Các trận đánh quan trọng trong lịch sử Việt Nam

Tóm tắt Các trận đánh quan trọng trong lịch sử Việt Nam: ...tạo. Ở luỹ Trấn Ninh năm 1802, quân Tây Sơn khi rút lui đã bỏ lại tới 700 khẩu pháo. Trận RG-XM, thủy quân Tây Sơn tuy ít hơn nhưng theo tác giả thì có hoả lực pháo trên thuyền chiến vượt trội thủy quân Xiêm. Trận RG-XM, đúng như bác danngoc nói, diễn ra rất đơn giản. Hạm đội Xiêm tiến đánh M... thế khi ta tổ chức phản công, Hầu Nhân Bảo không có quân ứng cứu, bị quân ta giết chết tại trận. 4- Biết dùng mưu kế đánh địch Diễn biến chiến sự cho thấy giết Hầu Nhân Bảo không mấy dễ dàng. Bởi vậy Lê Hoàn mưu tính dùng kế trá hàng hy vọng giết đúng tên chủ tướng. Muốn vậy : - Bên trong...a của vị tướng tài ba. Kịp thời phát hiện ra sai lầm của địch, triệt để lợi dụng sai lầm của chúng để tổ chức tác chiến giáng đòn mạnh mẽ, giành chiến thắng. Điều này không phải lúc nào người chỉ huy cũng làm được. Trong hoàn cảnh thủy binh ta vừa thua trận, triều đình ra lệnh hồi triều chịu t...

pdf46 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 281 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Các trận đánh quan trọng trong lịch sử Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dù là lần lớn nhất và 
oanh liệt nhất. ĐVSKTT còn chép lại sau cuộc xâm lược của Tống, tháng 12-1077 nhà Lý đã cho 
tấn công qua biên giới Việt-Tống, sau đó Tống cũng tấn công lại (những cuộc giao tranh này 
tương tự giai đoạn xung đột 1984-1989, thời điểm đó nhiều khu vực của ta bị Tống chiếm, và sau 
đó phải trải qua đấu tranh ngoại giao để đòi lại). Một lần khác do vua Trần Thái Tông đích thân 
chỉ huy, tấn công sâu vào Khâm Châu, Liêm Châu gây hoang mang lớn trong quân dân Tống, rồi 
rút về an toàn. 
TRẬN THÀNH ĐA BANG 
(Tiếp theo) 
Lợi dụng tình thế ấy, bọn Trương Phụ, Mộc Thạch quyết định tập trung binh lực mở cuộc tiến 
công chiếm thành Đa Bang. 
Thành này đước đắp bằng đất rất cao và kiên cố. Phía trong tường thành có hào sâu với những 
cọc tre vót nhọn chôn ngầm. Phía ngoài tường thành có những hồ rộng cắm chông tra ở dưới để
bẫy người và ngựa của giặc. Quân Hồ đóng trong thành rất đông và tổ chức canh phòng nghiêm 
ngặt. 
Tuy nhiên bên ngoài thành Đa Bang lại có những bãi cát rộng chạy từ tây bắc sang đông nam, 
rất thuận lợi cho quân địch đổ quân tập kết lực lượng lớn đánh thành. Những bãi cát này lại nằm 
sát khúc sông cạn có thể bắc cầu phao qua được. 
Ngày 10-1-1407, Mộc Thạch dẫn quân đánh chiếm cửa sông Thao và cửa sông Tuyên Quang ở
Bạch hạc. Lực lượng quân Hồ trấn giữ ở đây do tướng Hồ Xạ chỉ huy không chống đỡ nổi phải 
rút sang bờ nam. 
Ngày 15-1, quân Minh khiêng thuyền ra bãi sông Phú Lương, đối ngạn với thành Đa Bang ở bên 
bờ nam. Sau đó chúng làm gấp cầu phao chuẩn bị vượt sông. 
