Định hướng đánh giá năng lực viết của học sinh tiểu học

Tóm tắt Định hướng đánh giá năng lực viết của học sinh tiểu học: ...a đối với việc đánh giá năng lực của học sinh, giúp người đánh giá xác định các tiêu chí đánh giá. Trong đó, có các tiêu chí biểu hiện cho năng lực chung mà mọi học sinh cần có và thể hiện chúng; tiêu chí về năng lực chuyên biệt giúp học sinh nhìn nhận điểm mạnh của mình, làm cơ sở đ...áo viên chưa hình dung được đánh giá theo năng lực thì có gì khác biệt lớn so với trước đây. Điều cần lưu tâm nữa là các bài viết, kết quả học tập của các môn học khác (ngoải Tiếng Việt) và sản phẩm từ các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ít được chú ý và chưa được xem như là k...nh giá cuối năm, cuối cấp. Hồ sơ cá nhân là những bài viết (hoặc hình ảnh những bài viết) cùng những lời nhận xét của giáo viên, của bạn, của chính bản thân học sinh được lưu giữ lại. Với thực tiễn, số lượng học sinh/lớp khá đông thì đây cũng là một biện pháp giúp cho việc đánh giá của...

pdf9 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 248 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Định hướng đánh giá năng lực viết của học sinh tiểu học, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Thị Tuyết: năng lực 
được xem như là sự tích hợp sâu sắc của 
kiến thức – kĩ năng – thái độ làm nên khả 
năng thực hiện một công việc chuyên 
môn và được thể hiện trong thực tiễn 
hoạt động [9]. Ngoài ra, năng lực còn 
được nhìn nhận là liên quan đến thái độ, 
động cơ, và khả năng giúp cá nhân phát 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Ngọc Tường Khanh 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
179 
triển các kiến thức, kĩ năng liên quan để 
họ có thể độc lập hoạt động và đạt thành 
tựu cao hơn. Cũng cần lưu ý rằng, năng 
lực của một cá nhân cần được đánh giá 
dựa theo thành quả của các hoạt động học 
tập được vận dụng một cách thường 
xuyên, chứ không phải một sự thể hiện 
xuất chúng, nhất thời hay ngoại lệ. Đối 
chiếu quan điểm này với thực tiễn hiện 
nay, đánh giá học sinh chủ yếu dựa trên 
“Kết quả học tập” - kết quả của các bài 
kiểm tra, bài thi - hơn là “Mục tiêu dạy 
học”. Trong khi đó, “Mục tiêu dạy học” 
có nội hàm gần với các quan điểm về 
“năng lực” hơn. Thông tư 30 được ban 
hành đã phần nào giải thích rõ hơn việc 
đánh giá theo năng lực của học sinh: 
đánh giá theo quá trình, vì sự tiến bộ của 
người học, ghi rõ những nhận xét về kiến 
thức – thái độ - kĩ năng mà học sinh thể 
hiện thông qua các hoạt động học tập và 
bài kiểm tra. [3] 
Trong một bài viết, Đỗ Ngọc Thống 
nhận định: Nói đến năng lực là phải nói 
đến khả năng thực hiện, là phải “biết 
làm” (know-how), chứ không chỉ “biết và 
hiểu” (know-what) [8]. “Biết làm” cần 
được hiểu bao gồm hệ thống những tri 
thức – kĩ năng – thái độ mà người học 
thực hiện trong các hoạt động cụ thể và 
giải quyết những tình huống do cuộc 
sống đặt ra. Năng lực được phân thành 
hai loại chính: năng lực chung và năng 
lực chuyên biệt. Năng lực chung được 
hình thành và phát triển từ nhiều môn 
học, liên quan đến nhiều môn học. Trong 
khi đó, năng lực chuyên biệt được hình 
thành và phát triển từ một môn học riêng 
biệt, mang nét đặc trưng của một môn 
học cụ thể. Sự phân chia này có ý nghĩa 
đối với việc đánh giá năng lực của học 
sinh, giúp người đánh giá xác định các 
tiêu chí đánh giá. Trong đó, có các tiêu 
chí biểu hiện cho năng lực chung mà mọi 
học sinh cần có và thể hiện chúng; tiêu 
chí về năng lực chuyên biệt giúp học sinh 
nhìn nhận điểm mạnh của mình, làm cơ 
sở để phát huy sở trường, năng khiếu. 
