Chuyên đề 5: Thơ 1954 – 1975 - vấn đề 4: Đất nước (nguyễn Khoa Điềm)

Tóm tắt Chuyên đề 5: Thơ 1954 – 1975 - vấn đề 4: Đất nước (nguyễn Khoa Điềm): ...inh thiêng và hùng vĩ của cảnh quan núi đồi trùng điệp. Đoạn thơ đã khái quát: “Và ở đâu trên khắp ruộng gò bãi núi sông ta” + Tác giả “nhìn vào bốn nghìn năm Đất Nước” không điểm lại các thời đại hào hùng như Nguyễn Trãi (trải từ Triệu, Đinh ) như Chế Lan Viên (nước Việt Nam nghìn năm ...hức tỉnh của thế hệ trẻ các thành thị miền Nam, và rộng ra, sự tự nhận thức của tuổi trẻ Việt Nam trong những năm chiến tranh này là đi đến sự lựa chọn quyết định: đứng về phía nhân dân, Tổ quốc, chia sẻ vận mệnh và trách nhiệm với dân tộc trong cuộc đấu tranh thiêng liêng để giải phóng và b...Đất nước của thơ chống Mĩ. a) Cách nhìn của tác giả về những thắng cảnh, về địa lí là một cách nhìn có chiều sâu và là một phát hiện mới mẻ (đoạn đầu của phần hai, từ “những người vợ nhớ chồng” đến “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”). “Những cảnh quan thiên nhiên kì thú (đá Vọng Phu, núi Co...

pdf8 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 246 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Chuyên đề 5: Thơ 1954 – 1975 - vấn đề 4: Đất nước (nguyễn Khoa Điềm), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 thơ đóng và khép của đoạn đầu tạo dựng được không khí. 
“Khi ta lớn lên” là thời điểm hiện tại “Đất nước đã có rồi” là thời gian quá khứ. 
“Đất nước có từ ngày đó”là đẩy đối tượng vào dòng thời gian hun hút xa xăm. Điều khẳng 
định về đất nước là “ Có rồi” “Có từ ngày đó” “Có trong những cái ngày xửa ngày xưa” 
Đất nước vừa cụ thể vừa huyền ảo. 
+ Tiếp đó là sự nhận cảm Đất nước từ các phương diện địa lý – lịch sử. Tác giả định 
nghĩa Đất nước không giống các nhà chuyên môn về lịch sử – địa lý đã đành mà cũng 
không định nghĩa theo hướng khái quát trong “ Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi. 
Tác giả chia cắt thành tố “ Đất”và “Nước”trong bản thân từ “ Đất nước”.Cách chiết 
từ này có thể dẫn tới sự giải thích sai lầm hoặc giản đơn hoá khái niệm. Nhưng tư duy nghệ 
thuật lại làm cho định nghĩa đất nước trở nên vô cùng sinh động và độc đáo ( đất nước đã 
được cụ thể hoá cao độ và đem đến một thông báo rất mới mẻ có tác động đến tình cảm 
thẩm mỹ cao). 
- Đất nước được cảm nhận trên phương diện không gian và thời gian, địa lý và lịch 
sử: 
Thời gian đằng đẵng 
Không gian mênh mông 
Từ huyền thoại: 
 Lạc Long Quân và Âu Cơ 
 Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng 
 Cho đến truyền thuyết vua Hùng và ngày giỗ Tổ ( 10 -3 âm lịch). 
Hàng năm ăn đâu làm đâu 
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ 
 ( Truyền thuyết vua Hùng đã được nhắc lại ở phần hai của bài thơ: Chín mươi chín 
con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương). 
 Kết hợp với sự khẳng định “Đã có rồi” ở trên kia, tác giả muốn nói lên bề dày, 
chiều sâu lịch sử của nước Việt nam chúng ta. 
