Đặc tính tổng hợp trong cấu trúc nghệ thuật cải lương Nam Bộ
Tóm tắt Đặc tính tổng hợp trong cấu trúc nghệ thuật cải lương Nam Bộ: ... nhạc hóa, động tác hình thể được vũ điệu hóa thì tiết tấu của ca và diễn được cường điệu hóa. Tiếng trống, tiếng mỏ đệm theo động tác diễn xuất của diễn viên góp phần làm tăng tính biểu cảm tâm lý nhân vật, tăng kịch tính của màn diễn. Người diễn viên chớp mắt, ngón tay run rẩy, hay đ...Thời kỳ IV (1946-1954) tăng lên nhịp mười sáu. Thời kỳ V (1955-1964) tăng lên nhịp ba mươi hai. Thời kỳ VI (1965- ) tăng lên nhịp sáu mươi bốn. Bên cạnh bài bản, làn điệu thành tố ca nhạc trong nghệ thuật cải lương còn có sự hỗ trợ của hệ thống nhạc cụ bao gồm các loại đàn dây tơ, ... chỉ thoa son, dồi phấn, vẽ mày trên gương mặt thật nhằm phù hợp với vở diễn từ con người, tính cách, lứa tuổi, thân phận. Tất nhiên, cách hóa trang thường tuân thủ theo tính điển hình của nhân vật, không được xa rời hình mẫu thực của đời thường. Ví dụ như nhân vật cô gái nhà lành, đượ...
bản Vọng cổ không ngừng được cải biến, tăng lên nhịp tư, hơi kéo dài có ngân nga. Vì thế, bản Vọng cổ từ giọng Bắc đã biến thể ra giọng Nam có pha hơi NGUYỄN THỊ TRÚC BẠCH – ĐẶC TÍNH TỔNG HỢP TRONG CẤU TRÚC 36 Oán và được công chúng yêu chuộng hơn giọng Bắc. Tính đến nay bản Vọng cổ trải qua nhiều giai đoạn cải biến, có thể nhìn tổng quan qua những thời kỳ như sau. Thời kỳ I (1920-1926) nhịp đôi nguyên thủy. Thời kỳ II (1927-1935) tăng lên nhịp tư. Thời kỳ III (1936-1945) tăng lên nhịp tám. Thời kỳ IV (1946-1954) tăng lên nhịp mười sáu. Thời kỳ V (1955-1964) tăng lên nhịp ba mươi hai. Thời kỳ VI (1965- ) tăng lên nhịp sáu mươi bốn. Bên cạnh bài bản, làn điệu thành tố ca nhạc trong nghệ thuật cải lương còn có sự hỗ trợ của hệ thống nhạc cụ bao gồm các loại đàn dây tơ, dây kim như đàn kìm, đàn tranh, đàn cò, đàn sến, đàn guitare, đàn violon, sáo, cuỗn... Nhìn chung, thành tố ca nhạc là một trong những thành tố quan trọng trong cấu trúc nghệ thuật cải lương. Cải lương là loại hình ca kịch, nên khi ca người nghệ sĩ phải nắm rõ tất cả những nguyên tắc của bài bản, làn điệu nhằm chuyển tải trọn vẹn tâm tư tình cảm đến khán giả, đồng thời gây hiệu ứng xúc cảm nơi khán giả. 1.3. Phục trang, hóa trang Cũng như những loại hình nghệ thuật khác, quá trình tồn tại và phát triển của nghệ thuật cải lương, chính là quá trình tự bổ sung và hoàn thiện các thành tố trong cấu trúc nghệ thuật. So với hát bội, phục trang trên sân khấu cải lương không mang nặng tính nguyên tắc của một sân khấu ước lệ. Sân khấu cải lương thiên về tả thực, vì thế cách phục trang, hóa trang nhằm khơi gợi, tái hiện trước mắt khán giả những con người thật bằng xương bằng thịt, rất đỗi gần gũi với khán giả. Trang phục của người nghệ sĩ trên sân khấu cải lương đòi hỏi phải được thiết kế “hợp cảnh hợp tình”. Điều đó có nghĩa, tùy thể loại cải lương (tuồng Tàu hay tuồng Tây), tùy hoàn cảnh, vị thế của nhân vật mà diễn viên ăn mặc cho đúng cách. Trong vấn đề mỹ thuật sân khấu, trang phục là một trong những thành tố không kém phần quan trọng, vì trang phục tác động trực tiếp đến thị giác khán giả. Sự xuất hiện của người diễn viên trong bộ trang phục sân khấu lập tức gây hiệu ứng tình cảm hoặc phản cảm đối với khán giả. Ngày nay, những vở cải lương dù tuồng Tàu, tuồng Tây hay tuồng xã hội, đạo diễn luôn rất đầu tư phần trang phục của diễn viên. Sự quan tâm đặc biệt đến phục trang rất có thể xuất phát từ hai nguyên nhân chính: trước tiên, các đạo diễn được truyền dạy kinh nghiệm từ các bậc nghệ sĩ đi trước; thứ hai, do điều kiện kinh tế và hoàn cảnh xã hội. Phục trang trên sân khấu cải lương buổi đầu rất hạn chế. Theo lời kể của Nghệ sĩ nhân dân Ba Vân, trang phục cải lương trong thời kỳ sơ khai rất đơn giản, các diễn viên ăn mặc sao miễn không giống hát bội là được. Trong Ký ức của Bảy Nhiêu, năm 1918 trong vở Tơ vuơng đến thác của gánh hát Kim thời đồng bào Nam ở Mỹ Tho: “Kép Hai Giỏi vai công tử mặc áo the dài, đầu rẻ lệch 7/3, cầm gậy mang giày bốt tinh đen, đội nón nỉ màu xám, cô Ba lưu lạc (đào Năm Phỉ) mặc com-lê áo dài, dài tới đầu gối màu hồng phấn, choàng khăn sạt cùng màu, mang giày thêu cườm, tay cầm khăn mù soa xanh nhạt có ren, tóc chấm vai” (Bảy Nhiêu. Từ ca tài tử tới NGUYỄN THỊ TRÚC BẠCH – ĐẶC TÍNH TỔNG HỢP TRONG CẤU TRÚC 37 sân khấu cải lương. Tin Văn, Số kỷ niệm nửa thế kỷ cải lương, tr. 89). Có thể hình dung, đối với những vở tuồng xã hội, tuồng Tây (phóng tác) diễn viên ăn mặc theo trang phục xã hội đương đại, hướng thị hiếu công chúng đến thẩm mỹ thời đại. Đối với những vở diễn về đề tài lịch sử dân tộc, về tuồng Tàu hay các vở hương xa thì trang phục của diễn viên được chọn lựa để gợi ra xuất xứ của cốt truyện, nhân vật. Năm 1925, ông Nguyễn Ngọc Cương lập gánh Phước Cương chủ trương diễn tuồng Tàu phải mang hia, đội mão, giáp trụ, long bào “ông không đồng ý hát tuồng Tàu mà y phục chế biến sai bét, khăn đóng màu cặm lông vịt, Bàng Quý Phi mặc áo dài ta, đầu bới bánh lái, đeo dây chuyền nách. Vua mặc áo vàng, đi giày ma nị. Ông nói: Bởi những nhân vật của truyện Tàu, mặc dù mình hát không bằng Tàu cũng chẳng nên làm sai điệu nghệ” (Bảy Nhiêu. Từ ca tài tử tới sân khấu cải lương. Tin Văn, Số kỷ niệm nửa thế kỷ cải lương, tr. 97). Thông thường trang phục của những vở tuồng Tàu thường có kim tuyến, kim sa, lụa là óng chuốt, làm tăng thêm tính mỹ lệ hóa sân khấu cải lương. Trong Nghệ sĩ Ba Vân với sân khấu cải lương, Sĩ Tiến có kể về phần phục trang của diễn viên cải lương thời kỳ đầu khá tỉ mỉ như sau: “về trang phục, đào và kép võ đều mặc đồng loạt như sau: áo nhung ngắn đủ màu, may theo kiểu “bi-da-ma” cổ bẻ, chung quanh thân áo viền lông thỏ hoặc lông cừu trắng (có khi viền gấu bằng kim tuyến), đầu đội khăn đóng (tức là khăn xếp các màu, thêm miếng bịt tóc, và buộc ngoài vành khăn một giải thêu. Hoặc đội mũ nồi may bằng nhung đủ màu, có