Công nghiệp dệt may tại thành phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt Công nghiệp dệt may tại thành phố Hồ Chí Minh: ...c 2,756% Cao đẳng 2,434% Trung cấp 5,263% Sơ cấp 85,52% Hình 1: Cơ cấu trình độ lao động ngành Dệt may thành phố Hồ Chí Minh Từ số liệu về cơ cấu lao động cho thấy: Chất lượng lao động của ngành dệt may thành phố Hồ Chí Minh còn ở mức thấp, với tỷ trọng lao động trình độ sơ cấp chiếm tới...ngạch chiếm khoảng 16,5% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của EU. Thị trường nội địa: Hàng may mặc của các doanh nghiệp ngành dệt may thành phố không chỉ cung cấp cho thị trường thành phố mà còn được tiêu thụ rộng khắp trong thị trường cả nước. Những khó khăn về xuất khẩu trong thời g...ong khuôn khổ của ASEAN như ACFTA, AKFTA, ASEAN-Úc-Niu Di-lân, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,). Theo các FTA này, 94% kim ngạch xuất khẩu của ta sang Nhật Bản đã được miễn thuế từ năm 2009, gần 100% hàng xuất khẩu sang ASEAN không phải chịu thuế từ năm 2010. Trung Quốc, Hàn Quốc cũng cam kết bãi...
uồn nguyên liệu vải từ trong nước. - Thị trường tiêu thụ sản phẩm: Thị trường xuất khẩu: Hoa Kỳ luôn là đối tác nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất, chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm dệt may. Mặt hàng có kim ngạch lớn nhất là áo các loại (áo bó, áo chui đầu, áo cài khuy (Cardigans), gi-lê và các mặt hàng tương tự khác). Kim ngạch xuất khẩu năm 2011 khoảng 977,8 triệu USD, chiếm khoảng 10% kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của Hoa Kỳ. EU là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ hai, chiếm khoảng 18% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hàng dệt may. Mặt hàng áo sơ mi nam và trẻ em có kim ngạch lớn nhất, chiếm khoảng 1,7% tổng kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này của EU năm 2011. Nhật Bản là thị trường nhập khẩu hàng dệt may lớn thứ ba. Các mặt hàng khăn (trong phòng vệ sinh và khăn nhà bếp) được làm từ vải dệt vòng lông hoặc các loại vải dệt vòng lông tương tự từ bông có kim ngạch lớn nhất trong nhóm hàng dệt may, kim ngạch chiếm khoảng 16,5% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của EU. Thị trường nội địa: Hàng may mặc của các doanh nghiệp ngành dệt may thành phố không chỉ cung cấp cho thị trường thành phố mà còn được tiêu thụ rộng khắp trong thị trường cả nước. Những khó khăn về xuất khẩu trong thời gian qua đã khiến nhiều doanh nghiệp của ngành cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư mạnh phục vụ cho thị trường nội địa. Nỗ lực cạnh tranh với các nước xuất khẩu để dành lấy phần thị trường đang bị co hẹp. Việc đẩy mạnh chiếm lĩnh thị trường nội địa là chiến lược hành động thành công của hầu hết các doanh nghiệp dệt may thành phố. Các doanh nghiệp lớn của thành phố đều có hệ thống bán hàng trong các cửa hàng lớn, các siêu thị trên hầu hết các địa phương trên cả nước và sản phẩm có sức cạnh tranh cao đối với các sản TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ & THỰC PHẨM SỐ 02/2014 57 phẩm cùng loại. Đối với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhỏ thông qua các hệ thống chợ, các cửa hàng bán lẻ để tiêu thụ sản phẩm với giá sản phẩm tương đối rẻ, kiểu dáng mẫu mã thay đổi nhanh, có thể cạnh tranh với các sản phẩm giá rẻ cùng loại của một số nước trong khu vực, đáp ứng khá tốt cho phân khúc thị trường giá rẻ của thành phố cũng như nhiều địa phương xung quanh và cả nước. 3. Đánh giá hiện trạng và tổng hợp kết quả của ngành dệt may thành phố Hồ Chí Minh 3.1. Những kết quả đạt được Trong các giai