Đầu tư cho thư viện đại học - Đầu tư cho giáo dục góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học

Tóm tắt Đầu tư cho thư viện đại học - Đầu tư cho giáo dục góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học: ...t khoản kinh phí thích đáng (năm 2011, TV ĐH Kinh tế TPHCM khoảng 1,3 tỉ đồng, ĐH Công nghiệp TPHCM là 1,7 tỉ đồng, ĐH Nông lâm TPHCM khoảng 1,2 tỉ, ĐH Bách Khoa TPHCM là 1 tỉ, ĐH Sư phạm Kĩ thuật TPHCM là 1,5 tỉ, ĐH Luật TPHCM là 800 triệu, ĐH Sư phạm TPHCM khoảng 550 triệu, ĐH Mở T...ức hoạt động TV trường ĐH được ban hành kèm theo Quy định số 13/2008/CĐ-BVHTTDL ngày 10-3-2008 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Điều 5 Chương II nêu rõ: “TV trường ĐH là một đơn vị trong cơ cấu tổ chức của trường ĐH có lãnh đạo TV và các phòng(hoặc tổ) chuyên môn, nghiệp... và bổ sung nguồn tài liệu đầy đủ, đa dạng, đặc biệt đối với cơ sở dữ liệu điện tử. Tại Điều 16, Nghị định số 72/2002/NĐ-CP ngày 06-8-2002 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh TV nêu rõ: “Nhà nước thực hiện chính sách xã hội hóa hoạt động TV, khuyến khích tổ chức, cá n...

pdf8 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 330 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Đầu tư cho thư viện đại học - Đầu tư cho giáo dục góp phần nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phạm TPHCM 
tin. Đầu tư cho TV chính là đầu tư cho 
một trong những cơ sở vật chất dùng 
chung có tính nền tảng, tác động tích cực 
đến hoạt động giảng dạy, nghiên cứu 
khoa học và học tập, nâng cao chất lượng 
đào tạo nguồn nhân lực. 
Nhận thức rõ điều này, trong thời 
gian qua, nhiều trường ĐH đã chú ý và 
cố gắng tìm các nguồn vốn đầu tư cho 
việc xây dựng và phát triển TV. Tuy 
nhiên, TV ĐH Việt Nam, do những điều 
kiện khách quan cũng như chủ quan, 
chưa được nhìn nhận và đầu tư đúng như 
vị thế mà nó phải có. Đây có thể là một 
trong những nguyên nhân dẫn đến chất 
lượng chưa cao của các sản phẩm được 
tạo ra từ các trường ĐH Việt Nam. 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 45 năm 2013 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 72 
2. Khái quát về đầu tư cho thư viện 
các trường đại học hiện nay 
2.1. Cơ chế đầu tư 
Đối với các TV thuộc khối ĐH 
công lập, kinh phí đầu tư cho TV chủ yếu 
dựa vào ngân sách Nhà nước. Đối với các 
TV thuộc khối ĐH dân lập, kinh phí đầu 
tư do chủ sở hữu quyết định. 
TV ĐH về cơ bản được chia làm ba 
nhóm: 
- Nhóm TV của các ĐH quốc gia, 
ĐH vùng; 
- Nhóm TV của các trường ĐH, các 
học viện, các trường ĐH thành viên 
thuộc ĐH quốc gia và ĐH vùng; 
- Nhóm TV các trường cao đẳng 
(CĐ). 
Do tính chất, đặc điểm và quy mô 
của các trường ĐH là khác nhau nên 
chính sách đầu tư, tổ chức, nhân sự, cơ sở 
vật chất trang thiết bị ở các TV cũng khác 
nhau. Trong khi các TV của ĐH vùng và 
ĐH Quốc gia có tư cách pháp nhân, có 
con dấu, tài khoản riêng, trực thuộc ban 
giám đốc và phần lớn trực thuộc ban 
giám hiệu, thì TV của 25% trường ĐH 
không trực thuộc ban giám đốc, mà thuộc 
các phòng chức năng như: Đào tạo, Quản 
lí Khoa học Điển hình như các trường: 
ĐH Dược Hà Nội, ĐH Sư phạm Hà Nội 
2, ĐH Bách Khoa Thành phố Hồ Chí 
Minh (TPHCM), ĐH Văn Hiến TPHCM, 
ĐH Biên phòng, ĐH Dân lập Phương 
Đông, ĐH Sư phạm Nam Định, ĐH Hoa 
Lư, Học viện Quân y, Học viện Hành 
chính Quốc gia TPHCM Còn ở các 
trường CĐ, con số này lên tới gần 70%. 