Đêm 17-1, Trương Phụ tập trung hầu hết quân đánh úp bãi Mộc Hoàn. Tướng Hồ chỉ huy đóng 
giữ nơi đây là Nguyễn Công Khôi mải vui chơi nữ sắc, không phòng bị. Trước sức tấn công bất 
ngờ của địch, thuyền bị cháy gần hết, toàn quân bị tiêu diệt. Trong khi đó Hồ Nguyên Trừng ở xa 
không biết để ứng cứu. 
Chiếm được bãi Mộc Hoàn, quân minh liền theo cầu phao vượt sông, rồi cho quân vây kín thành 
Đa Bang. Quân Trương Phụ tập kết ở bãi cát phía tây bắc thành. 
Đêm 19-1-1407, quân Minh từ 2 phía tiến công ồ ạt. Khi quân Minh xông tới liền bị quân Hồ đánh 
trả quyết liệt. Chỉ trong 1 đêm kịch chiến, xác giặc đã chất cao ngang mặt thành. Nhưng với lực 
lượng đông gấp bội, quân Minh hết đợt này đến đợt khác lao vào. Chúng liều chết vượt hào, 
dùng “vân thê” (tahng mây) trèo lên mặt thành đông như kiến và từ 4 mặt thành đánh thốc lên. 
Quân Hồ chiến đấu ngoan cường nhưng đánh không lại phải rút vào thành cố thủ. 
Sáng ngày 20-1, quân Hồ lại đục tường thành cho voi ra đánh. Quân Minh dùng hỏa khí bắn cản, 
voi bị thương, phải chạy trở vào. Thừa cơ, quân Minh rượt theo, ùa vào cướp thành. Tàn quân 
Hồ phải bỏ thành rút chạy. 
Thế là chỉ trong 1 ngày đêm công kích, quân Minh đã đánh chiếm được thành Đa Bang, 1 vị trí 
then chốt trong tuyến phòng thủ cơ bản của vương triều Hồ. 
Việc Đa Bang thất thủ đã mở đầu cho sự thất bại không thể cứu vãn của cuộc kháng chiến 
chống Minh do nhà Hồ lãnh đạo. Đến tháng 6 năm ấy, tại cửa Kỳ La, núi Cao Vọng, cha con Hồ
Quý Ly cùng nhiều triều thần bị địch bắt đưa về phương Bắc. Cơ nghiệp nhà Hồ sụp đổ nhanh 
chóng. 
Sự thất bại của trận thành Đa Bang có nhiều nguyên nhân, nhưng về căn nguyên nó cũng không 
nằm ngoài nguyên nhân thất bại chung của cả cuộc kháng chiến chống Minh do vương triều Hồ
lãnh đạo. Đó là sai lầm do tổ chức và chỉ đạo chiến tranh về cả chiến lược và chiến thuật, mà 
nhân tố có ý nghĩa quyết định là không đoàn kết được toàn dân đánh giặc giữ nước, không tổ
chức và phát động được cuộc chiến tranh nhân dân yêu nước chống ngoại xâm, như Nguyễn 
Trãi đã nhận xét 
“Nhân nhà Hồ chính sự phiền hà, 
Khiến trong nước lòng dân oán giận”. 
Đứng trên phương diện nghệ thuật quân sự, triều Hồ cũng phạm phải nhiều sai lầm nghiêm 
trọng. Trước chiến lược tiến công của quân Minh, Hồ Quý Ly trước sau vẫn kiên trì chủ
trương thực hành chiến lược phòng ngự, lấy chủ lực đối trận với địch và dùng trận địa 
chiến làm phương thức tác chiến cơ bản. 
Nhà Hồ đã dày công làm những công trình phòng ngự, xây đắp thành lũy kiên cố, mà Đa Bang là 
1 vị trí then chốt và tập trung lực lượng quân thường trực rất lớn để cố thủ cự địch. Phương thức 
tác chiến đó không phù hợp với nghệ thuật đánh giặc giữ nước trong điều kiện dân tộc ta phải 
lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều. 