đoạn phát triển, ngành công nghiệp dệt may thành phố Hồ Chí Minh luôn duy trì tốc độ tăng trưởng khá cao, sản phẩm của ngành có vị trí quan trọng, có giá trị sản xuất lớn trong tổng thể giá trị sản xuất ngành dệt may của khu vực và cả nước. Tỷ trọng trong ngành công nghiệp giữ ổn định khoảng 12% trong suốt giai đoạn 2005-2012, chỉ đứng sau các ngành chế biến thực phẩm, đồ uống, hóa chất, cơ khí. Nhiều cơ sở sản xuất đã được đầu tư mở rộng quy mô, nâng cao năng suất lao động. Khu vực kinh tế tư nhân phát triển sôi động, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư, nhiều hoạt động sản xuất phong phú. Xuất hiện một số doanh nghiệp tư nhân có năng lực tốt, sản xuất có hiệu quả, thương hiệu mạnh và thị trường ổn định có uy tín trong và ngoài nước. Nhiều doanh nghiệp trong ngành đã xây dựng được mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các nhà nhập khẩu và tập đoàn tiêu thụ lớn trên thế giới. Có nhiều bạn hàng gắn bó lâu dài và một số thị trường xuất khẩu ổn định. Năm 2011, ngành đã tạo việc làm cho gần 424.000 lao động, chiếm gần 30,4% lao động toàn ngành công nghiệp thành phố với mức thu nhập bình quân khoảng 4-4,5 triệu đồng/người/tháng. Nộp ngân sách của các doanh nghiệp dệt may thành phố tăng đều hàng năm. Tỷ suất lợi nhuận/doanh thu cũng tăng hàng năm, đến 2010 đạt 2,7%. Mặc dù tỷ suất này vẫn là thấp so với toàn ngành công nghiệp thành phố và so với một số ngành công nghiệp khác, nhưng đã cho thấy, hoạt động của ngành dệt may, từng bước đã có những hiệu quả trong sản xuất và kinh doanh. 3.2. Khó khăn Sự phụ thuộc gần như hoàn toàn vào thị trường nhập khẩu các nguyên phụ liệu sản xuất chủ yếu như bông, xơ, thuốc nhuộm trong điều kiện mặt bằng giá thế giới luôn biến động và có nhiều rủi ro là một trong những khó khăn lớn cần được tháo gỡ, nếu như muốn toàn ngành dệt may của thành phố phát triển ổn định, bền vững và có tính cạnh tranh cao. Giá cả nguyên vật liệu có xu hướng tăng hàng năm và chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu giá thành (trong khi giá thành sản phẩm làm ra phải ổn định) ảnh hưởng nhiều đến chi phí, lợi nhuận và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất cũng như hoạt động chung của toàn ngành. Năng suất lao động của ngành đạt mức thấp so với mức trung bình của công nghiệp thành phố (duy trì khoảng 70 triệu đồng/lao động/năm chỉ bằng 41% so với mức trung bình của toàn ngành công nghiệp thành phố). TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ & THỰC PHẨM SỐ 02/2014 58 Ngành dệt may chỉ phù hợp với các trung tâm công nghiệp có nguồn lao động đồng đều tay nghề ổn định. Sản phẩm may mặc phần lớn sản xuất theo phương thức gia công, công tác thiết kế mẫu, mốt chưa phát triển, tỷ lệ làm hàng theo phương thức FOB, ODM thấp, hiệu quả sản xuất hạn chế. Sản xuất hàng dệt nhuộm chất lượng chưa cao, không đáp ứng được nguyên liệu đa dạng cho sản xuất may, dẫn đến giá trị gia tăng chưa cao. 3.3. Thách thức Ngành dệt may của Việt Nam nói chung và của Tp.HCM nói riêng đang phải đương đầu với những thách thức không nhỏ. Một mặt, xuất phát điểm của ngành dệt may Việt Nam còn thấp, công nghiệp phụ trợ chưa thực sự phát triển, nguyên phụ liệu chủ yếu nhập khẩu, tỷ lệ gia công cao, năng lực cạnh tranh còn yếu hơn các nước trong khu vực và thế giới Sau khi gia nhập WTO, ngành dệt may của Việt Nam nói chung và Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng chịu áp lực rất lớn về việc tuân thủ các quy định và cam kết quốc tế. Tuy được dỡ bỏ hạn ngạch vào thị trường Hoa Kỳ song Việt Nam lại chịu cơ chế giám sát dệt may của Hoa Kỳ và nguy cơ phía Hoa Kỳ tự khởi kiện điều tra bán phá giá, Việt Nam phải chấm dứt một số cơ chế hỗ trợ ngành dệt may; các Hiệp định và quy định của WTO nói chung còn rất phức tạp với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam; các doanh nghiệp còn chịu áp lực của nhiều rào cản kỹ thuật như: CSR, SA 8000, xử lý rác thải Reach, TBT. Áp lực cạnh tranh đã đặt các doanh nghiệp dệt may trước nguy cơ tụt hậu trên cả thị trường quốc tế và trong nước khi bộc lộ một loạt điểm yếu về khâu dệt - nhuộm - hoàn tất, ngành công nghiệp phụ trợ, năng lực thiết kế, đào tạo nguồn nhân lực, khả năng nắm bắt và đáp ứng các quy định quốc tế trong WTO và FTA, đặc biệt là quy tắc xuất xứ hàng dệt may. Mặt khác, môi trường chính sách còn chưa đồng bộ và thuận lợi. Bản thân các văn bản pháp lý của Việt Nam còn đang trong quá trình hoàn thiện, trong khi năng lực của cán bộ thực thi chính sách và tham gia xúc tiến thương mại còn yếu, đặc biệt hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ và kỹ năng giao tiếp. Bản thân các thị trường lớn cũng vận dụng nhiều rào cản về kỹ thuật, vệ sinh, an toàn, môi trường, trách nhiệm xã hội nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Các rào cản thương mại và môi trường xã hội này đã và đang được vận dụng ngày càng linh hoạt và tinh vi hơn tạo ra rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp ngành Dệt may Việt Nam đang trong quá trình hội nhập, đặc biệt là trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay. Xu hướng phát triển kinh tế dựa trên nguồn lao động trình độ thấp, tiền lương rẻ đã bắt đầu gặp nhiều khó khăn trên quy mô cả nước. Do đó đòi hỏi sự phát triển bền vững trong tương lai của các doanh nghiệp nói riêng và toàn ngành Dệt may thành phố nói chung, phải hướng tới sản xuất các sản phẩm giá trị gia tăng cao, tham gia nhiều hơn vào các khâu của chuỗi giá trị, tiến tới tạo chuỗi giá trị khép kín, đồng thời bảo đảm thu nhập, phúc lợi cho người lao động ngày càng tốt hơn. Các cơ sở sản xuất trong nội thành thành phố gặp nhiều khó khăn về xử lý môi trường, điều kiện vận tải hàng hóa ra vào không thuận lợi, thuế đất cao, phải cạnh tranh gay gắt về nguồn nhân lực, khó tuyển dụng. TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ & THỰC PHẨM SỐ 02/2014 59 3.4. Cơ hội phát triển Việc hội nhập ngày càng sâu rộng hơn, vào nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp của thành phố tiếp cận thị trường tốt hơn cho hàng dệt may. Việt Nam là thành viên của WTO, đồng thời đã tham gia ký kết và thực thi nhiều hiệp định thương mại tự do quan trọng ở cả cấp độ song phương (như Hiệp định đối tác thương mại Việt- Nhật) và đa phương (như các hiệp định trong khuôn khổ của ASEAN như ACFTA, AKFTA, ASEAN-Úc-Niu Di-lân, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,). Theo các FTA này, 94% kim ngạch xuất khẩu của ta sang Nhật Bản đã được miễn thuế từ năm 2009, gần 100% hàng xuất khẩu sang ASEAN không phải chịu thuế từ năm 2010. Trung Quốc, Hàn Quốc cũng cam kết bãi bỏ thuế nhập khẩu cho 90% số dòng thuế từ năm 2010. Với Ôxtrâylia và Niu Di-lân, tỷ lệ tương ứng là 96,4% và 85%. Đến năm 2018, 100% hàng xuất khẩu của ta sang Ôxtrâylia và Niu Di-lân sẽ không phải chịu thuế nhập khẩu. Với Ấn Độ, từ năm 2010, 75% số dòng thuế đã về 0% và tới năm 2016 sẽ nâng lên thành 90% số dòng thuế. Như vậy, đại đa số các mặt hàng mà Việt Nam có thế mạnh như dệt may, giày dép, sẽ có cơ hội gia tăng xuất khẩu trên các thị trường này. Triển vọng thương mại giữa Việt Nam và Nga, Belarus, Kazakhstan là rất lớn, Nga là thị trường truyền thống của hàng dệt may