Bảo tồn Di Sản văn hóa và phát triển Du lịch Bền vững: Một Số vấn đề đặt ra ở các tỉnh/thành phố Duyên hải Miền trung

Tóm tắt Bảo tồn Di Sản văn hóa và phát triển Du lịch Bền vững: Một Số vấn đề đặt ra ở các tỉnh/thành phố Duyên hải Miền trung: ...lịch nhằm hỗ trợ việc phát triển kinh tế, tạo sự cảm thông giữa các dân tộc, duy trì hòa bình, thịnh vượng, tôn trọng lẫn nhau và giữ gìn nhân quyền và tự do căn bản của con người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ và tôn giáo. Trong Hiến chương du lịch được thông qua tại Đại ... lực, mục tiêu” cho sự phát triển của kinh tế du lịch và ngược lại phát triển du lịch phải nhằm mục tiêu đẩy mạnh phát triển nền kinh tế bền vững, nâng cao đời sống của nhân dân, hơn nữa phải nhằm mục tiêu bảo tồn di sản văn hóa, môi trường sinh thái. Nghĩa là, bảo tồn di sản văn hóa và ...ại, bù đắp, mua lại được nhưng về di sản văn hóa - thiên nhiên thì khó có thể làm lại được, thậm chí có bao nhiêu tiền cũng không mua được. Mặt khác không nên áp đặt, thấy ở di sản khác, địa phương khác có cái gì hoặc tổ chức/làm thành công một việc gì mình cũng bắt chước, đưa về địa phư...

pdf8 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Bảo tồn Di Sản văn hóa và phát triển Du lịch Bền vững: Một Số vấn đề đặt ra ở các tỉnh/thành phố Duyên hải Miền trung, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đại, vừa phát huy giá trị di sản văn hĩa vật thể và 
phi vật thể để phục vụ, phát triển kinh tế du lịch, cải 
thiện, nâng cao thu nhập đời sống của nhân dân, vừa 
bảo vệ và ngày càng làm giàu thêm cho nền văn hĩa 
của địa phương, dân tộc; Giải quyết hài hịa mối quan 
hệ giữa trách nhiệm bảo tồn di sản với lợi ích mang 
lại từ việc khai thác, phát huy giá trị của nĩ thơng qua 
du lịch - dịch vụ; Xem “văn hĩa là động lực, mục tiêu” 
cho sự phát triển của kinh tế du lịch và ngược lại phát 
triển du lịch phải nhằm mục tiêu đẩy mạnh phát triển 
nền kinh tế bền vững, nâng cao đời sống của nhân 
dân, hơn nữa phải nhằm mục tiêu bảo tồn di sản văn 
hĩa, mơi trường sinh thái. Nghĩa là, bảo tồn di sản 
văn hĩa và phát triển du lịch phải đặt trong một thực 
thể hữu cơ, khơng thể tách rời giữa sinh thái và con 
người; sinh thái và nhân văn/văn hĩa - xã hội theo 
hướng Bảo tàng Sinh thái và Nhân học (Museum of 
Ecology & Anthropology).
- Việc tu bổ, tơn tạo, phục hồi di tích phải được 
quan tâm đặc biệt, tuân thủ nguyên tắc, khoa học. 