Phòng ngự chiến lược cũng như tác chiến phòng ngự trong 1 cuộc chiến tranh tự vệ là tất nhiên, 
cần thiết, thế nhưng phòng ngự không có nghĩa là rút lui chạy dài hoặc cố thủ để mặc cho quân 
thù tự do hành động, mà phải tìm mọi cách đánh lại chúng. Bởi vì kẻ địch tiến công có sức mạnh 
hơn quân phòng ngự, chúng rất dễ đột phá trận địa, bao vây cô lập thành trì và tiêu diệt quân 
phòng ngự ở những nơi đó. Trong tình thế ấy, lẽ ra phải biết liệu sức ta, sức địch, phải khôn 
khéo linh hoạt, như Trần Quốc Tuấn nói : 
“Phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tùy thời tạo thế, có được đội 
quân 1 lòng như cha con thì mới dùng được”. 
Lúc đó nhà Hồ chỉ đơn thuần dựa vào lực lượng vũ trang tập trung, dốc chủ lực ra chặn địch chứ
chưa kết hợp được sức mạnh chiến đấu của toàn dân, không tạo nên được thế trận cả nước 
đánh giặc. Vì vậy mà trong suốt cuộc chiến tranh, quân nhà Hồ phải luôn chiến đấu trong thế trận 
phòng ngự hết sức bị động cả về chiến lược và chiến thuật. Điều đó càng làm cho quân Minh có 
điều kiện tập trung lực lượng đột phá từng mục tiêu, từng phòng tuyến của quân ồ, và ở Đa 
bang, chúng hoàn toàn rảnh tay, tạo được ưu thế tuyệt đối để công thành. 
Khi chiến tranh mới bắt đầu, các lực lượng quân Hồ chống giặc ở Pha Lũy, Chi Lăng và Phú 
Lệnh mới bị thiệt hại không đáng kể đều đã bỏ thành, bỏ đất chạy về phòng tuyến phòng ngự cơ
bản mà chưa gây cho địch mấy tổn thất và cũng không làm chậm được bước tiến của chúng. 
Thậm chí, ngay cả khi 2 đạo quân Trương Phụ, Mộ Thạch vận động đến đánh thành Đa Bang, 
các đạo quân Hồ đóng ở Bình Than, bạch Hạc vẫn án binh bất động, vẫn cố thủ trong các vị trí 
phòng thủ. Quân Minh càng có điều kiện tập trung binh lực giáng đòn tiêu diệt quân Hồ ở Đa 
Bang. Vì thế thành Đa Bang thất thủ là không tránh khỏi và đó là kết quả tất yếu của chiến lược 
phòng ngự thuần túy, phòng ngự tiêu cực, bị động của quân Hồ trước chiến lược tiến công của 
quân Minh. 
Tuy nhiên Đa Bang lại thất thủ quá nhanh, mặc dù quân Hồ có lực lượng phòng thành đông, 
mạnh, và có vũ khí lợi hại chẳng kém gì quân Minh. Đó chính là do thế trận của quân Hồ ở Đa 
Bang không vũng chắc, không có lợi cho quân phòng ngự. 
Thành Đa Bang tuy được xây dựng kiên cố, nhưng lại ở vị trí có địa hình, địa thế thuận lợi cho 
bên tiến công, vì trưiớc thành có những bãi cát rộng có thể tập kết lực lượng lớn công thành. 
Chính kẻ địch cũng phát hiện ra điểm yếu ấy và chúng triệt để lợi dụng, khai thác điểm yếu ấy để
hạ thành. Mặt khác thế trận Đa Bang còn bộc lộ sơ hở khi không có lực lượng dự bị bảo vệ
thành gồm nhiều tầng, nhiều lớp có thể hỗ trợ cho nhau. Quân Minh đánh bãi Mộc hoàn, quân hồ
ở thành Đa Bang cũng như ở bên trên và bên dưới đều không đưa quân đến ứng cứu. 