dắt “lông chim” trước trán (thay cho cái “xí mẩu”). Chân đi giày màu hoặc giày ban của Tây có đính “nơ”; còn thấy có người đi giày da màu của Tây thường dùng trong sa-lông. Quần cũng bằng nhung đủ màu, may như quần cụt của kép xiếc, viền kim tuyến lòng thòng, có lồng “dây nịt thun” quấn quanh bắp đùi trên đầu gối, bít tất dài. Đào thì đeo thêm một chiếc kiềng vàng vào chân, trên mắt cá. Cả đào và kép đều khoác áo choàng, tay cầm đoản đao, trường còn hay đinh ba, tùy tuồng tích Đào kép văn cũng mặc đồng loạt như sau: áo gấm hoa hoặc trơn đủ màu, áo huyền đen, áo lụa vàng, quần lụa trắng. Nam đội khăn đóng các màu, đi giày hạ hoặc guốc kinh. Nữ bới tóc, như nhãn hiệu dầu Cô Ba đương thời, đi giày cườm hoặc giày kinh” (Trần Việt Ngữ, 1987, tr. 34-35). Nhìn chung, trang phục của diễn viên cải lương thời kỳ đầu được định hình rõ theo tính chất loại hình nghệ thuật và vô cùng phong phú. Cải lương tuồng cổ phục trang theo những mẫu cổ, mang mực thước thẩm mỹ kinh điển. Những vở cải lương xã hội đương đại với những mẫu phục trang model hiện đại, thể hiện xu hướng thẩm mỹ đương đại. Phục trang sân khấu như con dao hai lưỡi, nếu được dụng công xây dựng theo đúng hoàn cảnh kịch, hình tượng nhân vật thì góp phần mang lại hiệu quả sân khấu và ngược lại. Trong lịch sử sân khấu cải lương, không ít vở diễn bị đánh giá thất bại bởi thiếu sự tư duy và đầu tư cho trang phục. Ví như những diễn viên thủ vai danh tướng Trần Bình Trọng, Trần Quốc Tuấn hay nữ tướng Trưng Trắc, Trưng Nhị... không mặc chiến bào mà mặc giáp trụ bằng kim tuyến giống như những trang phục chiến đấu của phong kiến Trung Hoa. Việc mặc trang phục không đúng của diễn viên không những làm mất NGUYỄN THỊ TRÚC BẠCH – ĐẶC TÍNH TỔNG HỢP TRONG CẤU TRÚC 38 đi sự uy nghi, lẫm liệt của nhân vật mà còn hạ thấp nhân vật lịch sử mà mình thủ vai. “Mỹ thuật phục trang là phương tiện thể hiện cái đẹp tổng hợp nghệ thuật cải lương, từ hình thức bên ngoài, đến diễn tả nội dung bản sắc bên trong” (Tuấn Giang, 2006, tr. 478). Phục trang và hóa trang là hai thành tố cơ bản, có sự gắn kết chặt chẽ trong việc tạo dựng dáng dấp, diện mạo của người diễn viên trên sân khấu cải lương. Về diện mạo bên ngoài, người diễn viên không chỉ ăn mặc theo đúng nội dung vở diễn, mà còn chú ý đến cách hóa trang cho phù hợp với tích cách và hoàn cảnh của nhân vật. Cách hóa trang của diễn viên hát bội mang tính tượng trưng ước lệ. Diễn viên hát bội hóa trang theo kiểu mặt nạ, màu sắc của mặt nạ biểu hiện nhân cách, tính tình của nhân vật. Nghệ thuật cải lương ra đời trên tinh thần khát khao được đổi mới, cách tân sân khấu truyền thống. Diễn viên cải lương không đi theo lối hóa trang theo kiểu mô thức của hát bội, tiết chế sự tô vẽ màu sắc. Cách hóa trang của cải lương thiên về nghệ thuật tả thực. Người diễn viên bộc lộ cảm xúc, thân phận bằng gương mặt thật, tạo độ sáng trên sân khấu trình diễn bằng sự uy nghi, diễm lệ. Cách hóa trang