Đánh giá văn hóa ứng xử trong du lịch bằng phương pháp định lượng: Nghiên cứu các điểm du lịch vùng Bắc bộ

Tóm tắt Đánh giá văn hóa ứng xử trong du lịch bằng phương pháp định lượng: Nghiên cứu các điểm du lịch vùng Bắc bộ: ...u khách vượt quá sức chứa của điểm du lịch gây nên những tác động phức tạp về tự nhiên và xã hội, một loạt hệ quả về khả năng phục vụ, thái độ phục và sự tiện nghi trong chuyến tham quan; ngoài ra còn phải kể đến lực đẩy của địa phương, nhất là dân cư không tham gia vào hoạt động du lị...hổ nhỏ nhất có thể, bao gồm phần khuc vực phục vụ cho du lịch và khu vực phi du lịch nhưng chứa các đối tượng liên quan gián tiếp tới du lịch Bảng 1. Các điểm du lịch được lựa chọn Stt Điểm du lịch Tỉnh - Thành phố Tiểu vùng 1. Phố cổ Hà Nội và phụ cận Hà Nội Trung tâm 2. Chùa Hương Hà...ng, có một số nhóm tiêu chí với các hệ số khác nhau, trong đó có nhóm tiêu chí Ban quản lý và mức độ phản ứng khi du khách gặp bất lợi. Điểm số đánh giá được tính như sau: + Có Ban quản lý tại điểm du lịch: Ban Quản lý tích cực và giải quyết có hiệu quả các vấn đề phát sinh khi du khách ...

pdf8 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 393 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đánh giá văn hóa ứng xử trong du lịch bằng phương pháp định lượng: Nghiên cứu các điểm du lịch vùng Bắc bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âu hỏi thay vì mang cảm tính đánh giá 
chủ quan nên tập trung vào mô tả thực tế các 
hiện tượng - dấu hiệu, từ đó quy định thang 
điểm phân loại cho các hiện tượng. Do đó, câu 
hỏi phải nhắm vào mức độ an toàn và tiện nghi 
dành cho du khách; tình trang khai tác tài 
nguyên, ô nhiễm môi trường, cách cư xử, phục 
vụ, tập quán sinh hoạt và giao tiếp của địa 
phương thông qua quan sát từ chính du khách. 
Các tiêu chí đánh giá văn hoá ứng xử địa 
phương tập trung vào ba đối tượng sau: Hệ 
thống quản lý địa phương, Các đơn vị cung ứng 
dịch vụ và Dân cư. Ba đối tượng trên đều có 
những tiêu chí tương ứng khi đánh giá và mỗi 
tiêu chí có tầm quan trọng riêng. 
- Đối với đối tượng là Hệ thống quản lý địa 
phương, có 9 nhóm tiêu chí, mối nhóm tiêu chí 
có một hệ số riêng như sau: 
+ Ban Quản lý và mức độ phản ứng khi du 
khách gặp bất lợi (hệ số 2): Những vấn đề bất 
cập nảy sinh đối với khách phải được giải quyết 
nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả. Bởi vậy, tại 
mỗi điểm du lịch phải có Ban Quản lý và dấu 
hiệu đánh giá Ban Quản lý có làm việc hiệu quả 
hay không là từ những vấn đề du khách gặp 
phải (thất lạc đồ đạc, mất trộm, mất cắp, lạc 
người) được trợ giúp nhanh chóng. 
+ Mật độ và cách bố trí các cơ sở buôn bán, 
kinh doanh nhỏ lẻ (hàng lưu niệm, giải khát, và 
một vài cơ sở phục vụ tự do) (hệ số 2): Các cơ 
sở buôn bán kinh doanh nếu không được quy 
hoạch chi tiết và hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng 
lôn xộn, lấn chiếm khu du lịch và công cộng, 
gây phiền toái cho du khách. 
+ Bảng chỉ dẫn, biển báo và trung tâm cung 
cấp thông tin tại điểm du lịch (hệ số 1): đối với 
khách du lịch nước ngoài đã đi du lịch chuyên 
nghiệp thì biển báo, biển chỉ dẫn hoặc trung 
tâm cung cấp thông tin có vai trò khá quan 
trọng. Du khách có thể tự do tham quan tìm 
hiểu mà không gặp rắc rối hoặc phiền toái do 
những rào cản về ngôn ngữ và phong tục. 
