra, 
thanh tra và xử phạt. Trong những trường hợp 
này cần xác định trách nhiệm của những người 
có thẩm quyền, và buộc họ phải khắc phục hậu 
quả gây ra cho người nộp thuế. Ngoài ra, cơ 
quan giải quyết khiếu nại, xử phạt cần có biện 
pháp kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ để hạn 
chế tình trạng bất cập trong quá trình quyết định 
thu thuế và xử phạt dẫn đến khiếu nại. 
3.5. Qui định quyền và nghĩa vụ của người 
khiếu nại thuế 
- Quyền được khiếu nại hai cấp: trong 
khiếu nại hành chính, người nộp thuế được bảo 
vệ trước hành vi của cơ quan quyết định thu 
thuế và quyết định xử phạt. Người nộp thuế có 
thể khiếu nại lần hai khi khiếu nại lần đầu 
không được giải quyết. 
Thủ tục khiếu nại hai cấp hỗ trợ cho 
người nộp thuế có thể khiếu nại lên cấp trên 
của cơ quan giải quyết khiếu nại lần đầu 
trong trường hợp người nộp thuế không đồng 
ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu. 
Theo Luật KN, người khiếu nại được bảo đảm 
được thụ lý đơn giải quyết khiếu nại lần hai 
(Điều 36 Luật KN). 
Quyền khiếu nại hai cấp theo trình tự, thủ 
tục Luật định giúp cho người nộp thuế có thể 
được xem xét lại nhanh chóng yêu cầu của 
mình trong thời hạn ngắn hơn so với khởi kiện 
theo thủ tục tố tụng tại Tòa án hành chính. Tuy 
nhiên, việc thực hiện quyền này không được 
bảo đảm sự khách quan trong việc xem xét 
khiếu nại bởi khiếu nại lần một do chính cơ 
quan có thẩm quyền thu thuế hoặc xử phạt giải 
quyết. Còn khi khiếu nại lần hai lên cơ quan 
cấp trên của cơ quan giải quyết khiếu nại lần 
một thì có thể bảo đảm tính khách quan hơn do 
cơ quan này không phải là cơ quan trực tiếp ra 
quyết định thu thuế hoặc xử phạt. Việc khiếu 
nại lần hai chỉ mang lại kết quả có lợi cho 
người nộp thuế khi Cơ quan giải quyết khiếu 
nại lần hai chứng minh được việc ra quyết định 
thu thuế hoặc xử phạt thuộc đối tượng bị khiếu 
nại chưa đủ căn cứ, trái với qui định của pháp 
luật hoặc không tuân thủ trình tự, thủ tục theo 
Luật Quản lý thuế. 
- Quyền được giải quyết trong thời hạn 
Luật định 
Thông thường, sau khi tiếp nhận đơn khiếu 
nại lần đầu, trong thời hạn 10 ngày, người có 
thẩm quyền giải quyết khiếu nại phải thụ lý giải 
quyết và thông báo bằng văn bản cho người 
khiếu nại12, trường hợp không thụ lý giải quyết 
phải nêu rõ lý do (Điều 27 Luật KN). 
Người nộp thuế được bảo đảm giải quyết 
khiếu nại trong một thời hạn nhất định tùy 
thuộc vào tính phức tạp của vụ việc, lần khiếu 
nại, địa điểm tranh chấp thuế. Cụ thể là: theo 
Luật Khiếu nại, thời hạn giải quyết khiếu nại 
lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý; 
đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết 
có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, 
kể từ ngày thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa đi lại 
khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại 
không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với 
vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể 
kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ 
ngày thụ lý (Điều 28). 
_______ 
12
 Không thuộc một trong các trường hợp không 
được thụ lý giải quyết được quy định tại Điều 11 của 
Luật KN. 
N.T.L. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 1 (2015) 11-22 19 
Cũng như khiếu nại lần đầu, khiếu nại lần 
hai được bảo đảm giải quyết trong thời hạn nhất 
định. Thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai 
không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với 
vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu 
nại có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 
ngày, kể từ ngày thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa đi 
lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại 
không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với 
vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu 
nại có thể kéo dài hơn, nhưng không quá 70 
ngày, kể từ ngày thụ lý (Điều 37). 