Một thực trạng mà chúng tơi cho rằng khơng chỉ 
riêng ở các tỉnh/thành phố duyên hải miền Trung 
mà ở rất nhiều địa phương trong cả nước đang gặp 
phải. Đĩ là làm thế nào để đảm bảo được tính chân 
xác - một nguyên tắc tối quan trọng trong tu bổ 
di tích. Nĩ quan trọng đến mức nếu khơng tuân thủ 
nguyên tắc này thì việc tu bổ di tích xem như đã làm 
mất di tích hay nĩi như GS.TS.KTS. Hồng Đạo Kính là 
đã làm trẻ hĩa di tích, làm giả di tích (di tích trở lại cịn 
cĩ 1 tuổi). Trong đĩ cĩ những vấn đề đặt ra:
Một là: chất liệu/vật liệu gốc với kỹ thuật truyền 
thống phải giữ lại tối đa. Trong khi chúng (nhất là 
loại vật liệu bằng gỗ, gạch) đã bị phân hủy, hết khả 
năng chịu lực, hoặc khơng cịn đủ tính năng để tiếp 
tục chống chọi với sự khắc nghiệt của thời tiết (mưa, 
nắng, nĩng, ẩm, bão giĩ), sự xâm hại của cơn trùng 
(mối, mọt, cây dại). Ở Nhật Bản hoặc một số nước 
khác người ta nghiên cứu tạo ra loại hĩa chất để quét 
lên bề mặt của các vật liệu được giữ lại, chúng cĩ tác 
dụng chống mối mọt, giúp bảo quản, gia cường, tăng 
thêm độ bền của các loại vật liệu này. Cịn ở nước ta, 
một mặt do cơ chế hoặc do chưa được quan tâm đầu 
tư nghiên cứu khoa học một cách thấu đáo để áp 
dụng trong thực tiễn tu bổ di tích, mặc dù trong định 
mức về tu bổ di tích cĩ cho phép áp dụng các loại 
hĩa chất bảo quản, hoặc đơi nơi cĩ áp dụng mà chưa 
biết kết quả như thế nào? Mặt khác, mua ở đâu loại 
hĩa chất bảo quản này, tính năng và tác dụng của nĩ 
ra sao? Nĩ cĩ ảnh hưởng gì đến mơi trường sống của 
con người? hay nĩ cĩ thích ứng với mơi trường khí 
hậu của từng vùng hay khơng thì khoa học chưa 
chứng minh, kết luận được. Vì vậy, việc sử dụng lại 
các cấu kiện, vật liệu cũ khơng được xử lý vừa khơng 
đảm bảo an tồn (nhất là đối với di tích dân dụng - cĩ 
người dân đang sống hoặc đang sử dụng), mà thời 
gian sử dụng lại rất ngắn, nghĩa là các cấu kiện, vật 
liệu được giữ lại này tiếp tục bị phân hủy, hư hỏng rất 
nhanh và chỉ vài năm sau di tích lại xuống cấp, cần 
phải tu bổ gấp, điều chắc chắn là mỗi lần tu bổ thì di 
tích lại bị mất dần. 
Hai là: chất liệu/vật liệu mới theo kỹ thuật truyền 
thống buộc phải sử dụng để thay thế vật liệu/chất 
liệu cũ/gốc hiện nay rất khĩ hoặc khơng cĩ để mua, 
sử dụng. Ví dụ như các cơng trình kiến trúc gỗ thuộc 
loại danh mộc thì mua ở đâu khi rừng đã cấm khai 
thác (tất nhiên để bảo vệ mơi trường). Gạch, ngĩi với 
kỹ thuật, tiêu chuẩn sản xuất theo cơng nghệ truyền 
thống hiện nay trên thị trường cũng đang rất khan 
hiếm, cũng bởi khơng được nung theo cách thủ cơng, 
do gây ơ nhiễm và khả năng đất sét cũng khơng cĩ 
do hạn chế khai thác. Chất liên kết/gắn kết dùng để 
xây, tơ, trát được gọi là vữa vơi truyền thống (tạo 
bởi: cát + vơi - nung từ vỏ hến/sị...) + chất keo/nhớt 
(từ thực vật: lưỡi long, blời, mật mía ngâm lâu ngày) 
ngày nay khơng dễ gì sản xuất, kể cả đơn giá áp dụng 
trong cơng trình tu bổ ra sao cho nên hầu như loại 
vữa vơi hay chất gắn kết này khơng được sử dụng. 
Kể cả những loại vật liệu dầu mù u, dầu rái, sơn ta 
dùng để sơn, quét bảo quản các cấu kiện gỗ theo 
cách của cha ơng ta ngày xưa, hiện nay cĩ mấy ai sản 
xuất, sử dụng. Như vậy, các cơng trình được gọi là tu 
bổ, tơn tạo, hay phục hồi di tích phải sử dụng gỗ khơng 
đạt yêu cầu về chất lượng lẫn chủng loại. Hay phải 
sử dụng gạch, ngĩi nung theo cơng nghệ tuynel (kể 
43Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng
Miền Trung - Tây Nguyên
cả loại gạch ống 6 hay 4 lỗ) khơng cần biết nguyên 
gốc của cơng trình dùng gạch, ngĩi như thế nào? Mà 
cĩ biết cũng khơng dễ mua. Vữa vơi, thực chất hiện 
nay là dùng vữa xi măng, chỉ trong trường hợp buộc 
phải dùng để lợp ngĩi âm dương thì mới trộn vào 
một ít vơi. Vấn đề về giải pháp kỹ thuật và vật liệu để 
tiến hành việc tu bổ, phục hồi các di tích đền/tháp 
Chăm hiện nay để đảm bảo tính chân xác và khoa học 
cũng đang được đặt ra với nhiều giả thuyết, cách giải 
quyết chưa phải là đã được thống nhất trong các nhà 
khoa học, các nhà quản lý chuyên mơn và ở từng địa 
phương.