+ Mức độ tiện nghi và khả năng sử dụng 
của các dịch vụ công cộng: giao thông, thông 
tin, y tế (hệ số 1): các dịch vụ công cộng góp 
phần tăng tiện nghi và chất lượng phục vụ trong 
chuyến du lịch. Du khách cảm thấy được đối xử 
công bằng và không bị cản trở các thói quen 
sinh hoạt hàng ngày. 
+ Bố trí nơi chứa rác thải và tính hợp lý 
trong cách bố trí (hệ số 2): Không thể nói một 
điểm du lịch có trình độ văn hoá phát triển, ứng 
xử lịch sự với du khách khi rác thải bừa bãi, xử 
lí không triệt để. Điểm số của các điểm du lịch 
trong tiêu chí này thường thấp bởi vấn đề xử lí 
xả rác và xử lí tại Việt Nam thường được du 
khách đánh giá thấp. 
+ Mức độ ô nhiễm môi trường và cảnh quan 
(hệ số 2): Môi trường bị ô nhiễm không thể tạo 
ra một điều kiện thuận lợi cho chuyến du lịch 
thành công. Tâm lý du khách sẽ thoải mái hơn 
khi điều kiên môi trường trong sạch và cảnh 
quan hài hoà. 
+ Mật độ các hòm công đức tại các điểm du 
lịch tâm linh (hệ số 1): Hòm công đức là hình 
thức ghi nhận tiền ủng hộ của du khách góp 
phần tôn tạo và bảo vệ chính khu du lịch tâm 
linh. Tuy nhiên, sự yếu kém trong quản lý và 
nạn tham ô khiến cho tiền công đức của du 
khách không được sử dụng đúng mục đính. Số 
lượng hòm công đức ngày càng tăng thể hiện 
tính thương mại trong du lịch tâm linh có xu 
hướng tăng lên. 
+ Tần suất khai thác điểm du lịch và mức 
độ can thiệp vào cảnh quan tự nhiên tại điểm du 
C.H. Hà / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 158‐165 160
lịch (hệ số 1) [2]: tần suất và số lượng du khách 
vượt quá sức chứa của điểm du lịch gây nên 
những tác động phức tạp về tự nhiên và xã hội, 
một loạt hệ quả về khả năng phục vụ, thái độ 
phục và sự tiện nghi trong chuyến tham quan; 
ngoài ra còn phải kể đến lực đẩy của địa 
phương, nhất là dân cư không tham gia vào 
hoạt động du lịch gây ra xung đột do cuộc sống 
hàng ngày bị ảnh hưởng. Tài nguyên và cảnh 
quan tự nhiên vốn có bị thay đổi bằng các công 
trình nhân tạo hoặc các kiến trúc mới không 
phù hợp làm cho chất lượng bị xuống cấp. 
- Đối với các đơn vị cung ứng dịch vụ, có 5 
nhóm tiêu chí, bao gồm: 
+ Trang phục của nhân viên, người phục vụ 
hoặc người bán hàng (hệ số 1): trang phục gọn 
gàng, lịch sự, ưa nhìn và được đồng phục tạo ra 
ấn tượng ban đầu với du khách; cảm giác được 
tôn trọng trong du khách là thành công của 
doanh nghiệp. 
+ Khả năng sử dụng ngoại ngữ (hệ số 1): 
nhân viên hoặc hướng dẫn viên sử dụng ngoại 
ngữ một cách lưu loát và chính xác tạo nên tính 
chuyên nghiệp trong phục vụ. Dịch vụ và phong 
cách phục vụ càng chuyên nghiệp, khả năng phục 
vụ và mức độ hài lòng của du khách càng cao. 
+ Thái độ phục vụ của nhân viên, người 
phục vụ hoặc người bán hàng (hệ số 3): nhóm 
tiêu chí này đóng vai trò cực kì quan trọng 
trong việc quyết định thành công hay thất bại 
của chương trình du lịch. Nhận xét, đánh giá 
của du khách về cả đất nước Việt Nam hay cả 
một vùng có thể xuất phát từ chính giao tiếp với 
nhân viên hoặc người phục vụ. 