Về mặt không gian địa lý đất nước không chỉ là núi rừng: 
 “Con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”không chỉ là biển cả: “Con cá ngư 
ông móng nước biển khơi” mà còn là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống mỗi người. 
Đất là nơi anh đến trường 
Nước là nơi em tắm 
 Đó là nơi nảy nở tình yêu lứa đôi. 
 Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm (một không gian rất nhỏ, 
chỉ có hai người biết, hai người hay). Đó cũng là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc 
qua bao nhiêu thời gian, bao nhiêu thế hệ: 
Những ai đã khuất 
Những ai bây giờ 
Yêu nhau và sinh con đẻ cái 
Gánh vác phần người đi trước để lại 
Dặn dò con cháu chuyện mai sau 
 Tác giả đã sử dụng những câu ca dao, những nội dung của truyền thuyết dân gian 
với một ngôn ngữ rất tự nhiên nhuần nhị. Chính vì thế mà những câu thơ vừa có cá tính 
sáng tạo mới mẻ vừa mang nét gần gũi thân thương. 
- Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn 
- Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm 
(Bài ca dao: “ Khăn thương nhớ ai, khăn rơi xuống đất”) 
+ Tìm giá trị của đất nước trên cái khoảng rộng của không gian và cái chiều dài 
chiều sâu của thời gian (một không gian có tính chất địa lý và một thời gian có tính chất lịch 
sử). Đất nước là sự thống nhất các phương diện văn hoá truyền thống, phong tục các đời 
thường hàng ngày và cái vĩnh hằng mãi mãi, giữa sự sống của cá thể và sự sống của cộng 
đồng 
Ý thơ tập trung vào tụ điểm cuối cùng của tư tưởng trong Phần một của bài thơ. 
Trong anh và em hôm nay 
Đều có một phần của đất nước 
Thì ra đất nước có trong mỗi cá nhân, đất nước kết tinh trong mỗi con người. Bởi vì 
mỗi cá nhân không chỉ là riêng mình mà còn là của đất nước. Mỗi cuộc đời đều thừa hưởng 
được những giá trị vật chất và tinh thần của dân tộc. Cho nên tác giả nhắn nhủ chúng ta phải 
có trách nhiệm với đất nước. Lời nhắn nhủ ấy là với “em”nên nó có tính chất tâm sự riêng 
tư không lên gân giả tạo theo kiểu “giáo huấn”. 
Em ơi em Đất nước là máu xương của mình 
Phải biết gắn bó và san sẻ 
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở 
Làm nên đất nước muôn đời 
3/ Phần thứ hai của bài thơ: 
Tư tưởng cơ bản của phần này là tư tưởng đất nước của nhân dân. 
+ Cách nhìn những thắng cảnh của địa lý có chiều sâu của sự phát hiện mới mẻ 
(Những người vợ  núi sông ta). 
- Cảnh thiên nhiên kỳ thú đã gắn bó máu thịt với đời sống dân tộc. Nó được những 
thế hệ, những lớp ngưới đi trước tiếp nhận và cảm thụ qua tâm hồn, qua cảnh ngộ của 
những hoàn cảnh, của những cuộc đời, của lịch sử dân tộc. Nếu không có người vợ chờ 
chồng trong những cuộc chiến tranh li tán thì không có Đá Vọng Phu. Nếu không có truyền 
thuyết vua Hùng dựng nước thì không cảm nhận được sự linh thiêng và hùng vĩ của cảnh 
quan núi đồi trùng điệp. 
Đoạn thơ đã khái quát: 
“Và ở đâu trên khắp ruộng gò bãi núi sông ta” 
 + Tác giả “nhìn vào bốn nghìn năm Đất Nước” không điểm lại các thời đại hào 
hùng như Nguyễn Trãi (trải từ Triệu, Đinh ) như Chế Lan Viên (nước Việt Nam nghìn 
năm Đinh, Lý, Trần, Lê, thành nước Việt nhân dân trong mát suối) mà nhấn mạnh đến vô 
vàn những con người vô danh. 