Với cơ cấu tổ chức như vậy, cơ chế 
đầu tư cho TV ĐH có thể chia làm 2 loại: 
- Các TV ĐH quốc gia, ĐH vùng có 
tư cách pháp nhân, con dấu, tài khoản 
riêng (chiếm khoảng 5%): nguồn kinh phí 
vẫn do đơn vị chủ quản cấp, nhưng tính 
chủ động và linh hoạt khá cao. Tùy vào 
nhu cầu bạn đọc và tùy vào từng giai 
đoạn phát triển, các TV lập kế hoạch ưu 
tiên cho các nhiệm vụ trọng tâm. 
- Các TV ĐH được coi là một bộ 
phận, hoạt động như một phòng chức 
năng (chiếm khoảng 95%): kinh phí hoạt 
động phụ thuộc hoàn toàn và nguồn ngân 
sách của nhà trường. Khi cần có kinh phí 
cho các hoạt động, TV lập dự trù kính phí 
và trình Ban Giám hiệu phê duyệt. Cơ 
chế này thiếu tính ổn định và hạn chế 
quyền chủ động của TV, do phải phụ 
thuộc vào các yếu tố khác như nhu cầu 
của các khoa (trong việc mua tài liệu), 
khả năng tài chính của trường, sự cấp 
thiết của đề xuất 
2.2. Kinh phí đầu tư xây dựng thư viện 
Khoảng 10 năm trở lại đây, một số 
TV ĐH được nâng cấp nhờ nguồn kinh 
phí Nhà nước, nhờ vốn vay Ngân hàng 
Thế giới và nhờ tài trợ nước ngoài. Dự án 
Giáo dục ĐH đã đầu tư cho 25 TV ở 
nhóm các trường ĐH với mức đầu tư 
thấp nhất là khoảng 500.000 USD (chiếm 
gần 1/3 tổng số tiền của Dự án). Ngoài 
một số TV được đầu tư lớn như TV Tạ 
Quang Bửu (Trường ĐH Bách khoa Hà 
Nội) với 199 tỉ đồng, TV ĐH Vinh: 31 tỉ 
đồng, các trung tâm học liệu Cần Thơ, 
Huế, Đà Nẵng, Thái Nguyên khoảng 5-9 
triệu USD/trung tâm từ kinh phí của tổ 
chức Atlantic Philantropies. Có thể nói 
bộ mặt của TV ĐH Việt Nam đã thay đổi 
nhanh chóng trong những năm qua. 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Quỳnh Chi 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 73 
Nhiều tòa nhà dành riêng cho TV được 
xây mới theo đúng thiết kế đặc thù và 
tiêu chuẩn quốc tế, trang thiết bị TV 
chuyên dụng và hệ thống mạng máy tính 
hiện đại được lắp đặt. 
2.3. Kinh phí đầu tư cho việc phát triển 
nguồn lực thông tin 
Khoảng 10 năm trở lại đây, một số 
TV đã được cấp kinh phí từ nhiều nguồn 
khác nhau cho việc cải tạo, xây dựng lại. 