+ Chất lượng dịch vụ du khách của các đơn 
vị cung ứng (hệ số 3): đây là nhóm chỉ tiêu thứ 
2 được đánh hệ số 3, bởi không thể nói chương 
trình du lịch là thành công và để lại ấn tượng tốt 
với du khách khi chất lượng phục vụ thấp, công 
ty áp đặt tăng chi phí phát sinh hoặc nhân viên 
trễ giờ 
+ Sự tư vấn, độ chính xác và hiệu quả của 
tư vấn từ nhân viên phục vụ (hệ số 2): Khách 
du lịch sẽ đánh giá cao sự nhiệt tình và uy tín 
của nhân viên khi chương trình du lịch của họ 
thành công do có sự tư vấn nhiệt tình và hiệu 
quả. Lòng tin của du khách đối với các cơ sở 
cung ứng dịch vụ là yếu tố quan trọng trong 
quyết định quay lại Việt Nam lần sau. 
- Dân cư địa phương: Bản chất và quy luật 
của hoạt động du lịch là giao lưu và tương tác 
về con người và văn hoá. Văn hoá bản địa càng 
độc đáo, xa lạ với khách du lịch càng hấp dẫn 
bởi tính mới lạ. Dân cư địa phương dù trực tiếp, 
gián tiếp hay không tham gia hoạt động du lịch 
cũng đều là đối tượng tham quan của khách du 
lịch. Do vậy, nhóm đối tượng này có một vai 
trò quan trọng trong bảng điểm định lượng hoá 
văn hoá ứng xử. Các tiêu chí đánh giá dân cư 
địa phương bao gồm: 
+ Khách tham quan nhưng không mua hàng 
và phản ứng của người phục vụ (hệ số 3): một 
hành động nhỏ của dân cư dù tiêu cực hay tích 
cực lúc này để lại cho khách du lịch một ấn 
tượng sâu sắc. Đối với du khách nước ngoài, có 
thể đem lại một tầm nhìn gán cho dân cư của cả 
đất nước Việt Nam. 
+ Công khai bảng giá dịch vụ, sự chênh 
lệch mức giá thoả thuận ban đầu (hoặc giá niêm 
yết) với giá khi thanh toán (hệ số 3). 
+ Mức độ đa dạng và tính bản địa của hàng 
lưu niệm và đặc sản địa phương (hệ số): giảm 
bớt sự nhàm chán đơn điệu, kích thích nhu cầu 
tiêu dùng của du khách. 
+ Việc buôn bán các loại mặt hàng cấm cho 
khách du lịch (hệ số 2): phát hiện ra việc dân cư 
địa phương đã khai thác các mặt hàng cấm và bán 
cho mình có thể khiến du khách mất lòng tin. 
+ Sự tương đồng về hàng hoá và sản phẩm 
dịch vụ (hệ số 1): ở đâu đâu du khách cũng có 
thể mua đồ gốm, ngọc trai hoặc vỏ sò làm giảm 
giá trị của hàng lưu niệm Việt Nam. 
+ Hiện tượng đeo bám, tranh giành, ép và 
doạ dẫm khách (hệ số 3) [2]: đây là nguyên 
nhân mấu chốt gây nên xu hướng quyết định 
không quay lại Việt Nam của du khách. 
+ Hiện tượng ăn xin, móc túi, cướp giật và 
các tệ nạn xã hội khác (hệ số 3): tuy không còn 
quá phổ biến, nhưng bất kì điểm du lịch nào còn 
C.H. Hà / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 158‐165 161
tồn tại hiện tượng này là đang tự huỷ hoại giá trị 
và sụt giảm số lượng khách trong tương lai. 
+ Thói quen sinh hoạt của dân cư địa 
phương (hệ số 3): nhiều bộ phận dân cư không 
liên quan tới du lịch và khách du lịch nhưng họ 
là đối tượng tham quan của du khách. Theo 
nhiều du khách, bản chất văn hoá của Việt Nam 
được thể hiện qua hành vi thường ngày trong 
dân cư. 