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi 
Họ đã sống và chết 
Giản dị và bình dân 
Không ai nhớ mặt đặt tên 
Nhưng họ đã làm ra Đất nước 
 + Tư tưởng cốt lõi và tụ điểm là ở phần cuối. 
“Đất nước này là Đất nước nhân dân” 
 - Vì là của nhân dân nên nó là “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Đây là một định 
nghĩa giản dị mà khá độc đáo. 
 - Tác giả chọn ba dẫn chứng trong ca dao thần thoại để nói về truyền thống của nhân 
dân, của dân tộc. 
 + “Yêu em từ thuở trong nôi” tức là tình yêu rất đắm say. 
 “Biết quí công cầm vàng” là biết quí trọng tình nghĩa. 
 “Biết trông trẻ” nhắc tới tích Thánh Gióng để nói đến sự quyết liệt trong căm thù 
và trong chiến đấu. (Huy Cận đã từng phát hiện đức tính có vẻ như đối lập này của dân tộc 
Việt Nam: 
“Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa 
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng 
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa” 
 Mặc dầu bốn ngàn năm chưa hề ngơi tắt ngọn lửa chiến tranh, nhiệm vụ chiến đấu 
luôn luôn sẵn sàng trong mọi thế hệ người Việt. Cái gì đã tạo cho nước Việt Nam tồn tại mà 
không xóa nhòa bản sắc của mình? Cái gì đã tạo cho con người Việt Nam có một truyền 
thống văn hiến rực rỡ? Chính là Nhân dân Việt Nam đã sống rất đôn hậu, đời thường, sống 
giàu tình nghĩa ngay cả những khi hoàn cảnh lịch sử phá vỡ đời sống bình thường đó. Dân 
Việt Nam phản ứng quyết liệt khi có kẻ thù nhưng họ không phải là kẻ hiếu chiến: “Trồng 
tre” là để tự vệ chứ không phải ưa đổ máu! 
 + Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” đã có từ rất lâu. Đến những vần thơ của 
Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm đã hình thành rất rõ. Nhưng đến thời kỳ chống Mĩ tư 
tưởng này được Nguyễn Khoa Điềm nhận thức sâu sắc hơn, thắm thía hơn bởi vai trò cũng 
như sự đóng góp hi sinh vô bờ bến của nhân dân trong cuộc chiến tranh lâu dài và ác liệt 
này. 
 4/ Đất nước là bài thơ trữ tình – chính luận: 
 Nó có sự kết hợp hai yếu tố hữu cơ cho nên làm tập trung và nổi rõ tư tưởng của tác 
giả. 
 + Tác giả thành công trong việc tạo ra không khí giọng điệu, không gian và thời gian 
thích hợp để đưa vào thế giới gần gũi, bay bỗng của ca dao dân ca, của truyền thuyết và đời 
sống văn hóa của dân tộc. Đồng thời cũng cảm nhận một tư duy mới mẻ và hiện đại trong 
những câu thơ phóng khoáng, tự do (điều đặc biệt là bài thơ rất ít vần, nó có “chất thơ” nhờ 
vào việc xây dựng hình ảnh, vào giọng điệu trầm bổng và chuyển đổi). 
 + Tuy nhiên nhiều chỗ chất trữ tình và chính luận không kéo dính với nhau khiến 
cho khi bài thơ khá nặng nề, khi thì cảm xúc tràn lan dường như không kiểm soát được. 
 Nhiều chỗ còn trùng lặp, dàn trải, nhiều hình ảnh và cách lí giải chưa thật sự mới mẻ 
và sâu sắc. 
B. LUYỆN TẬP 
 Đề 1: Phân tích đoạn trích “Đất nước” (Trích trường ca Mặt đường khát vọng) của 
Nguyễn Khoa Điềm). 