 4. Về cơ chế quản lý và thủ tục đầu tư 
Hoạt động tu bổ di tích hiện nay vẫn đang được 
áp dụng theo quy trình quản lý đầu tư xây dựng cơ 
bản, tức là nĩ được ứng xử như các cơng trình xây 
dựng mới, hiện đại, nghĩa là đặt tu bổ di tích vào quỹ 
đạo của ngành xây dựng cơ bản nĩi chung. Cho nên 
việc triển khai các hoạt động nghiệp vụ mang tính 
khoa học trong tu bổ di tích rất khĩ thực hiện, rất 
khĩ điều chỉnh thiết kế, bổ sung dự tốn, kể cả đơn 
giá tài chính nào cho việc tổ chức sản xuất hoặc mua 
các loại vật liệu/chất liệu đặc thù/đặc biệt nêu trên 
trong tu bổ di tích Nhất là đối với các di tích thuộc 
sở hữu tư nhân tập thể, hoặc di tích do nhân dân tự 
đĩng gĩp tu bổ thì gần như buơng lỏng việc quản 
lý, mọi quyết định trong quá trình tu bổ di tích chủ 
yếu do các chủ di tích tự tiến hành, hầu như khơng 
cĩ sự giám sát thường xuyên hoặc tham gia ý kiến kịp 
thời của cán bộ, cơ quan chuyên mơn/chuyên quản. 
Cĩ chăng cũng chỉ ở mức được cấp giấy phép “xây 
dựng” mang tính hình thức ban đầu hoặc để cĩ cơ sở 
pháp lý để xử lý, quy trách nhiệm về sau mà thơi. Như 
vậy, để sử dụng vật liệu/chất liệu đúng theo nguyên 
tắc về tính chân xác trong tình hình thực tế như đã 
phân tích ở trên quả là vấn đề hết sức khĩ, nếu như 
khơng muốn nĩi là khơng thực hiện được. Kể cả tư 
tưởng “thương mại hĩa, hồnh tráng hĩa di tích“ của 
các nhà hảo tâm đầu tư/cúng dường và của một số ít 
người xưng danh là đại diện chủ di tích. Phần lớn kết 
quả tu bổ di tích này đến khi các cơ quan chuyên mơn 
biết được thì cũng đều nằm trong tình thế “chuyện đã 
rồi” (người được quy trách nhiệm, xử lý - chủ/đại diện 
di tích nhận lỗi bởi do kém hiểu biết, khơng nhận 
thức được vấn đề) và cũng đồng nghĩa với việc di tích 
đã “bị bức tử hay bị mất trí nhớ, cĩ xác khơng hồn, di 
tích giả”.
Giải quyết những vấn đề nêu trên địi hỏi phải 
cĩ sự quan tâm chỉ đạo của nhiều cấp bộ, ngành từ 
Trung ương xuống các cấp, ngành địa phương. Mặc 
dù hiện nay đã cĩ Nghị định số 70/2012/NĐ-CP ngày 
18.9.2012 của Chính phủ quy định thẩm quyền, trình 
tự, thủ tục lập, phê duyệt quy hoạch, dự án bảo quản, 
tu bổ, phục hồi di tích lịch sử - văn hĩa, danh lam 
thắng cảnh; và Thơng tư số 18/2012/TT - BVHTTdL, 
ngày 28.12.2012 của Bộ Văn hĩa, Thể thao và du lịch 
quy định chi tiết một số quy định về bảo quản, tu bổ, 
phục hồi di tích. Nhưng trên thực tiễn triển khai ở cấp 
địa phương cũng cịn nhiều bất cập.