2.2. Các điểm du lịch được đánh giá 
Căn cứ vào những giới hạn về không gian và 
thời gian, điều kiện khách quan và chủ quan, bài 
nghiên cứu chỉ tập trung vào các điểm du lịch có ý 
nghĩa quốc gia và vùng tại vùng du lịch Bắc Bộ 
với 28 tỉnh [1]. Các điểm du lịch được đánh giá ở 
đây được tính đến cấp độ lãnh thổ nhỏ nhất có thể, 
bao gồm phần khuc vực phục vụ cho du lịch và 
khu vực phi du lịch nhưng chứa các đối tượng liên 
quan gián tiếp tới du lịch 
Bảng 1. Các điểm du lịch được lựa chọn 
Stt Điểm du lịch Tỉnh - Thành phố Tiểu vùng 
1. Phố cổ Hà Nội và phụ cận Hà Nội Trung tâm 
2. Chùa Hương Hà Nội Trung tâm 
3. Khu di tích Phủ chủ tịch Hà Nội Trung tâm 
4. Vịnh Hạ Long Quảng Ninh Duyên hải Đông Bắc 
5. Yên Tử Quảng Ninh Duyên hải Đông Bắc 
6. Cát Bà Hải Phòng Duyên hải Đông Bắc 
7. Đồ Sơn Hải Phòng Duyên hải Đông Bắc 
8. Đền Hùng Phú Thọ Trung tâm 
9. Khu di tích Điện Biên Phủ Điện Biên Miền núi Tây Bắc 
10. Mai Châu Hoà Bình Miền núi Tây Bắc 
11. Sa Pa Lào Cai Miền núi Đông Bắc 
12. Tân Trào Tuyên Quang Miền núi Đông Bắc 
13. Hồ Núi Cốc Thái Nguyên Miền núi Đông Bắc 
14. Hồ Ba Bể Bắc Kạn Miền núi Đông Bắc 
15. Pắc Pó Cao Bằng Miền núi Đông Bắc 
16. Nhất - Nhị - Tam Thanh Lạng Sơn Miền núi Đông Bắc 
17. Côn Sơn - Kiếp Bạc Hải Dương Trung tâm 
18. Đền Trần Nam Định Trung tâm 
19. Tam Cốc - Bích Động Ninh Bình Trung tâm 
20. Bái Đính Ninh Bình Trung tâm 
21. VQG Cúc Phương Ninh Bình Trung tâm 
22. Sầm Sơn Thanh Hoá Phía Nam 
23. Cửa Lò Nghệ An Phía Nam 
24. Khu di tích quê Bác Nghệ An Phía Nam 
25. Ngã ba đồng Lộc Hà Tĩnh Phía Nam 
U
Thực tế nghiên cứu tại các điểm du lịch 
được lựa chọn, một vấn đề nhận thấy khá rõ nét 
là mức độ quan trọng và ý nghĩa của từng đối 
tượng đánh giá có sự khác nhau. Tuy được lựa 
chọn là đối tượng quan trọng nhất và các tiêu 
chí thường có hệ số 3 nhưng văn hoá ứng xử 
của dân cư địa phương không hoàn toàn đồng 
nhất tại các điểm du lịch. Tại điểm các du lịch 
mang ý nghĩa trọng điểm quốc gia như khu dich 
tích Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngã ba Đồng Lộc 
được quy hoạch và quản lý nghiêm ngặt thì vai 
trò của các cấp quản lý cao hơn so với dân cư địa 
phương bởi trong quy hoạch của khu di tích đã 
tách xa khu dân cư. 
2.3. Phương pháp định lượng hoá văn hoá ứng 
xử trong du lịch 
Với đặc thù phức tạp và khó phân biệt của 
văn hoá ứng xử nói chung, cần cố gắng lượng hoá 
tối đa các nhóm tiêu chí thông qua các tiêu chí cụ 
C.H. Hà / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 158‐165 162
thể. Mỗi tiêu chí sẽ có vai trò, ý nghĩa khác nhau, 
với hệ thống điểm là 3, 1, 0 căn cứ vào 3 mức độ 
khác nhau từ cao đến thấp. Dựa vào tầm quan 
trọng của các nhóm tiêu chí, phân chia các hệ số 
và mức điểm thích hợp: nhóm tiêu chí có ý nghĩa 
rất quan trọng - hệ số 3; nhóm tiêu chí có ý nghĩa 
quan trọng - hệ số 2 và nhóm tiêu chí có ý nghĩa - 
hệ số 1 [3]. Tổng điểm theo mức độ quan trọng 
của tiêu chí sẽ có các mức điểm là: 
+ Những tiêu chí rất quan trọng (hệ số 3) sẽ 
có thang điểm là: 9, 6, 0. 
+ Những tiêu chí quan trọng (hệ số 2) sẽ có 
thang điểm là: 6, 4, 0. 
+ Những tiêu chí có ý nghĩa (hệ số 1) sẽ có 
thang điểm là: 3, 1, 0. 