* Gợi ý 
I. Nguyễn Khoa Điềm là một trong những bài thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ những năm chống 
Mĩ – thế hệ có những đóng góp nổi bật vào thơ ca Việt Nam những năm này, đã đem đến 
cho thơ tiếng nói trữ tình của tuổi trẻ (Lê Anh Xuân, Nguyễn Mỹ, Bằng Việt, Xuân Quỳnh, 
Vũ Quần Phương, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hữu 
Thỉnh v.v). Trong thơ của lớp nhà thơ này nổi bật lên sự tự ý thức của tuổi trẻ về vai trò, 
trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu và sự tự ý thức sâu sắc về đất nước, về nhân dân 
qua những trải nghiệm của chính mình. 
 - Trong thơ thời chống Mĩ, chủ đề Đất nước vốn là chủ đề bao trùm. Những cảm 
nhận về Đất nước của các nhà thơ trẻ thời kỳ này có những nét riêng biệt mang dấu ấn của 
sự trải nghiệm bằng chính cuộc sống của mình. Đặc biệt ở thơ, những cây bút trực tiếp cầm 
súng (Tre Việt Nam của Nguyễn Duy, Lửa đèn của Phạm Tiến Duật, trường ca Những 
người đi tới biển của Thanh Thảo, Đường tới thành phố của Hữu Thỉnh) 
 - Trong sự cảm nhận về Đất nước của các nhà thơ trẻ chống Mĩ cốt lõi là tư tưởng về 
nhân dân: Nhân dân là người tạo dựng nên Đất nước, là người gánh chịu những gian lao làm 
nên chiến công vĩ đại mà hết sức thầm lặng, vô danh. 
“Đất nước” là chương V trong trường ca Mặt đường khát vọng: sự thức tỉnh của 
thế hệ trẻ các thành thị miền Nam, và rộng ra, sự tự nhận thức của tuổi trẻ Việt Nam trong 
những năm chiến tranh này là đi đến sự lựa chọn quyết định: đứng về phía nhân dân, Tổ 
quốc, chia sẻ vận mệnh và trách nhiệm với dân tộc trong cuộc đấu tranh thiêng liêng để giải 
phóng và bảo vệ Đất nước. 
Cái riêng biệt, độc đáo của đoạn thơ này là sự cảm nhận, phát hiện về Đất nước 
trong một cái nhìn tổng hợp, toàn vẹn, mang đậm tư tưởng nhân dân, sử dụng phong phú 
các yếu tố của văn hóa, văn học dân gian một cách sáng tạo và rất thích hợp với tư tưởng 
nhân dân của tác phẩm 
II. PHÂN TÍCH: 
 1/ Cảm nhận về Đất nước: 
 a) Đoạn thơ về Đất nước bắt đầu một cách rất bình dị, tạo một sự gần gũi, thân thiết 
mà không bắt đầu một cách trang trọng. Đất nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình 
chúng ta, từ lời kể chuyện của người mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục tập quán quen 
thuộc (tóc mẹ thì bới sau đầu) cho đến tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo ta ăn hàng 
ngày, cái kèo cái cột trong nhà Tất cả những điều đó làm cho Đất nước trở thành cái gần 
gũi, thân thiết, bình dị trong cuộc sống hằng ngày của con người: 
“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi 
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày 
xưa mẹ thường hay kể. 
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn 
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. 