- Để bảo tồn di sản vững chắc, phát huy du lịch 
bền vững, điều cốt yếu đáng quan tâm là phải xuất 
phát từ vấn đề: mỗi di tích - di sản ở mỗi địa phương 
ngồi cái chung, đều cĩ những giá trị, nét đặc thù và 
sự hấp dẫn riêng. Cho nên trong quá trình quản lý, 
bảo tồn và phát huy cần lưu ý xác định và giữ cho 
được những giá trị, nét đặc thù riêng của từng di 
sản, kể cả phải cĩ cách tổ chức quản lý, bước đi thích 
ứng, phù hợp ở mỗi di sản, mỗi địa phương. Nghĩa 
là khơng được làm biến đổi - đánh mất những giá 
trị, nét đặc thù riêng cĩ của di tích - di sản ở nơi địa 
phương mình. Bởi như chúng ta đã biết, sự sai lầm, 
mất mát về kinh tế, chúng ta cĩ thể làm lại, bù đắp, 
mua lại được nhưng về di sản văn hĩa - thiên nhiên 
thì khĩ cĩ thể làm lại được, thậm chí cĩ bao nhiêu 
tiền cũng khơng mua được. 
Mặt khác khơng nên áp đặt, thấy ở di sản khác, địa 
phương khác cĩ cái gì hoặc tổ chức/làm thành cơng 
một việc gì mình cũng bắt chước, đưa về địa phương 
mình, di sản mình để thực hiện một cách rập khuơn 
hoặc việc phục hồi cịn thiếu cơ sở, chưa được nghiên 
cứu kỹ Tất cả những hành vi này đều là những biểu 
hiện của sự sai lầm khơng cĩ tính chân xác và khơng 
bền vững. Nghĩa là, mỗi địa phương cần nhận thức về 
tài nguyên, sản phẩm du lịch đặc thù của mình, khơng 
bắt chước nhau về sản phẩm (nhất là tình trạng sản 
phẩm hàng thủ cơng - mỹ nghệ, hay việc tổ chức lễ 
hội, sự kiện văn hĩa như hiện nay). Học tập ở đây 
khơng cĩ nghĩa là bắt chước nhau, làm giống y chang 
nhau. Nhất là nhiều lễ hội văn hĩa hay những sự kiện 
văn hĩa giống nhau giữa các địa phương nhà nước tổ 
chức rất tốn kém, thiếu sự tham gia tổ chức của người 
dân, chủ các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, du 
lịch và họ cũng xem như đây là việc của nhà nước (Cĩ 
thể nĩi: cĩ tiền thì cĩ lễ, khơng tiền thì vơ lễ - lễ hội). 
Cần quan tâm đến khơng gian thực của lễ hội, tránh 
sân khấu hĩa, thương mại hĩa. Chỉ sân khấu hĩa khi 
lễ hội, loại hình sinh hoạt văn hĩa đĩ đã bị mất, cả về 
khơng gian văn hĩa? Việc phục hồi hoặc tái hiện các 
loại hình sinh hoạt văn hĩa, lễ hội phải được nghiên 
cứu kỹ lưỡng và tiến hành thận trọng qua bước thử 
44 Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng
Miền Trung - Tây Nguyên
nghiệm, được sự đồng tình, ủng hộ của đơng đảo 
người dân địa phương tham gia, tránh gây ngộ nhận, 
hiểu lầm cho thế hệ trẻ và cả người dân đương đại.
- Xuất phát từ quan niệm, di sản văn hĩa là của 
mọi người dân và việc bảo tồn, giữ gìn di sản văn hĩa 
là quyền lợi và trách nhiệm của tồn dân, đồng thời 
nĩ gắn với lợi ích của cộng đồng dân cư địa phương. 
Hơn nữa, việc bảo tồn, phát triển du lịch phải đem lại 
lợi ích cho cộng đồng nên để quản lý, bảo tồn và phát 
huy tốt một di sản văn hĩa, địi hỏi phải cĩ sự thống 
nhất điều hành của một cấp quản lý hành chính Nhà 
nước nhất định, tồn diện và trực tiếp, đủ sức làm 
“nhạc trưởng” - tập hợp cả một hệ thống chính trị và 
các cấp, ngành vì mục tiêu bảo tồn di sản, phát huy 
du lịch và làm tốt vai trị gắn kết giữa: Nhà quản lý: 
các cấp chính quyền, cơ quan quản lý nhà nước; Nhà 
khoa học: các cơ quan chuyên mơn, cơ quan nghiên 
cứu khoa học trong và ngồi nước; Nhà dân: các chủ/
đại diện di tích, chủ doanh nghiệp - kinh doanh. 