Các nhóm tiêu chí có vai trò quan trọng, ảnh 
hưởng tiếp đến nhận xét của du khách về địa 
phương được xếp hệ số cao (hệ số 3), các nhóm tiêu 
chí có vai trò thứ yếu hơn được xếp hệ số tương ứng 
là 2 hoặc 1. Tương tự vậy, trong từng nhóm tiêu chí, 
phải phân rõ thành các tiêu chí cụ thể nhằm dễ dàng 
định lượng hoá bằng điểm số. Các tiêu chí có điểm 
số càng cao (điểm số 3), càng dễ đạt tiêu chuẩn đáp 
ứng thoả mãn nhu cầu của du khách. Tương ứng với 
đó, tiêu chí có điểm số 1 hoặc đáp ứng một phần 
mong muốn và nhu cầu của du khách; hoặc gây 
phiền toái cho du khách nhưng ở mức độ chưa 
nghiêm trọng. Tiêu chí đạt điểm 0 gây ảnh hưởng 
nghiêm trọng đến chất lượng du lịch. 
Bảng 2. Ma trận điểm đánh giá văn hoá ứng xử tại các điểm du lịch 
STT Đối tượng Nhóm tiêu chí Hệ số (*) Tiêu chí Biểu hiện của tiêu chí Điểm Tổng điểm 
Lý tưởng 3 N x 3 
Tốt 1 N x 1 
Tiêu chí 1 
Tồi 0 0 
Lý tưởng 3 N x 3 
Tốt 1 N x 1 
Tiêu chí 2 
Tồi 0 0 
Lý tưởng 3 N x 3 
Tốt 1 N x 1 
Nhóm tiêu 
 chí 1 
N 
Tiêu chí n 
Tồi 0 0 
Lý tưởng 3 N x 3 
Tốt 1 N x 1 
Tiêu chí 1 
Tồi 0 0 
Lý tưởng 3 N x 3 
Tốt 1 N x 1 
Tiêu chí 2 
Tồi 0 0 
Lý tưởng 3 N x 3 
Tốt 1 N x 1 
1. Đối tượng 
Nhóm tiêu 
 chí n 
N 
Tiêu chí n 
Tồi 0 0 
2. Z Điểm 
tổng 
(*: Hệ số N của các nhóm tiêu chí là không đồng nhất, tùy thuộc vào tầm quan trọng của từng nhóm tiêu 
chí đó) 
Công thức cơ sở cho việc đánh giá điểm du lịch: 
H1 = N x A, H2 = N x A, HN = N x A 
H = H1 + H2 + HN 
Trong đó: N Hệ số điểm quy định của từng nhóm tiêu chí 
A Điểm quy định cho biểu hiện chi tiết của từng tiêu chí 
H1, H2,... HN Điểm đánh giá cho từng tiêu chí 
H Điểm đánh giá văn hóa tổng hợp các tiêu chí 
C.H. Hà / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 158‐165 163
Ví dụ: Với đối tượng đánh giá là Quản lý 
địa phương, có một số nhóm tiêu chí với các hệ 
số khác nhau, trong đó có nhóm tiêu chí Ban 
quản lý và mức độ phản ứng khi du khách gặp 
bất lợi. Điểm số đánh giá được tính như sau: 
+ Có Ban quản lý tại điểm du lịch: Ban 
Quản lý tích cực và giải quyết có hiệu quả các 
vấn đề phát sinh khi du khách gặp phải: thất lạc 
đồ đạc; bị chộm, cướp; các tranh chấp được 3 
điểm x hệ số 2 = 6 điểm. 
+ Có Ban quản lý tại điểm du lịch: Ban 
Quản lý ít hoạt động hoặc không tích cực giải 
quyết các vấn đề phát sinh cho du khách, được 
1 điểm x hệ số 2 = 2 điểm. 
+ Không có Ban Quản lý: 0 điểm. 
Qua số điểm, có thể đánh giá cấp độ văn hoá 
ứng xử tại các điểm du lịch theo thang điểm: 
Bảng 3. Cấp độ văn hoá hoá ứng xử tại các điểm du lịch 
STT Cấp độ ứng xử Điểm đánh giá Tỉ lệ phần trăm so với số điểm tối đa 
1. Cao (lí tưởng) 129 100% 
2. Khá cao (khá lí tưởng) 111 - dưới 129 86 - dưới 100% 
3. Trung bình 32 - dưới 111 24.8 - dưới 86% 
4. Thấp (kém) 0 - dưới 32 0 - dưới 24.8% 
Ip
Theo thang tính trên, số điểm tối đa trong 
văn hoá ứng xử du lịch một điểm du lịch đạt 
được là 129, tức 100% - cấp độ ứng xử lí tưởng. 