Nhóm TV của các trường ĐH quốc gia, 
ĐH vùng đều thành lập TV trung tâm 
hoặc trung tâm học liệu, hoạt động theo 
mô hình của những TV hiện đại với 
nhiều dịch vụ thông tin. Song song với 
các hạng mục xây dựng, mua sắm trang 
thiết bị, hạng mục bổ sung tài liệu luôn 
được dành một khoản kinh phí thích đáng 
(năm 2011, TV ĐH Kinh tế TPHCM 
khoảng 1,3 tỉ đồng, ĐH Công nghiệp 
TPHCM là 1,7 tỉ đồng, ĐH Nông lâm 
TPHCM khoảng 1,2 tỉ, ĐH Bách Khoa 
TPHCM là 1 tỉ, ĐH Sư phạm Kĩ thuật 
TPHCM là 1,5 tỉ, ĐH Luật TPHCM là 
800 triệu, ĐH Sư phạm TPHCM khoảng 
550 triệu, ĐH Mở TPHCM là 800 triệu, 
ĐH Khoa học Tự nhiên TPHCM khoảng 
500 triệu, ĐH Sài Gòn khoảng 800 triệu, 
ĐH Ngân hàng TPHCM khoảng 800 
triệu, ĐH Hoa Sen khoảng 600 triệu, ĐH 
Ngoại ngữ và Tin học khoảng 400 triệu, 
ĐH Kĩ thuật Công nghệ TPHCM khoảng 
200 triệu). Trung bình, mỗi TV ĐH 
được cấp khoảng 500 triệu đồng để bổ 
sung tài liệu trong một năm (số liệu qua 
trao đổi trực tiếp với các giám đốc TV và 
từ nguồn báo cáo tổng kết của các TV). 
Tại các trường CĐ, kinh phí bổ 
sung tài liệu cho TV còn khá hạn hẹp và 
hoàn toàn phụ thuộc vào nhà trường. 
Ngoài một số ít trường CĐ hưởng lợi từ 
dự án của Bộ GD&ĐT hoặc được các tổ 
chức khác tài trợ như TV Trường CĐ Hà 
Nội, CĐ Hà Giang, hầu hết các trường 
CĐ có nguồn kinh phí này chỉ trong 
khoảng 40 – 60 triệu đồng/năm (Theo 
báo Giáo dục và Thời đại, ngày 16-10-
2008, tr.5). 
3. Nhận xét 
Như chúng tôi đã nêu, bộ mặt của 
TV ĐH Việt Nam đã thay đổi nhanh 
chóng trong những năm qua. Nhiều tòa 
nhà dành riêng cho TV được xây mới 
theo đúng chuẩn mực quốc tế, trang thiết 
bị TV chuyên dụng và hệ thống mạng 
máy tính hiện đại được lắp đặt. Ðiều này 
thể hiện sự thay đổi to lớn trong cách 
nhìn nhận về vai trò của TV ĐH và sự 
quan tâm đối với công tác TV của các 
cấp lãnh đạo. 
Tuy nhiên, nếu tính số TV ĐH 
được hưởng đầu tư (khoảng 50 trên tổng 
số 188 TV ĐH và 226 TV CĐ trong cả 
nước) thì tỉ lệ này là quá thấp. Hơn nữa, 
hầu hết các TV hiện đại đều chưa phát 
huy hết hiệu quả sử dụng. Vấn đề quan 
trọng là cần duy trì hoạt động thường 
xuyên và tiếp tục phát triển TV trong 
tương lai. Tất cả các TV khi đã sử dụng 
hết kinh phí của Dự án đều gặp nhiều khó 
khăn trong việc tìm các nguồn kinh phí 
khác để tiếp tục bổ sung cơ sở dữ liệu, 
thay thế trang thiết bị hư hỏng Đơn cử 
như việc chi trả tiền điện cho Trung tâm 
học liệu tại ÐH Cần Thơ (khoảng 1,2 tỉ 
đồng/năm), sau khi dự án kết thúc, là một 
gánh nặng quá sức đối với ngân sách của 
nhà trường. 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 45 năm 2013 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 74 
Các văn bản, cơ chế chính sách về 
lĩnh vực TV chưa thật đầy đủ và kịp thời. 
Đã có một số văn bản được ban hành: 
Pháp lệnh TV, Điều lệ trường ĐH (ban 
hành theo quyết định số 153/2003/TTg 
của Thủ tướng Chính phủ), Quy chế mẫu 
về tổ chức và hoạt động TV trường ĐH 
của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, 
năm 2008... Tuy nhiên, các điều khoản về 
đầu tư ngân sách tại các văn bản này đều 
còn chung chung, khiến việc vận dụng 
văn bản của các trường không đồng nhất. 
Bên cạnh đó, chúng ta chưa có cơ 
chế hợp lí và chính sách đầu tư cụ thể, 
lâu dài cho các TV ĐH. Một số trường 
cấp kinh phí cho TV mang nặng tính chủ 
quan, định tính. Kinh phí bổ sung tài liệu 
cho các TV ĐH còn hạn hẹp, chưa đáp 
ứng được nhu cầu của người sử dụng. 