Mối gắn kết này được đặt trong những nguyên tắc, 
quan hệ logic - biện chứng giữa bảo tồn di sản văn 
hĩa (cả vật thể và phi vật thể) với phát huy, phát triển 
kinh tế, cĩ giao lưu hội nhập; Mọi chủ trương, chính 
sách, định hướng phát triển phải làm rõ được trách 
nhiệm của từng cấp, ngành, cơ quan, đồng thời phải 
gắn chặt với ý thức trách nhiệm của cả cộng đồng, 
từng người dân, các tổ chức chính trị - xã hội, cũng 
cĩ nghĩa là phải luơn chú ý gắn chặt với lợi ích của cả 
cộng đồng. Đặc biệt phải được thể hiện một cách cụ 
thể, cơng khai, dân chủ, cơng bằng thơng qua các văn 
bản quy phạm pháp luật. Muốn vậy, mọi vấn đề phải 
được nghiên cứu một cách đầy đủ, thận trọng, khoa 
học và được chính cộng đồng người dân địa phương 
tham gia gĩp ý, xây dựng. Phải thường xuyên chú 
trọng đến cơng tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao 
kiến thức hiểu biết về di sản - nhất là cho thế hệ trẻ. 
Phải xây dựng được một mạng lưới tuyên truyền viên, 
cộng tác viên bảo tồn di sản - phát huy du lịch xuống 
từng người dân, chủ di tích, chủ doanh nghiệp. 
- Để quản lý tốt di sản cần phải được thơng qua 
hợp tác quốc tế, trong nước và khu vực về mọi mặt: 
chuyên viên, đào tạo, nghiên cứu khoa học, trao đổi 
kinh nghiệm, kỹ thuật, tập huấn, hội thảo, giao lưu... 
và cũng khơng thể thiếu các thiết bị, phương tiện 
kỹ thuật chuyên dùng, đĩ là cơng cụ hỗ trợ đắc lực 
cho con người. Chú ý đến nguồn nhân lực tại chỗ/địa 
phương thơng qua nhiều hình thức đào tạo. Nhất là 
đội ngũ cán bộ chuyên mơn/chuyên quản (hiện nay 
lực lượng này rất thiếu, quá mỏng và yếu, khơng đủ 
sức để quản lý hệ thống di sản phong phú, đa dạng 
trong khu vực, ngoại trừ một số nơi như ở Huế).
- Trong quá trình phát triển cần lưu ý đến xu hướng 
biến động dân cư theo kiểu nhập cư tạm bợ, “ăn xổi, 
ở thì, khai thác di tích/di sản bằng mọi giá”. Chủ di 
tích/di sản đích thực bị phân tán đi các địa phương 
khác do giải tỏa để thực hiện các dự án hoặc nhường 
chỗ (bán hoặc cho thuê nhà/đất đến nơi khác ở) cho 
cư dân ở nơi khác đến làm ăn. Giềng mối xã hội, gia 
đình, tộc họ lâu đời ở địa phương bị tan vỡ, tệ nạn 
xã hội gia tăng, GdP bình quân đầu người tăng thực 
chất ở một số ít người hoặc khơng bền vững. Thật 
đáng đau buồn khi các dự án du lịch, dịch vụ hoặc 
khu cơng nghiệp ra đời, dân cư địa phương phải 
chuyển đi nơi khác, cịn di tích/di sản ở lại chơ vơ, bị 
bao vây bởi những cơng trình mới và chắc chắn nĩ sẽ 
dần bị bức tử vì khơng cĩ người dân sống ở đây. Để 
hạn chế tình trạng nêu trên, mỗi địa phương trong 
quy hoạch phát triển cần quan tâm bảo tồn các di sản 
đơ thị, làng nghề, làng quê sinh thái đặc thù - theo 
nghĩa bảo tàng sinh thái - nhân học để phát triển du 
lịch cộng đồng. Ngay cả việc xây dựng nơng thơn mới 
theo 15 tiêu chí chung cũng cần lưu tâm đến những 
tiêu chí đặc thù đối với loại hình di sản văn hĩa này. 
Hay việc cơng nhận làng nghề truyến thống theo tiêu 
chí của Bộ Nơng nghiệp và Phát triển Nơng thơn hiện 
nay cịn khá bất cập.