- Quyền được tiếp cận thông tin về giải 
quyết khiếu nại 
Quyền được tiếp cận thông tin giải quyết 
khiếu nại là căn cứ để người nộp thuế thực hiện 
quyền khiếu nại lần hai hoặc khởi kiện. Sau khi 
cơ quan có thẩm quyền thu ra quyết định thu 
thuế hoặc xử phạt, quyết định phải gửi đến 
người có nghĩa vụ nộp thuế. Nội dung thông 
báo liên quan đến kết quả giải quyết khiếu nại 
với nội dung giữ nguyên quyết định thuế, xử 
phạt, sửa đổi một phần hoặc sửa đổi toàn bộ. 
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ 
ngày có quyết định giải quyết khiếu nại, người 
giải quyết khiếu nại lần đầu có trách nhiệm gửi 
quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu 
nại (Điều 32 Luật KN). 
- Bảo đảm lợi ích của vật chất của người 
nộp thuế 
Khi có sự bất đồng với quyết định thu thuế 
hoặc xử phạt, người nộp thuế vẫn phải thực 
hiện nghĩa vụ nộp thuế song hành cùng với thực 
hiện quyền khiếu nại. Nội dung này được ghi 
nhận trong Luật Quản lý thuế 2006 (Luật QLT) 
về trách nhiệm của người nộp thuế trong việc 
nộp số thuế ấn định: “Người nộp thuế phải nộp 
số thuế ấn định theo thông báo của cơ quan 
quản lý thuế. Trường hợp không đồng ý với số 
thuế do cơ quan quản lý thuế ấn định thì người 
nộp thuế vẫn phải nộp số thuế đó, đồng thời có 
quyền yêu cầu cơ quan quản lý thuế giải thích 
hoặc khiếu nại, khởi kiện về việc ấn định thuế” 
(Điều 41). 
Khi có quyết định giải quyết khiếu nại, cơ 
quan quản lý thuế phải hoàn trả số tiền thuế, số 
tiền phạt thu không đúng cho người nộp thuế, 
bên thứ ba trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ 
ngày nhận được quyết định xử lý của cơ quan 
quản lý thuế cấp trên hoặc cơ quan có thẩm 
quyền theo quy định của pháp luật (Điều 118 
Luật QLT). 
Có nghĩa là, đối với khiếu nại thuế, trong 
trường hợp cơ quan giải quyết khiếu nại giải 
quyết nhanh chóng sẽ bảo đảm quyền lợi vật 
chất cho người nộp thuế. Trong trường hợp việc 
khiếu nại đúng, người nộp thuế sẽ không bị kéo 
dài thời hạn phải tạm nộp tiền thuế, tiền phạt, 
hoặc bớt thời gian và chi phí cho khiếu nại lần 
hai hoặc khởi kiện. 
4. Những vấn đề rút ra từ nghiên cứu 
4.1. Cần có hướng dẫn riêng về thời hạn giải 
quyết khiếu nại thuế 
Như trên đã đề cập, do cơ quan giải quyết 
khiếu nại lần một đồng thời là cơ quan thu thuế 
hoặc xử phạt nên kết quả giải quyết khiếu nại 
thường giữ nguyên quyết định thu thuế hoặc xử 
phạt, trong khi đó người nộp thuế có bất đồng 
vẫn phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, nộp phạt 
theo qui định. Hiện nay, việc giải quyết khiếu 
nại thuế mặc dù dựa trên các Luật thuế và Luật 
Quản lý thuế nhưng do tình trạng “luật khung” 
nên việc áp dụng đều phải có văn bản qui định 
chi tiết của Chính phủ, hướng dẫn của Bộ tài 
chính và Tổng Cục thuế. Với tình trạng này, có 
thể nói việc cơ quan có thẩm quyền thu thuế 
cấp trên bác quyết định của Cơ quan cấp dưới ít 
N.T.L. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 1 (2015) 11-22 
20 
xảy ra hơn do có cùng quan điểm đánh thuế. 
Trong khi Luật Khiếu nại qui định: “Hết thời 
hạn giải quyết khiếu nại quy định tại Điều 37 
của Luật Khiếu nại13 mà khiếu nại không được 
giải quyết hoặc người khiếu nại không đồng ý 
với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai thì 
có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án 
theo quy định của Luật Tố tụng hành chính 
(Điều 42). Với qui định trên đây, nếu người nộp 
thuế tuân thủ các thủ tục khiếu nại theo hai cấp 
sau đó mới khởi kiện ra tòa sẽ gây tốn kém về 
chi phí cho người nộp thuế. Với những đặc thù 
về đối tượng tranh chấp thuế qui định rút ngắn 
thời hạn giải quyết khiếu nại của Cơ quan thuế 
và Cơ quan Hải quan. 