Không phải lúc nào TV ĐH cũng 
được coi như một bộ phận tích cực và 
quan trọng, góp phần nâng cao chất 
lượng nghiên cứu khoa học và đào tạo 
của trường. Bên cạnh đó, bản thân các 
TV chưa tận dụng hiệu quả nguồn lực 
thông tin hiện có để tạo thành các sản 
phẩm thông tin có thu. Quy mô phát triển 
chưa có sự đồng bộ, các hoạt động TV 
đơn lẻ, rời rạc và thiếu liên kết. 
Đội ngũ cán bộ TV thường không 
ổn định, trình độ nghiệp vụ chuyên môn 
không đồng đều, gây ảnh hưởng không 
nhỏ tới hoạt động của các TV. Một phần 
lớn cán bộ TV chưa được đào tạo chuyên 
môn, một số đã được đào tạo nhưng vẫn 
còn thiếu tính chuyên nghiệp, thiếu các kĩ 
năng giao tiếp và tư vấn thông tin. Chế 
độ, chính sách cho cán bộ TV vẫn còn 
những điểm không phù hợp, chưa theo 
kịp với tình hình thực tiễn. 
4. Giải pháp và ý kiến đề xuất 
Để đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo 
dục, TV ĐH phải được đầu tư phát triển. 
Mục tiêu của các trường ĐH trong việc 
đầu tư cho TV là đảm bảo cung cấp được 
nguồn thông tin đáp ứng nhu cầu của đại 
đa số người sử dụng trong phạm vi nhà 
trường. Muốn đạt được mục tiêu đó, cần 
phải: 
(i) Đổi mới quan điểm, cơ chế hoạt 
động của thư viện đại học 
Quy chế mẫu về tổ chức hoạt động 
TV trường ĐH được ban hành kèm theo 
Quy định số 13/2008/CĐ-BVHTTDL 
ngày 10-3-2008 của Bộ trưởng Bộ Văn 
hóa Thể thao và Du lịch, Điều 5 Chương 
II nêu rõ: “TV trường ĐH là một đơn vị 
trong cơ cấu tổ chức của trường ĐH có 
lãnh đạo TV và các phòng(hoặc tổ) 
chuyên môn, nghiệp vụ”. Do vậy, phải 
xác định TV là thiết chế quan trọng hàng 
đầu trong cơ cấu đào tạo của một trường 
ĐH, tham gia và chịu trách nhiệm chính 
vào hoạt động đào tạo của trường; TV 
phải là một đơn vị độc lập, tương đương 
với các khoa, phòng, ban và chịu sự quản 
lí trực tiếp của trường. 
Các cơ quan tham mưu của Bộ 
Giáo dục và Đào tạo cần phối hợp với Bộ 
Văn hóa, Thể thao và Du lịch, với các 
ngành hữu quan tăng cường quản lí Nhà 
nước về công tác TV ĐH, tiến hành rà 
soát, bổ sung, sửa đổi các văn bản pháp 
quy về TV, tạo hành lang pháp lí thuận 
lợi hơn cho sự phát triển hệ thống TV 
ĐH; nhanh chóng triển khai các quy chế 
tổ chức và hoạt động TV ĐH; đảm bảo 
điều kiện để TV ĐH thực hiện đầy đủ 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Quỳnh Chi 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 75 
chức năng và nhiệm vụ của mình. Bên 
cạnh đó, trường cũng cần có cơ chế phù 
hợp để TV có thể chủ động khai thác 
nguồn thông tin, cung ứng thông tin cho 
người dùng tin theo yêu cầu. Từ đó, TV 
ĐH có thể thu hút các nguồn lực bên 
ngoài và nguồn lực nội tại để triển khai 
dịch vụ thông tin một cách thích hợp, tạo 
được nhiều sản phẩm thông tin đa dạng, 
phong phú cho nhà trường và xã hội. 