Điểm số tù 32 đến dưới 111 (tức là chiếm từ 
24.8 đến dưới 86% số điểm), đạt cấp độ khá 
cao. Còn lại là cấp độ ứng xử trung bình (32 
đến dưới 111 điểm) và thấp có số điểm dao 
động từ 0 đến dưới 32 (dưới 24.8% tổng số 
điểm). Tuy nhiên, cần thấy rằng các điểm du 
lịch có cấp độ ứng xử văn hoá trung bình cũng 
có sự dao động rất lớn về chất lượng, căn cứ 
vào số điểm mà chúng đạt được. Ví dụ, cùng là 
cấp độ ứng xử trung bình, nhưng với 110 điểm 
thì điểm du lịch A sẽ có chất lượng cao hơn rất 
nhiều so với 33 điểm của điểm du lịch B. 
2.4. Kết quả đánh giá ban đầu 
Sau khi lựa chọn các điểm du lịch được đánh 
giá, nhiệm vụ tiếp theo là thu thập, tổng hợp và 
phân tích các tài liệu liên quan. Để đánh giá được 
chính xác chất lượng văn hoá ứng xử cần phải tiến 
hành nghiên cứu, điều tra và quan sát thực tế. 
Phương pháp điều tra xã hội học thông qua bảng 
hỏi giải pháp tối ưu cho vấn đề này. 
Thực hiện điều tra thông tin xã hội học 
thông qua bảng hỏi đòi hỏi phải chú ý đến 
nhiều vấn đề nhằm đảm bảo việc thu thập thông 
tin từ bảng hỏi phải chính xác. Căn cứ vào các 
kết quả điều tra từ bảng hỏi, định lượng hoá tức 
cho điểm đánh giá các tiêu chí đã được định ra 
từ trước. Tiếp thu kinh nghiệm thiết kế bảng 
hỏi, đề tài sử dụng 4 thang đo trong kỹ thuật đặt 
câu hỏi [4], bao gồm: 
- Thang đo định danh: Các con số hoặc đối 
tượng đưa ra không có quan hệ hơn kém mà chỉ 
có tác dụng phân biệt các phạm trù, khái niệm. 
- Thang đo thứ bậc: mỗi biểu hiện của tiêu 
thức phản ánh sẽ được gắn cho 1 con số để có 
thể phân biệt với nhau. Chúng được so sánh với 
nhau để thấy được sự cao thấp, hơn kém, lớn 
nhỏ, ít nhiều 
- Thang đo khoảng: bằng thang đo thứ bậc 
cộng với điều kiện về khoảng cách bằng nhau 
giữa các bậc của thang đo. 
- Thang đo tỷ lệ: có đầy đủ đặc trưng của 
thang đo khoảng nhưng được xác định với một 
điểm gốc 0 tuyệt đối để có thể so sánh được tỷ 
lệ giữa các trị số đo. 
Căn cứ vào các kết quả điều tra và tính 
toán, sơ bộ đánh giá điểm số của các điểm du 
lịch như sau: 
- Không có điểm du lịch nào đạt điểm ứng 
xử du lịch cao (lí tưởng). 
- Các điểm du lịch có văn hoá ứng xử du lịch 
đạt điểm số khá cao bao gồm: khu di tích Phủ chủ 
tịch (115 điểm), Mai Châu (111), khu di tích quê 
Bác (111) và ngã ba Đồng Lộc (112). Hầu hết các 
C.H. Hà / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 158‐165 164
điểm du lịch trên đều mang cấp trong điểm quốc 
gia, có ý nghĩa lịch sử - văn hoá đặc biệt quan 
trọng nên được quản lý tốt. 