Đến lượt thành Đa Bang bị vây hãm, nhà Hồ lại không có những lực lượng cơ động để sẵn sàng 
chi viện khi thành lâm nguy. Bởi thế, Đa bang trở thành cứ điểm cho vơ, cô lập và quân trong 
thành dù có cố sức chống cự, hoặc dù có tổ chức phản kích, cũng không thể đủ sức chống trả
cuộc tiến công của quân địch. 
Bên cạnh đó, từ bộ thống soái quân Hồ đến lực lượng phòng thành Đa Bang đề mắc sai lầm 
chủ quan, không đánh giá đúng tình hình địch ta, thậm chí còn quá ỷ vào thành lũy và 
binh khí của mình. 
Binh thư có câu : “Biết địch, biết ta trăm trận không nguy”, nhưng Hồ Quý Ly lại không nắm rõ 
địch, không phán đoán được ý đồ của địch nên mặc kế nghi binh của chúng. Khi Trương Phụ
cho 1 cánh quân tiến xuống mạn Gia Lâm phô trương thanh thế thì Hồ Quý Ly đã vội điều bớt 
quân từ Đa Bang về tăng cường cho Đông Đô. Do đó Trương Phụ càng có điều kiện tập trung 
đại quân, tạo được ưu thế to lớn để công thành Đa Bang. Hồ Quý Ly cũng không biết rằng người 
Trung Quốc rất giỏi công thành. Lẽ ra trong tình thế ấy, phải biết rút lui, phân tán lực lượng, lúc 
ẩn lúc hiện để tránh sức mạnh ban đầu của giặc, thì quân Hồ lại co cụm, cố thủ trong thành và 
như vậy chẳng khác gì giơ ngực ra đỡ đòn đánh của địch. 
Mặt khác, lực lượng phòng thành lại quá ỷ lại vào uy lực của hỏa khí bảo vệ thành, nhưng khi 
quân Minh xông tới chân thành thì các khẩu “thần cơ sang pháo” không còn phát huy được hiệu 
lực nữa. Hoặc ý đồ dùng đội tượng binh để cản bước phá cuộc tiến công của địch, nhưng không 
ngờ, khi voi bị hỏa khí của quân Minh bắn chặn phải chạy trở vào, lại tạo thêm cơ hội cho quân 
Minh ùa vào, chiếm thành 1 cách nhanh chóng. 
Sự thất bại của thành Đa bang và của nhiều trận đánh kế tiếp của quân đội nhà Hồ không chỉ
chôn vùi sự nghiệp của vương triều Hồ, mà còn đánh dấu sự thất bại của phép dùng binh chỉ
đơn thuần dựa vào quân đội, vũ khí, thành quách trong điều kiện phải lấy nhỏ đánh lớn của cuộc 
chiến tranh giữ nước lúc bấy giờ. Chỉ đến khi Lê Lợi, Nguyễn Trãi  như thế, như thế thì mới 
đánh bại được quân xâm lược Minh, giành lại độc lập dân tộc. 
TRẬN TỐT ĐỘNG – CHÚC ĐỘNG (7-11-1426) 
Chiến thắng Tốt động – Chúc Động năm 1426 là 1 trong những điển hình rực rỡ về quyết tâm 
tiêu diệt địch, về tinh thần chiếnđấu dũng cảm và nghệ thuật quân sự tuyệt vời của nghĩa quân 
Lam Sơn. 
 Các tướng chỉ huy của nghĩa quân Lam Sơn đoán định rằng Vương Thông sau khi dò biết vị
trí đóng quân mới của quân ta sẽ mở cuộc hành quân nhằm bao vây, tiêu diệt quân ta ở Cao Bộ. 