Trong bài viết Chương trình giáo 
dục định hướng phát triển năng lực [10], 
tác giả nhận định: Chương trình phát 
triển năng lực cho người học được xem là 
chương trình theo định hướng “Kết quả 
đầu ra”. “Kết quả đầu ra” được hiểu 
chính là “Kết quả học tập”, là hệ thống 
mô tả chi tiết các năng lực mà người học 
cần đạt. Trong đó, không những mô tả 
chi tiết kết quả cuối cùng cần đạt được 
mà còn nhấn mạnh đến quá trình thực 
hiện chúng. Các “chi tiết” này cần cụ thể, 
rõ ràng và nhấn mạnh đến khả năng vận 
dụng của học sinh để người đánh giá có 
thể quan sát được và ghi nhận chúng một 
cách tường minh. Tác giả bài viết cũng 
đề xuất: đánh giá năng lực hành động – 
tạm quy chiếu vào giáo dục tiểu học là 
hoạt động học tập và các hoạt động giáo 
dục khác - có thể dựa vào sự kết hợp các 
năng lực thành phần: năng lực chuyên 
môn, năng lực phương pháp, năng lực xã 
hội và năng lực cá thể. Và theo tác giả 
bài viết, 4 năng lực thành phần này phù 
hợp với 4 trụ cột giáo dục mà UNESCO 
đề xuất. Tham khảo sơ đồ sau: 
Tư liệu tham khảo Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
180 
Tóm lại, từ những quan điểm đã 
nêu, có thể nhận thấy: Đánh giá theo 
năng lực cần thỏa mãn một số tiêu chí: 
- Cần thiết phải tổ chức hoạt động để 
đánh giá năng lực người học. Thông qua 
hoạt động, người học bộc lộ những tri 
thức – kĩ năng – thái độ từ nhiều môn học 
khác nhau. Người học cần biết vận dụng 
chúng một cách linh hoạt và hài hòa; có 
cơ hội bộc lộ khả năng chuyên biệt. 
- Các hoạt động càng phản ánh sát 
với thực tiễn cuộc sống thì người học 
càng thấy được ích lợi của việc học và 
công việc đánh giá càng có ý nghĩa hơn. 
- Các hoạt động nên được tổ chức 
một cách thường xuyên, thông qua nhiều 
hình thức khác nhau, tạo điều kiện cho 
người học rèn luyện và bộc lộ năng lực 
một cách thường xuyên. 
- Quan tâm đến quá trình rèn luyện 
và sự tiến bộ của người học. 
- Chú trọng khả năng “đánh giá” của 
người học, bao gồm khả năng đánh giá 
chính mình và đánh giá người khác. 
- Các chỉ số đánh giá nên tường 
minh, rõ ràng để người đánh giá có thể 
quan sát và ghi nhận được. 
2.2. Mục tiêu dạy học viết và việc đánh 
giá chúng trong giai đoạn hiện nay ở 
tiểu học 
Chương trình tiểu học hiện hành 
không đề ra “Mục tiêu dạy học viết” cụ 
thể, chúng được xác định trong Mục tiêu 
môn Tiếng Việt nói chung. Như mục 2.1. 
đã đề cập, đánh giá theo năng lực là đánh 
giá theo “Kết quả đầu ra”, vậy tạm xem 
Chuẩn yêu cầu về kiến thức, kĩ năng viết 
đối với học sinh các lớp là “Mục tiêu dạy 
học viết” và là căn cứ đánh giá kết quả 
học tập cuối năm học của học sinh trong 
giai đoạn hiện nay. 
Chuẩn yêu cầu về kiến thức, kĩ 
năng quy định cụ thể mức độ học sinh 
cần đạt về mặt kiến thức và kĩ năng đối 
với mỗi lớp học. Nhìn chung, “Mức độ 
cần đạt” chủ yếu mô tả kết quả cần đạt 
của nội dung dạy học, các kĩ năng của bài 
học. Vì vậy, khi đánh giá kết quả một bài 
viết của học sinh, giáo viên thường chú 
trọng đến những nội dung, kĩ năng cụ thể 
liên quan đến nội dung cần viết. Để đánh 
giá một bài viết của học sinh, giáo viên 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Ngọc Tường Khanh 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
181 
thường đặt các câu hỏi như: Viết cái gì? 
(có phù hợp với yêu cầu của đề); Bố cục 
bài viết thế nào? Các chi tiết trong bài 
được sắp xếp thế nào? Tính sáng tạo và 
tính riêng cá nhân. Ngoài ra, giáo viên 
cũng quan tâm đến việc học sinh vận 
dụng những kiến thức, kĩ năng có được từ 
các phân môn của Tiếng Việt để đưa vào 
bài làm của mình. Tuy nhiên, việc chỉ tập 
trung đánh giá vào kết quả cuối cùng của 
quá trình học tập, làm cho giáo viên và 
học sinh ít quan tâm đến kĩ năng hình 
thành bài viết, quá trình hoàn thiện bài 
viết và khả năng hợp tác, tìm kiếm thông 
tin cho bài viết. 