Việt Nam; việc Nga đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) từ tháng 8/2012 đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang Nga, Belarus và Kazakhstan (là ba thành viên của Liên minh Hải quan Nga, Belarus và Kazakhstan), liên minh này bắt đầu áp dụng bộ luật hải quan thống nhất từ ngày 1/7/2011, nên hàng hóa nhập khẩu từ bên ngoài vào một trong ba nước này được tự do lưu chuyển trên toàn lãnh thổ của Liên minh. Do vậy, nếu biết cách tiếp cận và khai thác, thì đó sẽ là thuận lợi lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Hơn nữa, trong quý I/2013, Việt Nam và Nga, Belarus, Kazakhstan sẽ tiến hành đàm phán hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa các bên. Ngành Dệt may đã được EU và Canada xóa bỏ chế độ hạn ngạch, được Hoa Kỳ dỡ bỏ hạn ngạch và hưởng thuế MFN vĩnh viễn vào thị trường Hoa Kỳ, ngành dệt may bước vào giai đoạn phát triển với khả năng tiếp cận thị trường dệt may thế giới bình đẳng với các quốc gia xuất khẩu khác. Ngoài ra, dòng vốn đầu tư nước ngoài cũng theo đó đổ dồn vào Việt Nam tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dệt may có cơ hội nâng cao chất lượng và số lượng sản phẩm. Việt Nam có khả năng tham gia Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) và lợi thế xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường lớn như Mỹ, Canada, Mexico Những cam kết của Việt Nam đối với cải cách và phát triển kinh tế đã tạo được sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, mở ra những thị trường mới và các quan hệ hợp tác mới. Hơn nữa, bản thân thị trường nội địa có số dân gần 90 triệu người, với mức sống ngày càng được nâng cao, đang thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Sản xuất các sản phẩm xơ, sợi, dệt, may đã và đang chuyển dịch mạnh sang các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, qua đó tạo thêm cơ hội và nguồn lực mới cho các doanh nghiệp TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ & THỰC PHẨM SỐ 02/2014 60 dệt may thành phố về tiếp cận nguồn vốn, thiết bị, công nghệ sản xuất, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, lao động có kỹ năng từ các nước phát triển. Thành phố Hồ Chí Minh là một thị trường lớn cho các mặt hàng may mặc, kể cả các mặt hàng trung và cao cấp. Là nơi giao thương lớn nhất trên cả nước về các hoạt động kinh tế, nên các doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận mở rộng quan hệ với các đối tác nước ngoài để mở rộng thị trường hàng may mặc xuất khẩu, cũng như thị trường nhập khẩu nguyên phụ liệu. Đã tạo được môi trường cạnh tranh lành mạnh, giữa các doanh nghiệp nhà nước với các doanh nghiệp tư nhân và đầu tư nước ngoài, đây cũng là một động lực quan trọng, thúc đẩy ngành Dệt may của thành phố phát triển trong tương lai. 4. Định hướng phát triển và giải pháp tăng trưởng của ngành Dệt may Việt Nam 4.1. Quan điểm phát triển ngành Dệt may Phát triển ngành Dệt may theo hướng chuyên môn hóa, hiện đại hóa, nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Tạo điều kiện cho ngành Dệt may Việt Nam tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và hiệu quả. Khắc phục những điểm yếu của ngành Dệt may là thương hiệu của các doanh nghiệp còn yếu, mẫu mã thời trang chưa được quan tâm, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, cung cấp nguyên phụ liệu vừa thiếu, vừa không kịp thời. Lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Tập trung phát triển mạnh các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu, giảm nhập siêu, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm trong ngành. Phát