(ii) Xây dựng và hoàn thiện chính 
sách đầu tư đối với thư viện đại học 
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch có 
Văn bản số 97 TTLB/VHTTDL-TC ngày 
15-6-1990 về Hướng dẫn chế độ quản lí 
tài chính và chính sách đầu tư của Nhà 
nước đối với TV công cộng. Tuy nhiên, 
chưa có văn bản nào quy định chính sách 
đầu tư cụ thể đối với các TV ĐH. Điều 
này dẫn đến việc các trường cấp kinh phí 
cho TV không căn cứ theo một chuẩn 
chung, còn mang nặng tính chủ quan, do 
đó, độ chênh lệch kinh phí được cấp giữa 
các TV ĐH là khá lớn. Vì vậy, cần xây 
dựng cơ chế đầu tư cho TV ĐH, phải có 
một chính sách mang tính pháp lí về sự 
đầu tư cho TV ĐH, trước mắt cũng như 
lâu dài. Đó phải là một hạng mục chi tiêu 
chính thức và tương đối lớn trong ngân 
sách nhà trường. Cần có quy định cụ thể 
cấp bao nhiêu % từ kinh phí của Nhà 
nước, bao nhiêu % từ các nguồn kinh phí 
khác để đầu tư cho TV. Có thể dành 
khoảng 2-5% ngân sách giáo dục của một 
trường cho nguồn tài liệu và các bộ sưu 
tập khác của TV (ở Trung Quốc, hơn một 
nửa các trường ĐH phân phối tối thiểu 
5% ngân sách giáo dục của nhà trường 
cho việc bổ sung tài liệu TV. Tiêu chuẩn 
ngân sách dành cho một TV mang tính 
quốc gia cũng được tính đến trong bảng 
đánh giá “ Cơ sở hạ tầng giảng dạy cơ 
sở”. Chẳng hạn, một trường ĐH đạt điểm 
A thì phải có 5% trong tổng số ngân sách 
giáo dục dành cho việc mua sắm tài liệu 
cho TV, trong khi đó một trường đạt 
điểm C thì chỉ cần 3%). 
Hoặc có thể tính theo công thức: 
T = (A x S1) + (B x S2) + (C x S3) 
Trong đó quy ước: 
- Kinh phí bổ sung tài liệu cho TV 
(T); 
- Tổng số sinh viên của Trường (A); 
- Kinh phí bổ sung/01 sinhviên, được 
nhà trường quy định hàng năm (S1); 
- Tổng số học viên sau ĐH của 
Trường (B); 
- Kinh phí bổ sung/01 học viên, được 
nhà trường quy định hàng năm (S2); 
- Tổng số cán bộ, giảng viên của 
Trường (C); 
- Kinh phí bổ sung/01 cán bộ, giảng 
viên, được nhà trường quy định hàng 
năm (S2). 
Ví dụ: 
Năm 2011 Trường X có 20.000 SV 
và quy định S1 = 50.000đ/1sv; 1000 học 
viên và 500 cán bộ, giảng viên được quy 
định S2,3 = 100.000đ/1 người. 
Chúng ta sẽ có : Kinh phí bổ sung 
tài liệu cho TV của trường X năm 2011 
là: 
(20.000 x 50.000đ) + (1000 x 
100.000đ) + (500 x 100.000đ) = 
1.150.000.000đ. 
(iii) Huy động nhiều nguồn kinh phí 
và thực hiện xã hội hóa thư viện đại học 
Bên cạnh nguồn kinh phí hằng năm 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 45 năm 2013 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 76 
từ ngân sách của trường, nhà trường và 
TV cần chủ động tìm kinh phí từ những 
dự án trong và ngoài nước. Thực tế cho 
thấy, nếu chỉ phụ thuộc vào nguồn ngân 
sách được cấp, các TV sẽ không thể xây 
dựng, mua sắm hệ thống trang thiết bị và 
bổ sung nguồn tài liệu đầy đủ, đa dạng, 
đặc biệt đối với cơ sở dữ liệu điện tử. 