Thông tư 30 ban hành [4], phần nào 
khắc phục hạn chế của cách đánh giá 
trước đây như: đánh giá quá trình học 
tập, quan tâm đến sự hình thành và phát 
triển năng lực, đánh giá vì sự tiến bộ của 
người học, quan tâm đến sự thể hiện các 
năng lực cá nhân và xã hội (tự giải quyết 
vấn đề, hợp tác), quan tâm đến kĩ năng tự 
đánh giá nhiều hơn. Tuy nhiên, tiêu chí 
để đánh giá3 vẫn là Chuẩn yêu cầu kiến 
thức, kĩ năng và một số biểu hiện năng 
lực, phẩm chất [3, tr.4]. Do đó, người 
đánh giá thiếu những tiêu chí rõ ràng, cụ 
thể để đánh giá. Trong đánh giá cuối học 
kì, giáo viên vẫn chưa thể tổng hợp quá 
trình học tập của học sinh để đưa ra nhận 
xét cho cả một quá trình, khuynh hướng 
đánh giá theo từng bài học, theo bài kiểm 
tra vẫn chưa thể khắc phục. Giáo viên 
chưa hình dung được đánh giá theo năng 
lực thì có gì khác biệt lớn so với trước 
đây. 
Điều cần lưu tâm nữa là các bài 
viết, kết quả học tập của các môn học 
khác (ngoải Tiếng Việt) và sản phẩm từ 
các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp 
ít được chú ý và chưa được xem như là 
kết quả của một quá trình hình thành 
năng lực viết cho học sinh. Giáo viên có 
khuynh hướng quan tâm nhiều đến liên 
kết nội dung hơn là liên kết hình thức4, 
khác với việc đánh giá bài viết trong môn 
Tiếng Việt, giáo viên chú tâm đến liên 
kết hình thức mà xem nhẹ liên kết nội 
dung5. Sự chưa nhất quán trong cách 
đánh giá đối với các bài viết và việc xem 
bài viết của môn Tiếng Việt là căn cứ 
đánh giá năng lực viết đã ảnh hưởng đến 
tính tổng thể và tính khoa học trong đánh 
giá năng lực viết của học sinh. 
2.3. Định hướng các tiêu chí đánh giá 
năng lực viết của học sinh tiểu học 
2.3.1. Quan điểm, nguyên tắc đánh giá 
(1) Quan điểm xây dựng các tiêu 
chí đánh giá: dựa theo phần tổng hợp các 
quan điểm đã nêu ở mục 2.1. bài viết nêu 
quan điểm đánh giá như sau: 
- Cần thiết phải tổ chức hoạt động để 
đánh giá năng lực người học. 
- Các hoạt động nên được tổ chức 
một cách thường xuyên, thông qua nhiều 
hình thức khác nhau, tạo điều kiện cho 
người học rèn luyện và bộc lộ năng lực 
một cách thường xuyên. 
- Đánh giá dựa trên các biểu hiện về 
tri thức - kĩ năng - thái độ của học sinh 
trong tiến trình thực hiện một nhiệm vụ. 
- Xem “Viết” vừa là năng lực chung - 
liên quan đến nhiều môn học (khả năng 
hồi đáp, trình diễn những hiểu biết bằng 
ngôn ngữ) - vừa là năng lực chuyên biệt 
trong môn Tiếng Việt (khả diễn đạt, bày 
tỏ những hiểu biết về tri thức Tiếng Việt, 
Tư liệu tham khảo Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
182 
những cảm xúc, tình cảm bằng ngôn 
ngữ). 
- Tạo điều kiện và tôn trọng sự “tự 
đánh giá” của học sinh. 
- Coi trọng kết quả bài viết là phản 
ánh hiểu biết của học sinh đối với cuộc 
sống và có sự tác động đến thái độ, tình 
cảm của học sinh. 
(2) Nguyên tắc xây dựng các tiêu 
chí đánh giá: 
- Đảm bảo tính toàn diện: các tiêu chí 
được đề xuất phải đảm bảo giúp người 
đánh giá có thể đánh giá toàn diện học 
sinh về mọi mặt, phù hợp với những tình 
huống thực tế khi học sinh thực hiện một 
nhiệm vụ. 