Từ Ninh Kiều đánh lên Cao Bộ quân Minh phải hành quân theo 1 trong 2 con đường : 
- Đường thứ nhất : Ninh Kiều – Chúc Động – Tốt Động – Yên Duyệt – Cao Bộ. 
- Đường thứ 2 : Ninh Kiều – Chúc Động – Đại Ơn – Cao Bộ. 
Bỏ Ninh Kiều rút về Cao Bộ, nghĩa quân không những buộc Vương Thông phải bị động thay đổi 
kế hoạch tiến công mà còn dụ địch hành quân theo đường quân ta đã chọn và bố trí sẵn trận địa 
mai phục. Đây là kết quả lớn bước đầu trong nghệ thuật điều động địch của nghĩa quân Lam 
Sơn. 
Theo kế hoạch của Vương Thông, từ Ninh Kiều chúng sẽ chia làm 2 đạo : 
- Đạo Kỳ binh, có số quân ít, xuất kỳ bất ý đến phía sau doanh trại của ta ở Cao Bộ. Đạo quân 
này có nhiệm vụ đặt pháo ở phía sau quân ta rồi bất ngờ nổ pháo nhằm đánh lạc hướng quân ta 
và làm hiệu lệnh cho các cánh quân địch đồng thời đánh khép lại. 
- Đạo chính binh, tức đạo quân chủ lực do Vương Thông trực tiếp chỉ huy từ phía đông Ninh Kiều 
vượt sông Ninh Giang tiến đến phía trước căn cứ Cao Bộ. Đạo quân này có nhiệm vụ khi nghe 
pháo hiệu của đạo kỳ binh sẽ tiến công mãnh liệt vào mặt trước Cao Bộ. 
Dựa trên cơ sở nắm được kế hoạch hành quân cụ thể của Vương Thông, bộ chỉ huy nghĩa quân 
Lam Sơn quyết định bố trí 2 trận địa mai phục ở Tốt Động và Chúc Động trên đường tiến quân 
của địch nhằm đập tan hoàn toàn cuộc hành quân của chúng. 
Tốt Động được chọn làm trận địa mai phục chính của nghĩa quân, (xã Tụy An, huyện Chương 
Mỹ, tỉnh Hà Tây). Cánh đồng Tốt Động khá sâu và lầy lội, cỏ lác rậm rạp. Con đường “lai khinh” 
chạy ngang qua phía tây cánh đồng Tốt Động, ở giữa 2 thôn Tốt Động và Yên Duyệt. Đạo quân 
chủ lực của Vương Thông muốn tiến lên Cao Bộ phải theo con đường “lai khinh” qua cánh đồng 
Tốt Động rồi qua Yên Duyệt lên Cao Bộ. Nghĩa quân đã tận dụng vị trí và địa hình vùng Tốt Động 
bố trí 1 trận địa mai phục kỹ lưỡng, nhằm đánh qụy đạo quân chủ lực của Vương Thông 
Trận địa mai phục thứ 2 được bố trí ở vùng Chúc Động (thuộc xã Ngọc Sơn, Chương Mỹ, Hà 
Tây). Cánh đồng Chúc Động không lầy như Tốt Động, nhưng lại nằm ngay dưới chân núi Chúc 
Sơn sát bên núi Ngọc Giả và Ninh Sơn. Dòng sông Đáy chảy vòng sát chân núi Chúc Sơn và 
gân Chúc Động. Đây là 1 vùng địa hình phức tạp và hiểm yếu. Quân ta đã lợ dụng địa hình núi 
rừng ở vùng này để bố trí mai phục sẵn ở 2 bên đường. Cả 2 con đường từ Ninh kiều đến Cao 
Bộ đều phải men theo chân núi Ninh Sơn và Chúc Sơn đi qua vùng Chúc Động. 