 b) Tiếp đó là sự cảm nhận Đất nước từ các phương diện địa lý – lịch sử. Tác giả khai 
thác các thành tố của Đất nước. Việc tìm về từ gốc của từ Đất nước là để khai thác cách 
quan niệm có nét riêng biệt của dân tộc ta về khái niệm này. Ở nhiều ngôn ngữ khác, Đất 
nước thường được cấu tạo từ những gốc là nơi sinh, quê hương Nhưng trong tiếng Việt, 
Đất nước gồm hai yếu tố hợp thành “Đất” và “Nước”. Cách truy tìm từ gốc, cách “chiết tự” 
có thể dẫn đến nguy cơ hiểu sai lạc ý nghĩa, hoặc máy móc giản đơn khi giải thích các khái 
niệm khoa học. Nhưng ở đây, tư duy nghệ thuật cho phép cách phân tích và cảm nhận theo 
các phương diện không gian và thời gian, địa lý và lịch sử (Thời gian đằng đẳng – Không 
gian mênh mông). Từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương và 
ngày giỗ Tổ đã nói lên chiều sâu lịch sử của Đất nước Việt Nam. Về mặt không gian địa lí, 
Đất nước không chỉ là núi sông, rừng bể (con chim Phượng Hoàng con cá Ngư Ông,) 
mà còn là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống mỗi người. “Đất là nơi anh đến trường, 
Nước là nơi em tắm. Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” – Và 
cũng là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ (Những ai đã khuất. 
Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần người đi trước để lại. Dặn 
dò con cháu chuyện mai sau). 
 Tác giả sử dụng sáng tạo các yếu tố của ca dao, truyền thuyết dân gian. Có lúc lấy 
lại từng phần của câu ca dao, nhưng phần nhiều là sử dụng ý, hình ảnh tạo nên hình tượng 
thơ mới, vừa gần gũi vừa mới mẻ (cha mẹ thương nhau bằng rừng cay muối mặn Đất 
nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm) 
 Ở trên chiều rộng của không gian địa lí và chiều dài của thời gian lịch sử. Đất nước 
được cảm nhận như sự thống nhất các phương diện văn hóa, truyền thống, phong tục, cái 
hàng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống mỗi cá nhân và cả cộng đồng 
 c) Đến đây, ý thơ dẫn đến điểm tập trung những suy nghĩ, cảm xúc về Đất nước, 
cũng là điểm mấu chốt của tư tưởng, phần một của bài: 
“Trong anh và em hôm nay – Đều có một phần Đất nước” 
 Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh, hóa thân trong cuộc sống của mỗi con người. 
Sự sống mỗi cá nhân không chỉ là riêng của cá nhân mà còn là của Đất nước, bởi mỗi cuộc 
đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc, của nhân 
dân, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp 
theo. 
 Đoạn thơ kết thúc bằng một lời nhắn nhủ với thế hệ trẻ về trách nhiệm với đất nước, 
tuy là đoạn thơ chính luận nhưng người đọc không cảm thấy là những lời “giáo huấn” mà 
chỉ như một lời tự nhủ, tự dặn mình, chân thành, tha thiết 
“Em ơi em, Đất nước là máu xương của mình 
Phải biết gắn bó và san sẻ 
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở 
Làm nên đất nước muôn đời” 
 2/ Tư tưởng Đất nước của nhân dân 
 Tư tưởng cơ bản của phần này là tư tưởng Đất nước của nhân dân. 
 Đây là điểm qui tụ mọi cách nhìn về Đất nước trong phần này, cũng là đóng góp của 
Nguyễn Khoa Điềm làm sâu sắc thêm ý niệm về Đất nước của thơ chống Mĩ. 