- Đảm bảo tính khách quan: các tiêu 
chí đánh giá cần rõ ràng, khiến người học 
có căn cứ để có thể tự đánh giá mình và 
người khác. 
- Đảm bảo tính hệ thống: các tiêu chí 
đánh giá cần được sắp xếp trong một hệ 
thống tạo điều kiện cho việc đánh giá và 
tự đánh giá được khoa học và tường 
minh. 
- Đảm bảo tính phát triển: bên cạnh 
việc đánh giá quá trình và kết quả bài viết 
của học sinh, các tiêu chí đánh giá còn là 
cơ sở để giúp người học phát triển năng 
lực viết. Điều này ít nhiều phụ thuộc vào 
các nhận xét cụ thể của giáo viên. Do đó, 
trong quá trình đánh giá, giáo viên cần 
biết động viên, khích lệ, coi trọng thái độ 
tích cực và sự tiến bộ của học sinh. 
- Đảm bảo tính giáo dục: các tiêu chí 
đánh giá cần giúp cho người học có cơ sở 
hoàn thiện nhân cách của chính mình, 
nhận biết và tôn trọng sự đánh giá về 
mình từ giáo viên và bạn bè. 
2.3.2. Các hình thức tổ chức để đánh giá 
Trong khi chờ sự đổi mới từ nội 
dung chương trình, sách giáo khoa để đề 
ra tiêu chí và cách thức đánh giá theo 
năng lực cụ thể hơn, bài viết đề xuất cách 
đánh giá năng lực viết theo các hoạt động 
trong nhà trường hiện nay. Theo đó, đánh 
giá năng lực viết của học sinh từ kết quả 
của hai hoạt động chính: 
(1) Dạy học Tiếng Việt và các môn 
học khác 
Các bài văn của học sinh là sự tổng 
hợp những năng lực mà các em đã được 
hình thành và rèn luyện trong các phân 
môn Tiếng Việt và cả các môn học khác. 
Do đó, chúng phản ánh quá trình học tập 
của học sinh. Ngoài ra, kết quả học tập 
của các môn học khác cũng có thể được 
phản ánh thông qua việc viết. Khi học 
sinh thực hiện một văn bản viết chính là 
lúc các em thể hiện kĩ năng tạo lập văn 
bản, kĩ năng tổng hợp kiến thức, kĩ năng 
tìm kiếm thông tin, kĩ năng giao tiếp, kĩ 
năng hợp tác 
(2) Hoạt động giáo dục ngoài giờ 
lên lớp 
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên 
lớp là hoạt động nối tiếp và thống nhất 
với các hoạt động giáo dục trong giờ học 
các môn học6. Chính vì vậy, hoạt động 
ngoài giờ lên lớp phản ánh khá trung thực 
kết quả học tập: học sinh cần biết yêu cầu 
của hoạt động và tìm cách giải quyết 
chúng; học sinh độc lập tư duy và chủ 
động tìm kiếm sự hợp tác. Hoạt động 
ngoài giờ lên lớp phù hợp với quan điểm 
đánh giá theo năng lực: khả năng giải 
quyết một vấn đề thực tiễn cuộc sống, 
biết tự đánh giá chính mình để có thể 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Ngọc Tường Khanh 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
183 
phát triển tốt hơn. 
Giáo viên hướng dẫn học sinh, sau 
đó tiến dần học sinh tự thực hiện việc 
Lập hồ sơ cá nhân7 làm cơ sở cho việc 
đánh giá quá trình, đánh giá cuối năm, 
cuối cấp. Hồ sơ cá nhân là những bài viết 
(hoặc hình ảnh những bài viết) cùng 
những lời nhận xét của giáo viên, của 
bạn, của chính bản thân học sinh được 
lưu giữ lại. Với thực tiễn, số lượng học 
sinh/lớp khá đông thì đây cũng là một 
biện pháp giúp cho việc đánh giá của 
giáo viên được tường minh và khoa học. 
2.3.3. Tiêu chí đánh giá năng lực viết đối 
với học sinh tiểu học 
Trên cơ sở những vấn đề vừa nêu, 
bài viết đề xuất các Tiêu chí đánh giá 
năng lực viết của HSTH, Theo đó, các 
Năng lực thành phần tương ứng với Các 
trụ cột giáo dục của UNESCO [10] (xem 
lại mục 2.1.) 
(1) Năng lực chuyên môn: khả năng 
thực hiện những nhiệm vụ liên quan đến 
một chuyên môn cụ thể, bao gồm cả việc 
tự đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ 
của bản thân. Cụ thể: 
- Xác định được vấn đề cần viết: Viết 
cái gì? Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết 
như thế nào? 