Trận địa mai phục Chúc Động có nhiệm vụ phối hợp với trận địa chính Tốt Động nhằm đánh vào 
hậu quân của đạo chính binh Vương Thông, đồng thời chặn đường rút lui của cả 2 đạo quân 
địch rút chạy về Đông Quan. 
Cánh chính binh do Vương Thông chỉ huy có số lượng quân lớn, hành quân theo đội hình kéo 
dài. Khi tiền quân của chúng tới Tốt Động thì hậu quân mới vượt khỏi sông Ninh Giang tức lọt 
vào trận địa mai phục Chúc Động. Để tập trung binh lực ở mức cao nhất, nghĩa quân không rải 
quân ra đánh toàn bộ đội hình địch mà đánh vào tiền quân và hậu quân của chúng. Sự bố trí trận 
địa mai phục thể hiện rõ quyết tâm khóa chặt, tiêu diệt đạo quân Vương Thông. 
Đối với đạo kỳ binh của địch, nghĩa quân không đón đánh khí chúng tiến quân, mà chỉ chặc 
đường rút lui tiêu diệt tại Chúc Động. 
Đêm 6-11, công việc bố trí mai phục ở Tốt Động, Chúc Động được tiến hành 1 cách khẩn trương 
và bí mật. Quân địch đóng ở bên kia Ninh Kiều tuy cách Chúc Động không xa nhưng không hay 
biết gì về trận địa của quân ta 
Diễn biến : 
Theo kế hoạch đã vạch ra, sáng ngày 7-11, quân địch từ đông Ninh Kiều chia làm 2 đạo xuất 
phát tiến đánh nghĩa quân ở Cao Bộ. Khi đạo quân chủ lực do Vương Thông chỉ huy đến vùng 
Tốt Động thì quân ta bắn pháo hiệu đánh lừa địch. Quân địch nghe tiếng pháo tưởng là pháo 
hiệu của cánh kỳ binh vội đổ xô đi chiếm lấy những địa điểm thuận lợi theo hiệu lệnh trước lúc 
tiến quân. Việc nổ pháo hiệu của ta có tác dụng đánh lừa quân địch tiến sâu vào trận địa mai 
phục của quân ta. Trong khi đó, quân mai phục của ta vẫn “nằm yên không động”. 
Khi tiền quân của địch đã lọt vào trận địa mai phục ở Tốt động và hậu quân đã qua hết sông Ninh 
Giang, quân mai phục của ta mới nhất tề xông ra đánh mãnh liệt. 
Tại Tốt Động, 1 bộ phận lớn qâun địch đã bị quân ta và voi chiến dồn vào cánh đồng lầy lội rồi bị
chia cắt ra tiêu diệt hết lớp này đến lớp khác; đồng thời lúc ấy trời lại mưa to, cánh đồng Tốt 
Động và đường xá càng lầy lội. Hàng ngũ của địch rối loạn và hoảng hốt. Địch bị đánh bất ngờ
(kỵ binh và bộ binh) lại bị sa lầy nên mất hết khả năng chiến đấu. 
Từ những gò đất, lùm cây quân ta dùng giáo, lao, đặc biệt là cung nỏ giết chết hàng loạt quân 
địch. Tổng binh Vương Thông hoàn toàn bất lực trước cảnh hỗn loạn và khiếp sợ của quân lính. 
Bản thân Vương Thông cũng bị 1 mũi tên bắn bị thương cạnh sườn. Viên thượng thư bộ binh 
Trần Hiệp định tự sát nhưng bị quân ta xông tới chém chết. 
Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt khoảng 4-5 tiếng đồng hồ (từ 10 giờ đến 15 giờ ngày 7-11). Quân 
ta đã chặn đứng và đập nát bộ phận tiền quân của địch. Hàng vạn quân địch bỏ xác trên chiến 
trường Tốt Động. Vương Thông và bọn sống sót tìm đường tháo chạy về Ninh Kiều. 