a) Cách nhìn của tác giả về những thắng cảnh, về địa lí là một cách nhìn có chiều 
sâu và là một phát hiện mới mẻ (đoạn đầu của phần hai, từ “những người vợ nhớ chồng” 
đến “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”). “Những cảnh quan thiên nhiên kì thú (đá 
Vọng Phu, núi Con Cóc, núi Con Gà hay hòn Trống Mái v.v) gắn liền với con người, 
được tiếp nhận, cảm thụ qua tâm hồn và lịch sử dân tộc. Nếu không có người vợ chờ chồng 
qua các cuộc chiến tranh và li tán thì cũng không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu, cũng 
như thế nếu không có truyền thuyết Hùng Vương dựng nước thì cũng không thể có sự cảm 
nhận như vậy về vẻ hùng vĩ của vùng núi đồi xung quanh đền vua Hùng) Đoại thơ bằng 
cách qui nạp hàng loạt hiện tượng để đưa đến một khái niệm sâu sắc: “Và ở đâu trên khắp 
ruộng đồng gò bãi, chẳng mang một hình dáng, một ao ước, một lối sống ông cha. Ôi đất 
nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy, những cuộc đời đã hóa núi sông ta) 
b) Khi nghĩ về bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không điểm lại các triều đại, 
các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh đến vô vàn những con người vô danh, bình dị: 
Có biết bao nhiêu người con gái con trai 
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi 
Họ đã sống và chết, 
Giản di và bình tâm 
Không ai nhớ mặt đặt tên 
Nhưng họ đã làm ra Đất nước 
Tiếp đó bài thơ khai triển thêm ý này: Những con người vô danh và bình dị ấy đã 
giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất 
của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã tên 
làng Họ cũng là những người khi “có ngoại xâm thì chống ngoại xâm, có nội thù thì vùng 
lên đánh bại” 
“Họ đã giữ và truyền cho ta hạt giống ta trồng 
Họ truyền lửa cho mỗi nhà, từ hòn than qua rơm con củi 
Họ truyền giọng điệu của mình cho con tập nói 
Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi cuộc di dân” 
 Nói đến Đất nước và dân tộc là nói đến lãnh thổ chủ quyền và văn hóa. Nhưng tất cả 
các giá trị đó lại được tạo nên bởi người, bởi nhân dân. Trong từng tấc đất, từng di tích lịch 
sử, từng câu hò xứ sở, quan họ quê hương đâu đâu cũng hiện lên bóng dáng nhân dân – 
giá trị cao nhất trong mỗi giá trị – “Nhân dân vô danh nhưng thật là vĩ đại – Họ đã làm ra 
mọi của cải giá trị vật chất tinh thần, làm ra đất nước”. 
 c) Mạch suy nghĩ của bài thơ dẫn đến tư tưởng cốt lõi. Điểm hội tụ và cũng là cao 
điểm của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn trích này. “Đất nước này là Đất nước của Nhân dân” 
Cũng từ điểm này chúng ta hiểu thêm những ý thơ trên. Và khi nói đến Đất nước của Nhân 
dân, một cách tự nhiên, tác giả trở về với nguồn phong phú đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân 
gian mà tiêu biểu là trong ca dao. Vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm 
thấy ở đó trong ca dao, dân ca, truyện cổ tích. “Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca 
dao thần thoại”. Câu thơ ở hai vế song song, đồng đẳng là một cách định nghĩa về Đất 
nước thật giản dị mà cũng thật độc đáo. Trong cả kho tàng ca dao, dân ca, ở đây tác giả 
chỉ chọn lọc ba câu để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, 
dân tộc: thật say đắm trong tình yêu (yêu em từ thuở trong nôi) quý trọng tình nghĩa (quý 
công cầm vàng những ngày lặn lội) nhưng cũng thật quyết liệt trong căm thù và chiến đấu 
(trồng tre đợi ngày thành gậy, đi trả thù mà không sợ dài lâu) 
 Chúng ta gặp lại cách vận dụng vốn ca dao dân ca một cách sáng tạo, không lặp lại 
nguyên văn mà chỉ sử dụng ý và hình ảnh của câu ca dao, vẫn gợi nhớ đến câu ca dao nhưng 
lại trở thành một câu, một ý thơ gắn bó trong mạch thơ của bài. 
 Tư tưởng Đất nước của Nhân dân thật ra đã có manh nha từ trong lịch sử xa xưa. 