- Thực trạng về sự gắn kết giữa phát triển du lịch 
với bảo tồn di sản văn hĩa cịn khá nhiều hạn chế, 
đáng quan tâm. Theo cảnh báo của Tổng cục du lịch 
được cơng bố ở các tỉnh/thành phố duyên hải miền 
Trung thì phương thức khai thác du lịch chưa thích 
hợp, thiếu đồng bộ và thiếu sức cạnh tranh, cịn 
nhiều vấn đề bất cập đặt ra, nhất là tính bền vững cho 
mục tiêu bảo tồn và phát triển. Hầu như các doanh 
nghiệp du lịch, dịch vụ mới chỉ lo tập trung đầu tư 
cơ sở lưu trú, dịch vụ nhà hàng, mà ít quan tâm tham 
gia, đĩng gĩp việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư 
cho văn hĩa. Vai trị của các hiệp hội du lịch cịn rất 
nhiều hạn chế. Hầu như hoạt động mang tính hình 
thức, đối phĩ, trên thực tế mạnh ai nấy làm thiếu sự 
liên kết, thiếu vai trị của hiệp hội, thiếu tính liên kết 
xâu chuỗi. Cạnh tranh thiếu lành mạnh, thậm chí sử 
dụng hình thức “hoa hồng/bồi dưỡng” làm chỗ dựa 
cho “cị” tồn tại, phát triển hoặc gây thiếu lành mạnh 
trong dịch vụ du lịch Về hình thức thì cĩ ký liên kết 
giữa các tỉnh, các ngành hàng khơng, lữ hành, dịch 
vụ khách sạn nhưng trên thực tế thì cịn xa vời, 
vẫn mạnh ai nấy làm. Văn hĩa và du lịch tuy đang ở 
trong cùng một Bộ, sở, phịng nhưng xem chừng vẫn 
khơng cĩ sự gắn kết, mỗi ngành đều cĩ chương trình 
45Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng
Miền Trung - Tây Nguyên
mục tiêu riêng. Nên chăng, ủy ban nhân dân các cấp 
cần phải làm trọng tài cho việc gắn kết các chương 
trình phát triển và mục tiêu đầu tư của các ngành: 
chương trình về cơ sở hạ tầng du lịch, văn hĩa, giao 
thơng, xây dựng nơng thơn mới trên cơ sở các quy 
hoạch chung, của từng ngành.
- Cần phải xuất phát từ nhận thức, thế mạnh của 
du lịch Việt Nam nĩi chung, du lịch các tỉnh/thành 
phố duyên hải miền Trung nĩi riêng là du lịch di sản 
văn hĩa (đa văn hĩa sơng nước - biển đảo, đa sắc 
tộc, trải qua nhiều thế kỷ, nhiều loại hình; cảnh quan 
thiên nhiên (làng quê, sơng nước, biển đảo, núi đèo 
ven biển). Chính vì vậy, yếu tố du lịch trải nghiệm, 
du lịch trong cộng đồng dân cư/cộng đồng gắn với 
di sản văn hĩa là sản phẩm du lịch đĩng vai trị chủ 
yếu và quyết định cho thành cơng của phát triển 
du lịch. Chính người dân địa phương vừa là những 
người chủ, bảo vệ giữ gìn phát huy di sản văn hĩa 
(vật thể, phi vật thể), giữ gìn cảnh quan mơi trường 
sống. Đồng thời vừa tham gia phát triển du lịch, làm 
du lịch. Cần phải hiểu ở gĩc độ địa phương, nếu làm 
du lịch mà khơng đem lại lợi ích cho cộng đồng cư 
dân địa phương, “đuổi” cư dân địa phương đi (bởi các 
dự án, bởi người từ các nơi về thuê đất, thuê nhà làm 
du lịch...) thì du lịch đĩ sẽ khơng bền vững. Tuy nhiên 
vấn đề đặt ra là, theo kết quả khảo sát thì khu vực này 
cĩ hay khơng cĩ nghề? Đa số nhân lực quản lý ngành 
du lịch là dân khơng chuyên, chủ yếu tận dụng người 
địa phương cho nhĩm lao động trực tiếp và thuyên 
chuyển cán bộ từ các ngành khác về làm cơng tác 
quản lý. Cơng tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch của 
các tỉnh/thành phố địa phương vẫn chưa được chú 
trọng một cách căn cơ, bài bản, lâu dài. Theo đánh 
giá của Tổng cục du lịch, nhìn chung phần lớn các địa 
phương trong Vùng cĩ trình độ học vấn của đội ngũ 
lao động thấp, lao động mới tốt nghiệp trung học cơ 
sở trở xuống chiếm tỷ lệ cịn lớn (Quảng Nam chiếm 
51,07%), lao động chưa qua đào tạo nghề trong Vùng 
chiếm tỷ lệ lớn (bình quân cả vùng 56,48%, riêng Đà 
Nẵng 31,16%). Thực trạng này gây khĩ khăn cho việc 
đào tạo nghề, nâng cao trình độ kỹ thuật cho nguồn 
lao động, nhất là trên lĩnh vực du lịch. Việc đào tạo 
nguồn nhân lực này là ai, cấp nào hay phải cĩ liên 
kết đồng trách nhiệm? Nên chăng, cần được đặt ra 
giải quyết thấu đáo giữa các ngành giáo dục, đào 
tạo nghề, các cấp chính quyền và các doanh nghiệp 
trong Vùng. 