Trong khi tiền quân đang bị giáng những đòn sấm sét bất ngờ ở Tốt Động thì trung quân và hậu 
quân của địch bị ùn lại trên quãng đường từ Tốt Động đến Chúc Động. Khi được tin tiền quân bị
thua và thấy bọn tàn binh hoảng hốt tháo chạy, trung quân và hậu quân cũng nhốn nháo tìm 
đường rút lui. Hiều khối quân địch ở đạo chính binh chưa bị đánh đã tan vỡ cả hàng ngũ và mất 
hết tinh thần chiến đấu. 
Đạo kỳ binh lúc bấy giờ đang trên đường tiến về phía sau Cao Bộ bỗng nhiên nghe tiếng súng nổ
ở Cao Bộ. Viên chỉ huy kinh ngạc vì tín hiệu đáng lẽ do cánh kỳ binh phát ra. Ngay sau đó cánh 
kỳ binh được tin khủng khiếp, tổng binh Vương Thông bị rơi vào trận địa mai phục ở Tốt Động, 
không thể tiến về phía trước Cao Bộ được. Biết đã mắc mưu quân ta, Vương Thông vội vã ra 
lệnh cho cánh kỳ binh chạy về Chúc Động. 
Đúng lúc đó, tại trận địa Chúc Động quân mai phục của ta lại vùng lên đánh những đòn quyết liệt 
vào cánh kỳ binh và hậu quân của cánh chính binh cùng với số thoát chết ở Tốt Động chạy về. 
Từ núi Ninh Sơn, Chúc Sơn và các cánh đồng 2 bên đường, quân ta xông ra chặn đánh ngang 
đường rút lui, chia cắt quân địch ra nhiều mảnh mà tiêu diệt. cầu Ninh Kiều lập tức bị quân ta phá 
hủy, và dòng sông biến thành chiến tuyến cản đường rút chạy của địch về Đông Quan. Hàng vạn 
quân địch bị giết và bị bắt. Bọn sống sót liều lĩnh vượt qua Ninh Giang bị chết đuối nhiều đến nỗi 
“ nước Ninh Kiều vì thế mà tắc nghẽn” (Đại Việt SKTT). Bọn tàn quân địch phải khó khăn lắm 
mới thoát chết cùng Vương Thông, Mã Kỳ, Phương Chính chạy vè Đông Quan. 
Chiến trận Tốt Động – Chúc Động, quân ta đã tiêu diệt trên 6 vạn quân địch, trong đó 5 vạn tên bị
giết, 1 vạn bị bắt. Binh bộ thượng thư Trần Hiệp và nội quan Lý Lượng, tướng Lý Đằng bị chém 
tại trận. Quân ta “ thu được ngựa, quân tư khí giới, xe cộ nhiều không kể xiết” (Đại việt SKTT) 
Diễn biến trận Tốt Động - Chúc Động 
------- 
Nghệ thuật chiến trận : 
Thắng lợi của trận phục kích Tốt Động – Chúc Động đã thể hiện 1 cách thành công của lối đánh 
“lấy ít địch nhiều, lấy yếu chống mạnh” của nghĩa quân Lam Sơn. Nghiên cứu diễn biến trận tập 
kích Tốt Động – Chúc Động chúng ta thấy rằng sự vận động và cơ động nhanh của nghĩa quân 
đã tạo ra những bất ngờ lớn cho quân địch và là 1 trong những nhân tố quân trọng giúp nghĩa 
quân khắc phục được điểm yếu về số lượng so với địch để giữ vững quyền chủ động tiến công 
và tiếu diệt địch. 
Chiến thắng Tốt Động – Chúc Động thể hiện Nghệ thuật chỉ đạo tác chiến, chiến thuật tài giỏi của 
nghĩa quân Lam Sơn. Nghĩa quân đã quán triệt tư tưởng quyết tâm tiêu diệt địch cao độ, là tinh 
thần chủ động, tích cực và liên tục tiến công, phát huy mọi chỗ mạnh của mình, nhằm đánh vào 
mọi chỗ yếu của địch mà đánh. 