Những nhà tư tưởng lớn, những nhà văn lớn dân tộc đã từng nói lên nhận thức về vai trò của 
nhân dân trong lịch sử (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu) hoặc cảm thông 
sâu sắc với số phận của nhân dân, của mọi lớp người trong nhân dân (Nguyễn Du với văn 
Chiêu hồn, Truyện Kiều). Đến nền văn học hiện đại, được soi sáng bằng tư tưởng xã hội 
chủ nghĩa, bằng quan điểm Mác-xít về nhân dân và nảy nở từ trong thực tiễn vĩ đại của cuộc 
cách mạng mang tính nhân dân sâu sắc, văn học từ sau Cách mạng Tháng Tám đã đạt đến 
một nhận thức sâu sắc về nhân dân và cảm hứng về đất nước mang tính dân chủ cao. (Thơ 
ca kháng chiến chống Pháp là một ví dụ tiêu biểu. Có thể nhớ đến các bài: Tình sông núi 
của Trần Mai Ninh, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Bên kia sông Đuống của Hoàng 
Cầm). Đến giai đoạn chống Mỹ, tư tưởng Đất nước của Nhân dân một lần nữa được nhận 
thức sâu sắc thêm bởi vai trò và những đóng góp to lớn, những hi sinh vô vàn của nhân dân 
trong cuộc chiến tranh dài lâu và cực kỳ ác liệt này. 
 Tư tưởng ấy được các nhà thơ trẻ chống Mỹ phát biểu một cách thấm thía qua sự trải 
nghiệm của chính mình như những thành viên của nhân dân, cùng chia sẻ mọi gian lao, hi 
sinh và được che chở, đùm bọc, nuôi dưỡng của nhân dân (Hơi ấm ổ rơm của Nguyễn Duy, 
các trường ca Những người đi tới biển của Thanh Thảo và Đường tới thành phố của Hữu 
Thỉnh đều tập trung nói về những gương mặt của các con người bình thường, vô danh trong 
nhân dân và không phải ngẫu nhiên mà đều bắt đầu bằng hình ảnh người mẹ). 
Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm góp thêm một thành công trong dòng thơ về Đất 
nước thời chống Mỹ, làm sâu sắc thêm nhận thức về Nhân dân và Đất nước. 
Kết luận: Thành công của bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm còn là việc tạo ra 
một không khí, một giọng điệu, một không gian nghệ thuật riêng. “Đất nước” đưa ta vào thế 
giới gần gũi, mỹ lệ và bay bổng của ca dao, truyền thuyết ,của văn hóa dân gian nhưng lại 
mới mẻ, qua cảm nhận và tư duy hiện đại ,qua hình thức thơ tự do. Đó chính là nét đặc sắc 
thẩm mỹ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần 
thoại” của bài thơ. 
Đất nước là đoạn thơ trữ tình – chính luận. Chất chính luận ở đây cũng như trong 
toàn trường ca “Mặt đường khát vọng” là nằm trong ý đồ tư tưởng của tác giả: thức tỉnh tinh 
thần dân tộc của thế hệ trẻ thành thị miền Nam, để dứt khoát trong sự lựa chọn đúng về phía 
nhân dân và cách mạng, trong lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt. Đoạn 
thơ thể hiện được chỗ mạnh của thơ Nguyễn Khoa Điềm: kết hợp cảm xúc và suy nghĩ, 
chính luận và trữ tình. Tuy nhiên, nhược điểm của đoạn thơ này cũng khá rõ: chính luận có 
chỗ còn nặng nề, lấn áp cảm xúc, nhiều ý triển khai còn trùng lặp, dàn trải trong mỗi đoạn 
chưa thật cô đọng để gây ấn tượng tập trung, thêm nữa nội dung chính luận không phải chỗ 
nào cũng mới mẻ và sâu sắc. 
Đề 2: Bình giảng: 
 a) “Và ở đâu  núi sông ta” 
 b) “Trong anh và em  muôn đời” 
(Học sinh tự soạn) 
* * * 

File đính kèm:

  • pdfchuyen_de_5_tho_1954_1975_van_de_4_dat_nuoc_nguyen_khoa_diem.pdf