4.2. Xử lý trách nhiệm của cơ quan và người có 
thẩm quyền thu thuế 
Trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền 
thu thuế suy cho cùng là trách nhiệm của người 
có chức vụ cụ thể. Quá trình ra quyết định thu 
thuế, xử phạt là quá trình áp dụng các qui định 
pháp luật thuế trong một vụ việc cụ thể. Cơ 
quan và cán bộ có thẩm quyền quyết định hành 
chính và hành vi hành chính là người thi hành 
công vụ theo ủy quyền của Nhà nước nên việc 
áp dụng sai pháp luật xảy ra không chỉ gây thiệt 
hại cho người nộp thuế mà còn gây thiệt hại cho 
cả Nhà nước để hoàn tất việc xử lý khiếu nại. 
Từ thực trạng không ít vụ việc khiếu nại lần đầu 
và khiếu nại lần hai không làm thay đổi quyết 
định thu thuế, xử phạt nên nhiều doanh nghiệp 
_______ 
13
 Theo Luật Khiếu nại, thời hạn giải quyết khiếu nại 
lần hai không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với 
vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết khiếu nại có 
thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ 
ngày thụ lý.Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì 
thời hạn giải quyết khiếu nại không quá 60 ngày, kể 
từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn 
giải quyết khiếu nại có thể kéo dài hơn, nhưng 
không quá 70 ngày, kể từ ngày thụ lý (Điều 37). 
phải kiện ra tòa và kết quả là doanh nghiệp đã 
thắng kiện14 [5], có thể thấy rằng cần làm rõ 
trách nhiệm của các chủ thể liên quan trong quá 
trình ra quyết định thu thuế, xử phạt và giải 
quyết khiếu nại khi các quyết định này bị tòa án 
tuyên hủy. Để hạn chế tình trạng này pháp luật 
cần qui định rõ trách nhiệm vật chất đối với 
người có thẩm quyền thực hiện hành vi hành 
chính và người đứng đầu tổ chức thu thuế khi 
quyết định thu thuế, xử phạt thiếu căn cứ, 
không tuân thủ trình tự, thủ tục theo Luật Quản 
lý thuế dẫn đến khiếu nại. Đây là cơ sở để nâng 
cao trách nhiệm trong quản lý thu thuế, bảo 
đảm quyền của người nộp thuế và hơn thế nữa 
bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật của 
người nộp thuế. 
4.3. Hoàn thiện pháp luật nhằm hạn chế nguyên 
nhân dẫn đến tranh chấp 
Trên thực tế, rất nhiều vụ việc tranh chấp 
liên quan đến việc hướng dẫn thi hành pháp 
luật, chẳng hạn như thời hạn hưởng ưu đãi, đối 
tượng chịu thuế, phương pháp tính thuế 
Trong nhiều vụ tranh chấp, giá trị tranh chấp rất 
lớn có khi lên tới hàng chục, hàng trăm tỉ đồng. 
Tòa án hành chính có thể là chủ thể giúp người 
nộp thuế bảo vệ quyền lợi của mình trước Cơ 
quan thu thuế hoặc xử phạt. Nhìn chung, các 
phán quyết của Tòa án thể hiện tính khách quan 
hơn bởi trình tự, thủ tục tố tụng tại tòa án, ngoài 
ra, Tòa án cũng có vị trí trung lập trong xác 
định nội dung tranh chấp và xem xét tính phù 
_______ 
14
 Vụ kiện của Công ty cổ phần dịch vụ Phú Nhuận 
(MASECO) đối với Chánh Thanh tra của Bộ Tài 
chính về xử phạt truy thu thuế 7,17 tỉ đồng. Ngày 
11/3/2014 Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh 
đã tuyên Công ty MASECO thắng kiện. Trong vụ 
việc này, MASECO đã phải trả 7,17 tỉ đồng tiền 
thuế thu nhập doanh nghiệp bị truy thu tại thời điểm 
có quyết định truy thu và sau khi Tòa tuyên Thanh 
tra Bộ Tài chính phải hủy quyết định truy thu và trả 
lại cho doanh nghiệp 7,17 tỉ đồng. 