của sân khấu cải lương phá vỡ thủ pháp cách thức hóa (stylisation) và cường điệu hóa (intensification) của hát bội, nhằm hướng đến sự chân thật, gần gũi của nhân vật. Diễn viên cải lương khi trình diễn trên sân khấu chỉ thoa son, dồi phấn, vẽ mày trên gương mặt thật nhằm phù hợp với vở diễn từ con người, tính cách, lứa tuổi, thân phận. Tất nhiên, cách hóa trang thường tuân thủ theo tính điển hình của nhân vật, không được xa rời hình mẫu thực của đời thường. Ví dụ như nhân vật cô gái nhà lành, được học hành và giáo dục bài bản, không thể hóa trang theo lối mặt trắng bệch, tô son màu đỏ chót, mày dày, mắt xếch, má hồng đậm; mà cách hóa trang phải nhẹ nhàng nhằm tạo nét đặm thắm, nết na bằng gương mặt trắng hồng, mày dài thanh tú, son màu hồng sen Bên cạnh đó, cách thức hóa trang trên sân khấu cải lương đôi khi ít nhiều chịu ảnh hưởng của xu hướng thẩm mỹ thời đại. 1.4. Thiết kế sân khấu, đạo cụ Khác với sân khấu hát bội mang tính hình thức, không gian và thời gian của vở tuồng được khán giả hình dung qua lời thoại và điệu bộ của người diễn viên. Cải lương thiên về tả thực, vì lẽ đó sân khấu là sự tái hiện cảnh thật, thiết kế sân khấu và đạo cụ mang ý nghĩa của cái đẹp thật trong chiều kích thẩm mỹ nghệ thuật. Ở Nam Bộ, gánh hát Thầy Năm Tú ở Mỹ Tho (1918) cho ra mắt công chúng lối hát có phông, màn, tranh cảnh trang trí, dàn đèn, dàn đờn cổ nhạc cho diễn viên ca. Khi màn bỏ xuống, có dàn đờn nhạc Tây đờn giúp vui khán giả trong khi chờ dọn cảnh màn sau. Trong một ghi chép của Sơn Nam, những phông màn trang trí trên sân khấu cải lương buổi đầu thường do học sinh Mỹ thuật Gia Định đảm nhiệm: “hát cải lương có màn hạ, xuống kéo lên, có “sơn thủy” làm bối cảnh, lại còn tấm phông, cánh gà, v.v. Học sinh Trường Mỹ thuật Gia Định (thành lập năm 1913) đã góp phần vào tuồng cải lương, về trang trí: “sơn thủy” vẽ với nước sơn, trên bổ, cuốn tấm này, hạ tấm kia. Đến nay, hãy còn những tiếng quen thuộc trong nghề như NGUYỄN THỊ TRÚC BẠCH – ĐẶC TÍNH TỔNG HỢP TRONG CẤU TRÚC 39 dọn đề-co, phông, cánh gà, pan-nô” (Sơn Nam, 1997, tr. 130). Về thiết kế sân khấu cải lương thường phân thành hai công đoạn: thứ nhất vẽ phông màn, thứ hai là bài trí sân khấu. Hai công đoạn này đều phải tuân thủ nguyên tắc tả thực của sân khấu. Nếu là một gian phòng thì có cửa ra vào, cửa sổ đóng mở được, có giường bàn tủ như thật. Nếu là núi rừng thì có cây cối đất đá. Nếu là đêm trăng thì có ánh trăng trên trời, vì sao lấp lánh, mây bay lơ lửng “Đạo cụ là những phương tiện người diễn viên dùng trong khi biểu diễn” (Nguyễn Lộc, 1998, tr. 125). Khác với đạo cụ trên sân khấu, hát bội hoàn toàn mang tính chất ước lệ. Trong các vở hát bội, nhân vật đi đường trường thường dùng ngựa, nhưng sẽ không có con ngựa nào được đưa lên sân khấu, mà chỉ có chiếc roi ngựa do người diễn viên cầm trong tay, vừa tượng trưng cho con ngựa, vừa tượng trưng cho việc đi ngựa. Đạo cụ của sân khấu cải lương mang tính