Đứng trước 1 thách thức lớn, 1 cuộc hành quân quy mô của 10 vạn quân địch, nghĩa quân tuy ít 
hơn nhiều về số lượng, nhưng không nao núng tinh thần, kiên quyết giữ vững quyền chủ động 
tiến công để tiêu diệt địch. Quân địch tuy đông và hiếu chiến nhưng đã mất hết quyền chủ động 
chiến lược và phải tiến quân vào những khu vực ngoài dự kiến. 
Trong toàn bộ cuộc chiến, quân địch luôn bị nghĩa quân điều động và phải bị động đối phó từ đầu 
chí cuối. Mở đầu cuộc chiến, nghĩa quân đã nhử địch từ cầu thanh oai lên Cổ Lãm để đánh bại 
giữa cánh đồng lầy. Một đạo quân mạnh gần 10 vạn của Vương Thông cũng bị nghĩa quân điều 
từ Cổ Sở xuống Ninh Kiều rồi lại từ Ninh Kiều vào những trận địa mai phục ở Tốt Động – Chúc 
Động để bị tiêu diệt. Nghệ thuật điều động quân địch của nghĩa quân lam Sơn đã đạt đến mức 
hoàn hảo. Do bị điều động như vậy nên quân địch không phát huy được sức mạnh của chúng 
mà phải đánh theo cách đánh của ta, tại những chiến trường bất lợi nhất cho chúng do ta chọn 
sẵn. 
Nghệ thuật như địch và mai phục vận động đã được nghĩa quân sử dụng 1 cách tài tình và mưu 
trí. Quân Minh có sở trường lối đánh bao vây tiến công ào ạt và trận địa chiến. bằng cách đánh 
mai phục lợi hại của mình, nghĩa quân đón đánh 1 cách bất ngờ ngay trên đường hành quân của 
địch. Nghĩa quân không những khéo lợi dụng địa hình núi rừng ở Chúc Động mà còn sử dụng cả
địa bàn đầm lầy Tốt Động để bố trí trận địa mai phục. Với địa hình hiểm yếu, bộ binh và kỵ binh 
của địch bị dồn vào tình trạng sa lầy, không phát huy được sở trường, rồi bị chia cắt đội hình ra 
tiêu diệt. 
Trước khi vào cuộc chiến chiến lược Tốt Động – Chúc Động, toàn bộ lực lượng của ta tập trung 
về Cao Bộ. Để đảm bảo nguyên tắc tập trung binh lực ở mức cao nhất, nghĩa quân bố trí 2 trận 
địa mai phục Tốt Động – Chúc Động nhằm đánh vào tiền quân và hậu quân của đạo quân chủ
lực Vương Thông. Đạo kỳ binh và trung quân của đạo chủ lực tuy không bị đánh nhưng cũng bị
tan ra và tháo chạy. trên đường tháo chạy với tinh thần hoảng loạn đó, bộ phận quân địch này bị
chặn đánh ở Chúc Động. Như vậy là nghĩa quân vừa tập trung được lực lượng để giáng những 
đòn quyết định vào bộ phận chủ yếu của đạo quân chủ lực, vừa đảm bảo tiêu diệt đến mức cao 
nhất cả 2 đạo chính, kỳ của Vương Thông. 
Chiến thắng Tốt Động – Chúc Động biểu hiện ý chí và bản lĩnh chiến đấu của nghĩa quân, trình 
độ tổ chức và chỉ huy. Chiến thắng đó đã đưa cuộc chiến tranh giành độc lập dân tộc lên 1 giai 
đoạn phát triển mới 

File đính kèm:

  • pdfcac_tran_danh_quan_trong_trong_lich_su_viet_nam.pdf