N.T.L. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 1 (2015) 11-22 21 
hợp của văn bản hướng dẫn so với văn bản 
pháp luật cao hơn. Từ những phán quyết của 
tòa án, cơ quan có thẩm quyền qui định chi tiết 
và hướng dẫn thi hành cần phải tiếp thu để hoàn 
thiện pháp luật thuế. Khi Luật nội dung hoàn 
thiện chắc chắn sẽ giảm bớt những vụ khiếu nại 
thuế cũng như các vụ khiếu kiện tại Tòa án. Để 
làm được điều này, cần có đội ngũ các chuyên 
gia tinh thông về kiến thức pháp lý, chuyên 
môn về thuế để chuẩn hóa các qui phạm pháp 
luật trong văn bản có hiệu lực cao làm cơ sở 
thống nhất áp dụng pháp luật. Ngoài ra, cần 
phải hạn chế tối đa tình trạng các qui định của 
pháp luật thuế trái với các nguyên tắc đánh 
thuế. 
5. Kết luận 
Có thể nói tranh chấp thuế được giải quyết 
theo thủ tục hành chính có sự khác biệt so với 
các tranh chấp hành chính khác. Quyền của 
người nộp thuế khiếu nại không chỉ được qui 
định trong Luật Khiếu nại mà còn được qui 
định trong Luật Quản lý thuế, Luật Hải quan và 
văn bản hướng dẫn thi hành. Việc giải quyết 
khiếu nại bằng thủ tục khiếu nại đơn giản 
nhưng khó bảo đảm tính khách quan, đặc biệt 
trong bối cảnh, cơ quan giải quyết khiếu nại 
cuối cùng thường là những cơ quan ban hành 
văn bản và hướng dẫn áp dụng pháp luật. Bởi 
vậy, khi pháp luật không qui định cụ thể, rõ 
ràng thì người nộp thuế khó có thể được bảo vệ 
quyền lợi trước pháp luật. 
Thủ tục khiếu nại hành chính là cần thiết có 
thể chấn chỉnh hành vi của Cơ quan có thẩm 
quyền thu thuế và người có thẩm quyền đối với 
quyết định hành chính và hành vi hành chính 
tuy nhiên, cần thiết phải qui định chế tài 
nghiêm khắc đối với cơ quan và người có thẩm 
quyền ban hành quyết định thu thuế và xử phạt 
trái pháp luật và có hành vi không tuân thủ qui 
định pháp luật trong giải quyết khiếu nại. Có 
như vậy, người nộp thuế mới được bảo đảm vị 
trí bình đẳng trong quan hệ với cơ quan và 
người có thẩm quyền thu thuế. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Giáo trình Luật thuế Việt Nam, NXB CAND, 
2012. 
[2] “Bị DN kiện, chi cục Thuế buộc phải thu hồi 
quyết định sai”. Báo Công an Nhân dân, ngày 
1/3/2012. 
[3] “Bộ Tài chính truy thu sai”, Lê Nga, ngày 
12/3/2014. Tải từ  
[4] “Kinh nghiệm giải quyết tranh chấp, tố tụng về 
thuế tại Cục Thuế TP Hồ Chí Minh” K. Hoa, tải 
từ : www.taichinhdientu.vn ngày 8/3/2011. 
[5] “Doanh nghiệp thắng kiện Chánh thanh tra Bộ Tài 
chính”, Võ Đức Phúc, tải từ  ngày 
12/3/2014. 
N.T.L. Hương / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 31, Số 1 (2015) 11-22 
22 
The Features in Resolving Tax Disputes under the 
Administrative Procedure 
Nguyễn Thị Lan Hương 
VNU School of Law, Hanoi, 114 Xuân Thủy Street, Cầu Giấy, Hanoi, Vietnam 
Abstract: A tax dispute is a kind of adminitrative dispute relating to a tax collected decision and a 
punish decision applied to the Taxpayers. This dispute may be resolved within in the competance of 
the Taxation Authorities and Punisment Authorities and under administrative procedure according to 
the Administrative Appeal Law 2011, the Tax Adminitrative Law and the related legal documents. In 
a case of the tax complaints, tax amount paid by Taxpayers is a forced duty to the State and í decided 
by conditions of the tax laws. In order to protect the right and interests of the Taxpayers, it is nessaary 
to reform the proceduce for settlement and to define clearly the levied conditions in the related tax 
laws. 
Keywords: Tax law, taxpayers, tax dispute, taxation authorities, tax levy. 

File đính kèm:

  • pdfdac_thu_trong_giai_quyet_tranh_chap_thue_bang_thu_tuc_khieu.pdf