triển ngành Dệt may phải gắn với bảo vệ môi trường và xu thế dịch chuyển lao động nông nghiệp nông thôn. Di chuyển các cơ sở gây ô nhiễm môi trường vào các khu, cụm Công nghiệp tập trung để tạo điều kiện xử lý môi trường. Chuyển các doanh nghiệp dệt may sử dụng nhiều lao động về các vùng nông thôn, đồng thời phát triển thị trường thời trang dệt may Việt Nam tại các đô thị và thành phố lớn. Đa dạng hóa sở hữu và loại hình doanh nghiệp trong ngành Dệt may, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư phát triển dệt may Việt Nam. Trong đó chú trọng kêu gọi những nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào những lĩnh vực mà các nhà đầu tư trong nước còn yếu và thiếu kinh nghiệm. Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng cho sự phát triển bền vững của ngành dệt may Việt Nam; Trong đó, chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề nhằm tạo ra đội ngũ doanh nhân giỏi, cán bộ, công nhân lành nghề, chuyên sâu. 4.2. Các giải pháp thực hiện - Giải pháp về đầu tư * Khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư phát triển ngành dệt may để phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ & THỰC PHẨM SỐ 02/2014 61 * Xây dựng các dự án đầu tư trong lĩnh vực dệt, nhuộm, sản xuất nguyên liệu bông xơ và sợi nhân tạo, sản xuất nguyên phụ liệu, để kêu gọi các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Trong đó ưu tiên các dự án sản xuất vải dệt thoi phục vụ cho sản xuất hàng may mặc xuất khẩu. * Xây dựng các khu công nghiệp chuyên ngành dệt may có đủ điều kiện hạ tầng cung cấp điện, cấp nước, xử lý nước thải, đảm bảo các yêu cầu về môi trường và lao động có khả năng đào tạo. - Giải pháp phát triển nguồn nhân lực * Triển khai chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho ngành Dệt may Việt Nam theo các nội dung sau: * Mở các lớp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế - kỹ thuật, cán bộ pháp chế, cán bộ bán hàng chuyên ngành Dệt may, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề của các dự án dệt, nhuộm trọng điểm. * Liên kết với các tổ chức quốc tế để cử cán bộ, học sinh tham gia các khóa đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ pháp chế, cán bộ kỹ thuật, cán bộ bán hàng, đào tạo công nhân kỹ thuật có tay nghề cao tại các cơ sở đào tạo ở nước ngoài. * Kết hợp việc đào tạo dài hạn với đào tạo ngắn hạn, kết hợp giữa đào tạo chính quy với đào tạo tại chỗ, kết hợp giữa đào tạo trong nước với việc cử cán bộ ra nước ngoài để đào tạo. * Củng cố và mở rộng hệ thống đào tạo chuyên ngành Dệt may, xây dựng trường đại học Dệt may và Thời trang để tạo cơ sở vật chất cho việc triển khai các lớp đào tạo. - Giải pháp thị trường * Tập trung mọi khả năng và cơ hội đàm phán mở rộng thị trường dệt may trên thị trường quốc tế. * Cải cách các thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan, xuất nhập khẩu theo hướng thực hiện cơ chế một dấu, một cửa, đơn giản hóa các thủ tục. * Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại. * Tăng cường công tác tư vấn pháp luật thương mại quốc tế. Chuẩn bị kỹ việc chống các rào cản kỹ thuật mới của các nước nhập khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu. * Bố trí đủ cán bộ pháp chế cho các doanh nghiệp trong ngành để tham gia soạn thảo, đàm phán và giải quyết các tranh chấp hợp đồng, nhất là hợp đồng thương mại quốc tế. - Giải pháp về cung ứng nguyên phụ liệu * Xây dựng các Trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu tại thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn để cung ứng kịp thời nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp trong ngành. TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ & THỰC PHẨM SỐ 02/2014 62 * Xây dựng các doanh nghiệp kinh doanh nguyên phụ liệu tập trung nhằm đáp ứng được nhu cầu nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp với chất lượng cao và giá nhập khẩu hợp lý. - Giải pháp về cung ứng nguyên phụ liệu * Xây dựng các Trung tâm cung ứng nguyên phụ liệu tại thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố lớn để cung ứng kịp thời nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp trong ngành. * Xây dựng các doanh nghiệp kinh doanh nguyên phụ liệu tập trung nhằm đáp ứng được nhu cầu nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp với chất lượng cao và giá nhập khẩu hợp lý. - Giải pháp về khoa học công nghệ * Tổ chức lại các Viện nghiên cứu chuyên ngành Dệt may theo hướng tự chủ, tự chịu trách nhiệm. + Nâng cao năng lực tư vấn, nghiên cứu triển khai, chuyển giao công nghệ, khả năng thiết kế và sáng tác mẫu của các Viện nghiên cứu. + Hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong ngành đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu triển khai các tiến bộ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. * Nghiên cứu áp dụng các công nghệ mới, các nguyên liệu mới để tạo ra các sản phẩm dệt có tính năng khác biệt, triển khai các chương trình sản xuất sạch hơn, tiết kiệm năng lượng, áp dụng các phần mềm trong thiết kế, quản lý sản xuất và chất lượng sản phẩm dệt may. * Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật sản phẩm dệt may phù hợp và hài hòa với pháp luật về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thông lệ quốc tế. Hỗ trợ nâng cấp các trung tâm giám định, kiểm tra chất lượng sản phẩm dệt may, hỗ trợ cho các doanh nghiệp dệt may trong quản lý chất lượng và khắc phục các rào cản kỹ thuật. * Xây dựng phòng thí nghiệm sinh thái dệt may và Trung tâm phát triển các mặt hàng vải trong giai đoạn 2008 – 2010. * Xây dựng cơ sở dữ liệu về ngành dệt may, nâng cao chất lượng của trang thông tin điện tử. * Nghiên cứu xây dựng các chính sách khuyến khích thúc đẩy chuyển giao công nghệ trong ngành dệt may. Kết luận Ngành công nghiệp dệt may thành phố Hồ Chí Minh đã có những đóng góp đáng kể trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp của thành phố cũng như cả nước. Ngành đã xác định được phương hướng, tập trung khai thác tốt một số tiềm năng, thế mạnh của mình để tạo nền tảng phát triển trong từng giai đoạn. Với các định hướng phát triển phù hợp, chúng ta hi vọng ngành công nghiệp dệt may vẫn là ngành công nghiệp mũi nhọn trên địa bàn thành phố. TẠP CHÍ KHOA HỌC CÔNG NGHỆ & THỰC PHẨM SỐ 02/2014 63 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Asia Foundation (2011), Báo cáo nghiên cứu Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu trong ba ngành Dệt may, Thủy sản và Điện tử. Tài liệu nội bộ. 2. Đinh Công Khải và Đặng Thị Tuyết Nhung (8/2011), Chuỗi giá trị ngành dệt may Việt Nam, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright. 3. Hiệp hội dệt may Tp.Hồ Chí Minh (2006), Chiến lược xuất khẩu ngành dệt may đến 2010, Tài liệu nội bộ. 4. Tập Đoàn Dệt May Việt Nam (2012), Báo cáo tổng kết sản xuất kinh doanh, Tài liệu nội bộ. 5. Trung tâm xúc tiến thương mại và đầu tư thành phố Hồ Chí Minh (2007), Tài liệu nghiên cứu ngành hàng dệt may Việt Nam, Tài liệu nội bộ. 6. Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam (2011), Niên giám thống kê cả nước từ năm 2005 đến năm 2011, NXB Thông tin và truyền thông.
File đính kèm:
- cong_nghiep_det_may_tai_thanh_pho_ho_chi_minh.pdf