hiện thực, nhằm tái hiện sinh động những cảnh vật thật, những con người thật. Có thể nói, cách thiết kế sân khấu và đạo cụ của sân khấu cải lương nhằm mang đến cho khán giả cảm giác chứng kiến cảnh thật một cách sống động và tinh tế. Vào những năm 1936-1940, một số ban hát cải lương như Tân Thinh, Bầu Bòn, Tân Đồng Ban, Văn Hí Ban tạo được tiếng vang nhờ vào cách dàn dựng cảnh như thật. Trong vở Phật Tổ giáng sanh ông bầu Nguyễn Văn Sô của Tân Đồng Ban đã thiết kế năm phút chuyển bảy cảnh. Hay Bầu Bòn trong Phong Thần cho các diễn viên thủ vai ông tiên cởi thú bay trên không, đằng vân giá võ, đấu phép, độn thổ Đầu năm 1945, đoàn cải lương mang bảng hiệu Tỷ Phượng ra đời tại Sài Gòn. Ông bầu Bảy Tỷ dàn cảnh sân khấu theo lối hiện đại, ông dùng đèn rọi (projecteur) với nhiều màu sắc thay đổi trên sân khấu. Đồng thời, áp dụng lối chuyển cảnh hiện đại, cảnh trí phong phú, trong một vở diễn bao gồm cảnh thác đổ, sóng dậy, mây trôi, nước chảy Lối dàn dựng này vẫn còn được áp dụng cho đến ngày nay. Nhìn chung, cách thiết kế sân khấu của cải lương mô phỏng sân khấu phương Tây, có phân màn, phân hồi. Mỗi màn đều có tranh cảnh vẽ không gian kịch. Cách dàn dựng sân khấu hợp lý, độc đáo góp phần mang lại hiệu quả sân khấu của vở diễn (Trần Văn Khải, 1972, tr. 88). Nghệ thuật cải lương là loại hình sân khấu tổng hợp, trên nền tảng kịch mang vị trí trung tâm có tính chủ đạo là sự đồng vận hành của các thành tố nghệ thuật khác như ca nhạc, phục trang-hóa trang, thiết kế sân khấu và đạo cụ. Tất cả đều có vị trí, vai trò nhất định, đồng tạo hiệu quả nghệ thuật và thẩm mỹ trong thời gian trình diễn. Sự vắng mặt hay vô hiệu hóa một thành tố nghệ thuật, sẽ khiến cho hệ thống cấu trúc nghệ thuật của cải lương bị phá vỡ. 2. SỰ KẾT HỢP GIỮA VĂN XUÔI VÀ CÁC LOẠI HÌNH NGHỆ THUẬT NGÔN TỪ KHÁC Kịch bản cải lương là sự đan kết giữa văn xuôi và các loại hình ngôn từ. Bắt nguồn từ các loại hình văn nghệ dân gian: “Nghệ thuật hát cải lương là một sự điều hợp nghệ thuật rất hài hòa mà Nam Bộ là một mảnh đất lành ươm giống cho bộ môn nghệ thuật này nảy sinh và phát triển. Đây là một nghệ thuật tổng hợp khởi di từ các loại văn nghệ NGUYỄN THỊ TRÚC BẠCH – ĐẶC TÍNH TỔNG HỢP TRONG CẤU TRÚC 40 dân gian và cung đình gồm: Hành vân, nói lối, thơ, ca, nhạc, vũ” (Nguyễn Q Thắng, 1990, tr. 235). Đồng thời, kịch bản cải lương còn vận dụng các thể hành vân, lý, hò, thơ thể hiện sự phong phú về loại hình ngôn từ trong kịch bản cải lương. Sự kết hợp giữa văn xuôi và những loại hình ngôn từ khác trong kịch bản cải lương được diễn ra một cách tự nhiên và chuẩn mực. Ngôn ngữ nhân vật và hành động nhân vật được bày tỏ qua những loại ngôn từ lúc thì văn xuôi, lúc thì thơ, lý, hò hết sức thoải mái, như dòng chảy liền mạch của một con sông qua những khúc quanh, những chỗ uốn lượn. Một số bài lý, bài hò ở Nam Bộ được vận dụng trong kịch bản cải lương như Lý giao duyên, Lý ngựa ô, Lý con sáo, Lý tam