- Thực trạng hướng dẫn, thuyết minh tại di sản/di 
tích hiện nay khá tùy tiện, bất cập. Hướng dẫn viên 
du lịch thì thiếu kiến thức hiểu biết về di sản/di tích, 
cịn cán bộ quản lý, thuyết minh tại di sản/di tích, bảo 
tàng thì kém về ngoại ngữ, thiếu kiến thức về hướng 
dẫn du lịch nĩi chung. do đĩ thơng tin đến du khách 
tham quan rất hời hợt, thiếu chính xác. Nên chăng, 
Bộ Văn hĩa, Thể thao và du lịch cần thống nhất chỉ 
đạo cho Cục di sản Văn hĩa và Tổng cục du lịch, các 
Sở Văn hĩa, Thể thao và du lịch cĩ lộ trình đào tạo, 
cấp chứng chỉ “hướng dẫn viên di sản” cho hướng dẫn 
viên du lịch và cán bộ/chuyên viên quản lý/thuyết 
minh tại bảo tàng, di tích (đây là ý kiến đề xuất của tổ 
chức UNESCO khu vực châu Á Thái Bình dương và đã 
được tổ chức thí điểm tại Quảng Nam).
- Hệ thống quảng bá, kênh thơng tin trên các 
mạng, thơng tin cấp nhà nước, cấp Vùng cịn rất hạn 
chế, mang tính riêng lẻ của các doanh nghiệp. Thiếu 
tầm chiến lược quốc gia - vùng - khu vực. 
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn để khu vực 
9 tỉnh/thành duyên hải miền Trung nĩi riêng và Việt 
Nam nĩi chung, bảo tồn vững chắc di sản và phát 
triển du lịch bền vững điều quan trọng trước hết là 
ở mỗi di sản, mỗi địa phương, nhà quản lý; nhà khoa 
học; và nhà dân phải cùng đồng hành, cộng đồng 
trách nhiệm, gắn chung một lợi ích và trên nguyên tắc 
bảo tồn tính chân xác - nguyên gốc độc đáo, đặc thù 
vượt trội vốn cĩ của riêng di sản mình để phát triển 
du lịch; và nên chăng theo hướng Bảo tàng sinh thái 
và nhân học. Từ quan điểm Nghị quyết Trung ương 5 
chúng ta: “Văn hĩa là động lực, mục tiêu cho sự phát 
triển của kinh tế du lịch và ngược lại phát triển du lịch 
phải nhằm mục tiêu đẩy mạnh phát triển nền kinh tế 
bền vững, nâng cao đời sống nhân dân, hơn nữa phải 
nhằm mục tiêu bảo tồn di sản văn hĩa, mơi trường 
sinh thái”. Chúng ta cĩ thể xem đây là tuyên ngơn của 
mục tiêu phát triển du lịch.
N.c.T.
cHÚ THÍcH
1. Ernesto Zedillo - Tổng thống Mêhicơ: Phát biểu tại lễ 
kỷ niệm ngày du lịch thế giới 27.9.1998 tại Mêhicơ. 
2. Tổ chức du lịch Thế giới (OMT): Tuyên bố chung về du 
lịch thế giới tại Hội nghị quốc tế ở Malaysia về bảo vệ mơi 
trường, năm 1982.
3. Hội đồng Quốc tế về di tích - di chỉ - iCOMOS: Các 
hiến chương và cơng ước quốc tế, xuất bản năm 2001. Bản 
dịch của Cục Bảo tồn - Bảo tàng. 

File đính kèm:

  • pdfbao_ton_di_san_van_hoa_va_phat_trien_du_lich_ben_vung_mot_so.pdf