Tại Điều 16, Nghị định số 
72/2002/NĐ-CP ngày 06-8-2002 của 
Chính phủ, quy định chi tiết thi hành 
Pháp lệnh TV nêu rõ: “Nhà nước thực 
hiện chính sách xã hội hóa hoạt động TV, 
khuyến khích tổ chức, cá nhân Việt Nam, 
tổ chức, cá nhân nước ngoài tặng tài liệu, 
tiền, tài sản, đóng góp công sức cho việc 
phát triển TV”. Đối với TV ĐH, việc 
thực hiện xã hội hóa bằng cách đa dạng 
hóa các mô hình phục vụ sinh viên như 
cà phê TV, TV xanh, tủ sách chuyên 
ngành, TV tư nhân đang ngày càng 
được nhân rộng. Ví dụ: TV Trung tâm 
ĐH Quốc gia TPHCM, ĐH Bách khoa 
TPHCM đã được thụ hưởng chương 
trình TV SK Telecom do SK Telecom 
(Hàn Quốc) tài trợ, TV ĐH Khoa học Tự 
nhiên, ĐH Sư phạm TPHCM, ĐH Kinh 
tế TPHCM xây dựng tủ sách sinh viên do 
tập đoàn Viettel tài trợ... 
(iv) Tăng cường hoạt động chia sẻ 
nguồn lực thông tin 
Chia sẻ nguồn lực thông tin là một 
giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình 
trạng thiếu thông tin – tư liệu, do các TV 
hoạt động riêng lẻ, đồng thời tiết kiệm 
kinh phí do sự trùng lặp của tài liệu. Tuy 
nhiên, với hiện trạng TV Việt Nam, 
muốn kết nối các TV, các nhà quản lí 
phải giải quyết những vấn đề cơ bản từ 
chuyên môn nghiệp vụ, ngân sách đến 
những nguyên tắc, quy chế cho ngành TV 
một cách nhiệt tâm và tích cực. 
Để thực hiện được điều này, TV 
phải nhanh chóng chuẩn hóa công tác 
chuyên môn, hoàn thiện hệ thống mạng, 
xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử của mình. 
Tuy nhiên, một khó khăn rất lớn là sự 
không thống nhất trong công tác chuyên 
môn, xử lí kĩ thuật tài liệu và sự chênh 
lệch về hạ tầng cơ sở, tin học hóa giữa 
các TV. Bên cạnh đó, kinh phí đầu tư để 
thực hiện việc liên kết mạng tương đối 
lớn và vấn đề bảo đảm an toàn dữ liệu 
chưa có quy định rõ ràng. Chính vì vậy, 
nhu cầu chia sẻ nguồn lực thông tin là rất 
cần thiết, nhưng đòi hỏi một sự nỗ lực rất 
lớn của không chỉ của các cán bộ TV mà 
còn là sự quan tâm, hỗ trợ tích cực của 
các nhà quản lí các ngành, các cấp. 
Trước mắt, cần có một cơ quan chủ 
quản như Vụ TV, TV Quốc gia trong 
việc xây dựng văn bản quy định trách 
nhiệm, quyền lợi về hoạt động chia sẻ 
nguồn thông tin và tập hợp các TV có 
nhu cầu thông tin giống nhau, thông qua 
một TV đầu mối, có thể cùng mua chung 
một cơ sở dữ liệu điện tử theo hình thức 
“consortium”. 
(v) Bồi dưỡng nâng cao trình độ 
năng lực của cán bộ thư viện 
Việc đầu tư cho TV sẽ tốn kém và 
trở thành lãng phí nếu không được quản 
lí và khai thác tốt. Muốn sử dụng hiệu 
quả kinh phí đầu tư cho TV, cần có một 
đội ngũ cán bộ TV đủ trình độ và năng 
lực về quản lí, chuyên môn. Vì vậy, các 
cấp lãnh đạo cần có kế hoạch cụ thể xây 
dựng và phát triển đội ngũ cán bộ TV, tạo 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Quỳnh Chi 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 77 
điều kiện cho cán bộ TV tham gia các 
khóa tập huấn chuyên môn, ngoại ngữ, 
tin học trong và ngoài nước để họ có đủ 
khả năng làm chủ các phương tiện kĩ 
thuật hiện đại, lĩnh hội những kiến thức 
mới, nắm bắt xu hướng hội nhập trong 
khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, 
cần xem xét và thực hiện đầy đủ chế độ 
chính sách đãi ngộ đối với cán bộ TV để 
họ yên tâm công tác, cống hiến hết khả 
năng và trí tuệ của mình. 