thất, Lý Huế cùng với Hò cấy lúa, Hò chèo ghe, Hò đưa đò mang âm sắc phương Nam. Những thể thơ truyền thống như lục bát, bát cú, song thất lục bát, tứ tuyệt vẫn có vị trí trong kịch bản. Dường như một nguyên tắc ứng xử, nếu như văn xuôi dùng để đối thoại, hành động nhân vật; thì những loại hình ngoài văn xuôi được cài đặt trong kịch bản thường dùng để diễn tả, khắc họa những đường nét tâm trạng, tình cảm của nhân vật. Trong kịch bản Em đợi anh về của Hùng Tấn, cảnh hai, màn đối thoại của Lài và Vàng (hàng xóm của Lài) có bài Lý ngựa ô. Vàng: Nếu có thèm cá trê nướng, kho tộ, kho ơ gì thì một bao cà ròn đầy cá, mặc sức cho cô ăn, chớ hơi sức. Lý ngựa ô 1 Đâu mỗi bữa mỗi ra đây 2 3. Mất công rải cám xuống ao 4. Nuôi cặp cá trê mắc dịch đó 5. Để mà mơ mà tưởng tới ai 6. Lài (ca) 7. Chuyện riêng tôi, mắc mớ gì anh mở miệng? Vàng (ca) 8. Chẳng mắc mớ gì, chỉ tức cành hông 9. Bởi tui bị cô chê thậm tệ 10. Cô nói tui nhát gan, cà nhổng 11. Không dám đi bộ đội như mọi người 12. Nên cô 13. Chọn người xa xứ lạ làm bạn lòng 14. Còn tôi cùng xóm cùng làng 15. Đâu có hân hạnh lọt vào mắt cô Lài (ca) 16. Thời buổi đánh Tây 17. Tất cả trai tráng trong làng 18. Đều tòng quân diệt thù 19. Đầu co rút cổ chỉ có một mình anh. (Dứt ca) Vàng: Sao cô không xét suy cặn kẽ, gia cảnh tui cha yếu mẹ già, em dại Lài: Chết nhát thì nói đại đi, việc gì phải viện cớ cha yếu mẹ già? Nước nhà đang cơn tai họa không biết đường mà thương, thì nói thương cha thương mẹ, ai tin chớ? (Hùng Tấn, 2007, tr. 35-36). Cảnh nhân vật Phan Thái Hòa trong vở Bội phu quả báo lúc cầm bút viết ly dị vợ được soạn giả Nguyễn Trọng Quyền thể hiện qua bài bát cú: Cất bút để tờ lụy ứa theo, Vận cùng đâu khiến phải nghiêng nghèo. Ba cơn trĩu nặng như hoàn núi, Bốn biển lênh đênh tợ cánh bèo. Hàn Tín không thời thê, tẩu ngạo, Tô Tần, có lúc ấn gươm đeo, Phụ tình riêng trách lòng ai cạn, Duyên nợ gì xui có bấy nhiêu! (Trần Văn Khải, 1970, tr. 208). NGUYỄN THỊ TRÚC BẠCH – ĐẶC TÍNH TỔNG HỢP TRONG CẤU TRÚC 41 Ở phương diện ngôn ngữ, sự đan kết những loại hình nghệ thuật ngôn từ trong kịch bản, có điểm này có sự tương đồng với kịch bản sân khấu truyền thống Việt Nam như hát bội, chèo Bên cạnh văn xuôi, thơ, lý, hò xuất hiện như một phương tiện biểu đạt đắc lực chuyển tải mọi tình cảm, trạng thái của con người. Sự đan kết giữa những loại hình ngôn từ trong một kịch bản như một sự hòa trộn giữa chất tự sự và trữ tình trong một tác phẩm sân khấu. Đặc tính tổng hợp được nhìn nhận là một trong những đặc trưng nghệ thuật tiêu biểu trong cấu trúc nghệ thuật cải lương Nam Bộ. Ở phương diện nội dung và nghệ thuật, cải lương là loại hình tổng hợp từ các thành tố kịch, ca nhạc, phục trang, hóa trang, thiết kế sân khấu, đạo cụ. Tất cả các thành tố như phát huy lực hướng tâm nhằm tạo hiệu quả thẩm mỹ sân khấu cải lương. Kịch bản cải lương còn là sự kết hợp hài hòa giữa các loại hình ngôn từ nghệ thuật và thống nhất trong sự biểu đạt những trạng thái xúc cảm sân khấu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cagan, M. 2004. Hình thái học của nghệ thuật (Phan Ngọc dịch). Hà Nội: Nxb. Hội Nhà văn. 2. Đỗ Dũng. 2003. Sân khấu cải lương Nam Bộ. TPHCM: Nxb. Trẻ. 3. Đỗ Văn Khang. 