- Còn lại là các điểm du lịch đạt điểm trung 
bình: Tân Trào (93), Pắc Pó (89), Sa Pa (87), 
Đền Trần (85), Tam Cốc - Bích Động (83), Hồ 
Ba Bể (83), Hồ Núi Cốc (79), Khu di tích Điện 
Biên Phủ (92), Yên Tử (83), Côn Sơn - Kiếp 
Bạc (81), Bái Đính (79), vườn quốc gia Cúc 
Phương (78), Nhất - Nhị - Tam Thanh (72) 
Trong đó, đang chú ý là vịnh Hạ Long (102 - di 
sản thiên nhiên thế giới ở Việt Nam được đặc 
biệt đầu tư và quan tâm), phố cổ Hà Nội và phụ 
cận (90), đền Hùng (89), chùa Hương (85),  là 
các điểm du lịch cũng có ý nghĩa đặc biệt quan 
trọng nhưng điểm ứng xử chưa tương xứng. Đây 
tình trạng đáng báo động về văn hoá ứng xử du 
lịch tại khu vực vùng du lịch Bắc Bộ. 
- Các điểm du lịch nghỉ dưỡng biển có điểm 
đánh giá cấp độ văn hoá ứng xử thấp, không có 
điểm du lịch nào vượt quá được 75 điểm: Cát 
Bà (75), Đồ Sơn (71), Sầm Sơn (68), Cửa Lò 
(72), Thiên Cầm (75). Hiện tượng này xuất phát 
từ khá nhiều nguyên nhân, tuy nhiên tác động 
trực tiếp và gián tiếp của tính mùa trong khí hậu 
là 1 vấn đề có trọng số lớn và chưa được giải 
quyết triệt để. 
3. Kết luận 
Nghiên cứu văn hoá ứng xử là vấn đề 
không đơn giản, đòi hỏi tầm nhìn nhiều chiều 
và nhiều phương pháp, bởi du lịch là một hoạt 
động tổng hợp có liên hệ với nhiều lĩnh vực 
khác. Sử dụng định lượng, tức là phận định rạch 
ròi các tiêu chí đánh giá và cố gắng lượng hoá 
chúng bằng điểm số trong đánh giá văn hoá ứng 
xử du lịch không phải là pháp pháp toàn diện. 
Bởi dù có đa dạng đến đâu, các tiêu chí ấy vẫn 
xuất phát từ con mắt chủ quan của người nghiên 
cứu. Tuy nhiên, bài nghiên cứu muốn thông qua 
các con số để thể hiện một cách nhìn toàn cảnh 
về sự yếu kém trong văn hoá ứng xử du lịch tại 
một số điểm du lịch đặc biệt quan trọng có thể 
đại diện cho hình ảnh của cả đất nước Việt 
Nam, một đất nước tự hào giàu truyền thống 
văn hoá. Thông qua đó, bài nghiên cứu cũng thể 
hiện tham vọng phương pháp được sử dụng như 
là một công cụ đánh giá, có thể được kết hợp 
với các phương pháp khác trong quá trình 
nghiên cứu, đánh giá và đề xuất các giải pháp 
cải thiện môi trường du lịch Việt Nam hoàn 
thiện hơn. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Minh Tuệ và nnk, Địa lí du lịch Việt Nam, 
NXB Giáo dục, Hà Nội, 2010. 
[2] Trần Thuý Anh, Ứng xử văn hoá trong du lịch, NXB 
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2012. 
[3] Hồ Công Dũng, Cơ sở khoa học cho việc xây dựng các 
tuyến, điểm du lịch vùng Bắc Trung Bộ, Luận án Phó 
tiến sĩ khoa học Địa lí - Địa chất, Đại học Sư phạm Hà 
Nội, Hà Nội, 1996. 
[4] Trần Thị Kim Thu, Giáo trình điều tra xã hội học, NXB 
Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội, 2011. 
C.H. Hà / Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn 28 (2012) 158‐165 165
Assessing Behaviour Culture in Tourism 
by Quantitative Methods: Research into Destinations 
in Northern Tourism Region 
Cao Hoàng Hà 
Faculty of Vietnamese Studies, Ha Noi University of Education, 
136 Xuân Thủy, Hanoi, Vietnam 
This research paper selects some subjects and their corresponding groups of criteria. In each 
criterion, the researcher divides groups of criteria into several minute criteria and establishes 
coefficient and rating marks for all criteria afterwards. Group methods of sociological investigation are 
used to gather information and rate marks in behaviour culture for 25 tourist destinations in Northern 
Tourism Region. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_van_hoa_ung_xu_trong_du_lich_bang_phuong_phap_dinh.pdf