3. Kết luận 
Chính sách đầu tư cho TV đã được 
thể chế hóa trong Pháp lệnh TV, trong 
đó, Điều 21, Mục 1 có quy định “Đầu tư 
để đảm bảo cho các TV hưởng ngân sách 
nhà nước hoạt động, phát triển và từng 
bước hiện đại hóa cơ sở vật chất – kĩ 
thuật, điện tử hóa, tự động hóa TV, đào 
tạo, bồi dưỡng đội ngũ những người làm 
công tác TV”. Trong quy hoạch phát triển 
chung của ngành TV Việt Nam đến năm 
2010 và định hướng đến 2020, riêng phần 
về TV các trường ĐH có nêu “Hết sức 
coi trọng vị trí TV ĐH trong công tác đào 
tạo nhân lực và nghiên cứu khoa học; 
nâng cấp TV các trường ĐH như xây 
mới, tu bổ làm cho TV hiện đại, phong 
phú tài liệu; xây dựng các chuẩn nghiệp 
vụ cho các khâu xử lí kĩ thuật... “. Đầu tư 
cho TV chính là đầu tư cho giáo dục, là 
một đầu tư đặc biệt về kinh tế mà hiệu 
quả của nó được đo lường bởi chất lượng 
sản phẩm của nền giáo dục, có tác động 
lớn và lâu dài đến sự phát triển của một 
đất nước. 
Trong bối cảnh giáo dục ĐH đang 
đổi mới một cách mạnh mẽ với mục tiêu 
nâng giáo dục Việt Nam ngang tầm khu 
vực và quốc tế, hệ thống TV ĐH cần phải 
có những đổi mới căn bản và sâu sắc. TV 
ĐH phải trở thành niềm tự hào của các 
trường ĐH, là tâm điểm của mọi hoạt 
động trong nhà trường, là nơi kiểm 
nghiệm đáng tin cậy của giảng viên trong 
quá trình giảng dạy và học tập. Đã đến 
lúc chúng ta phải có những đổi mới cơ 
bản về nhận thức, đầu tư phát triển TV, 
xây dựng chính sách mang tính pháp lí, 
quản lí thống nhất để các TV ĐH thực sự 
là trung tâm thông tin, trung tâm học liệu 
của các trường ĐH trong bối cảnh hội 
nhập khu vực và quốc tế. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2008), Quy chế mẫu về tổ chức hoạt động thư viện 
trường đại học (ban hành kèm theo Quy định số 13/2008/CĐ-BVHTTDL ngày 10-3-
2008 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch). 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo 
dục trường đại học (ban hành kèm theo Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT ngày 
01-11-2007 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ). 
3. Lê Quỳnh Chi (2008), “Thư viện đại học góp phần nâng cao chất lượng đào tạo”, 
Tạp chí Thư viện Việt Nam, 2 (14), tr.18-23. 
(Xem tiếp trang 87) 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 45 năm 2013 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
 78 
4. Nguyễn Huy Chương (2006), “Ðề xuất đổi mới thư viện đại học Việt Nam đáp ứng 
yêu cầu hội nhập quốc tế”, Kỉ yếu Hội thảo quốc tế “Thư viện Việt Nam hội nhập và 
phát triển”. 
5. Nguyễn Văn Thiên, Phạm Thị Thành Tâm (2012), “Một vài ý kiến về chính sách đầu 
tư phát triển đối với các thư viện đại học Việt Nam”, Kỉ yếu Hội thảo”Chính sách 
đầu tư của nhà nước đối với hoạt động thư viện”. 
6. Vũ Bích Ngân (2009), “Hướng đến một mô hình thư viện đại học hiện đại phục vụ 
chiến lược nâng cao chất lượng giáo dục đại học”, Tạp chí Thư viện Việt Nam, (1). 
7. Fang, Conghui (2010), “Statistical evaluation of university libraries in China”, The 
journal of information and knowledge management systems, 35 (4), 221-229. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 15-01-2013; ngày phản biện đánh giá: 04-4-2013; 
ngày chấp nhận đăng: 10-4-2013) 

File đính kèm:

  • pdfdau_tu_cho_thu_vien_dai_hoc_dau_tu_cho_giao_duc_gop_phan_nan.pdf