2004. Nghệ thuật học. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. 4. Fragonard, Michel 1999. Văn hóa thế kỷ XX. Từ điển lịch sử văn hóa (Chu Tiến Ánh dịch). Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 5. Hùng Tấn. 2007. Em đợi anh về (kịch bản ca kịch cải lương). TPHCM: Nxb. Phương Đông. 6. Hoài Anh. 1998. Văn học Nam Bộ từ đầu đến giữa thế kỷ XX (1900-1945). TPHCM: Nxb. TPHCM. 7. Hồ Á Mẫn. 2011. Giáo trình văn học so sánh (Lê Huy Tiêu dịch). Hà Nội: Nxb. Giáo dục Việt Nam. 8. Lê Văn Chiêu. 2008. Nghệ thuật sân khấu hát bội. TPHCM: Nxb. Trẻ. 9. M.F. Ốp-Xi-An-nhi-Cốp. 2001. Mỹ học cơ bản và nâng cao (Phạm Văn Bích dịch). Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin. 10. Ngọc Phan, Bùi Ngọc Phương. 2007. Nhạc cụ các dân tộc Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 11. Ngô Đức Thịnh. 2004. Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam. TPHCM: Nxb. Trẻ. 12. Nguyễn Lộc (Chủ biên). 1998: Từ điển nghệ thuật hát bội Việt Nam. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội. 13. Nguyễn Q Thắng. 1990. Tiến trình văn nghệ miền Nam. An Giang: Nxb. An Giang. 14. Nguyễn Thị Minh Ngọc, Đỗ Hương. 2007. Sân khấu cải lương ở Thành phố Hồ Chí Minh. TPHCM: Nxb. Tổng hợp TPHCM - Nxb. Văn hóa Sài Gòn. 15. Phan Thu Hiền. 2006. Văn hóa học nghệ thuật như một chuyên ngành của văn hóa học. Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật. Tháng 10/2006. 16. Sĩ Tiến. 1984. Bước đầu tìm hiểu sân khấu cải lương. TPHCM: Nxb. TPHCM. 17. Sơn Nam. 1974. Cá tính của miền Nam. Sài Gòn: Đông Phố xuất bản. 18. Trần Minh Tiên, Lê Minh Chánh. 1989. Tìm hiểu nghệ thuật sân khấu cải lương. Long An: Sở Văn hóa Thông tin Long An xuất bản. 19. Trần Ngọc Thêm. 2004. Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam. TPHCM: Nxb. Tổng hợp TPHCM (tái bản lần thứ 4). 20. Trần Văn Khải. 1970. Nghệ thuật sân khấu Việt Nam. Sài Gòn: Khai Trí xuất bản. 21. Trần Việt Ngữ. 1987. Nghệ sĩ Ba Vân với (Xem tiếp trang 79) NGUYỄN THỊ TRÚC BẠCH – ĐẶC TÍNH TỔNG HỢP TRONG CẤU TRÚC 42 sân khấu cải lương. TPHCM: Nxb. TPHCM. 22. Trương Bỉnh Tòng. 1997. Nghệ thuật cải lương những trang sử. Hà Nội: Viện Sân khấu. 23. Tuấn Giang. 2006. Nghệ thuật cải lương. TPHCM: Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM. 24. IU. M. Lotman. 2004. Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch). Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. (Tiếp theo trang 41) ĐẶC TÍNH TỔNG HỢP TRONG CẤU TRÚC 25. Vương Hồng Sển. 1968. Hồi ký 50 năm mê hát. Cải lương đã 50 tuổi. Sài Gòn: Phạm Quang Khải xuất bản.
File đính kèm:
- dac_tinh_tong_hop_trong_cau_truc_nghe_thuat_cai_luong_nam_bo.pdf