- Khả năng huy động, tổng hợp, vận 
dụng những kiến thức và kĩ năng ngôn 
ngữ cũng như những tri thức đã lĩnh hội 
từ các môn học khác. 
- Khả năng sử dụng những kinh 
nghiệm cuộc sống vào bài viết. 
- Khả năng liên hệ và ứng dụng 
những điều đã viết vào thực tiễn cuộc 
sống. 
- Khả năng đánh giá mức độ hoàn 
thành bài viết của mình và của bạn. 
(2) Năng lực phương pháp: khả 
năng hoạch định, xây dựng kế hoạch thực 
hiện nhiệm vụ. Năng lực này được xem 
như là kĩ năng giải quyết vấn đề của 
người học đối với một nhiệm vụ cụ thể, 
bao gồm: tiếp nhận thông tin, xử lí thông 
tin và trình bày vấn đề một cách mạch 
lạc, tường minh. Cụ thể: 
- Khả năng lập dàn bài. 
- Khả năng lập kế hoạch chi tiết cho 
bài viết (đối với những bài viết như một 
dự án). 
- Khả năng tìm kiếm và xử lí thông 
tin cho bài viết: hỏi người lớn, bạn bè; 
tìm trong sách, báo, internet 
- Khả năng trình bày bài viết mạch 
lạc, logic. 
- (3) Năng lực xã hội: được xem như 
là sự biểu hiện của kĩ năng giao tiếp. 
Người học biết cách đặt vấn đề, biết hợp 
tác và thể hiện bản thân (quan điểm, suy 
nghĩ, tình cảm) với những người khác. 
Cụ thể: 
- Khả năng hợp tác trong quá trình 
hình thành bài viết: suy nghĩ và trình bày 
ý kiến cá nhân; lắng nghe và tôn trọng ý 
kiến của các thành viên trong nhóm; nhận 
xét và nêu ý kiến của mình đối với các ý 
kiến khác; thể hiện được trách nhiệm, vai 
trò của mình trong nhóm. 
- Khả năng giao tiếp xã hội để tìm 
kiếm thông tin; để đưa kết quả, sản phẩm 
bài viết vào trong cuộc sống. 
(4) Năng lực cá thể: khả năng đánh 
giá toàn diện bản thân, có liên quan đến 
tình cảm, xúc cảm, những tác động tích 
cực mà bản thân nhận được thông qua 
quá trình thực hiện nhiệm vụ. 
Tư liệu tham khảo Số 6(71) năm 2015 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
184 
- Khả năng tự đánh giá: thấy được 
điểm mạnh, điểm hạn chế của mình và 
của bạn. 
- Khả năng phát huy điểm mạnh và 
khắc phục điểm hạn chế để dần phát triển 
bản thân. 
- Khả năng nhận thức những tác 
động tích cực mà bài viết đem lại để bồi 
dưỡng giá trị đạo đức: tình yêu thiên 
nhiên, lòng thương người, kính trọng 
người lớn tuổi, lòng tự trọng 
Tùy yêu cầu của bài viết và thời điểm 
đánh giá trong năm học mà sử dụng tất cả 
hay một vài tiêu chí trong các tiêu chí vừa 
nêu. Ngoài ra, trong quá trình đánh giá, cần 
chú ý những khả năng vượt trội, đặc biệt 
của học sinh để có thể xác định những 
năng lực cơ bản và năng lực chuyên biệt. 
3. Kết luận 
Đánh giá kết quả học tập là công 
việc yêu cầu tính khoa học và kiên trì của 
người đánh giá để đảm bảo được sự công 
bằng và tạo khích lệ, động viên đối với 
người học. Trong đánh giá năng lực viết, 
điều này có ý nghĩa quan trọng, vì ảnh 
hưởng đến việc học tập các môn học và 
các kĩ năng ngôn ngữ khác. Dựa vào kết 
quả đánh giá để giáo viên và học sinh 
điều chỉnh các hoạt động dạy và học phù 
hợp hơn. Đánh giá theo năng lực còn là 
nguồn động lực tạo nên sự phấn khích 
khi học sinh được vận dụng những điều 
đã học vào cuộc sống. 
Với Đề án “Đổi mới căn bản toàn 
diện nội dung chương trình, sách giáo 
khoa” thì các tiêu chí đánh giá năng lực 
viết của HSTH sẽ dần hoàn thiện hơn. 
Mong rằng các tiêu chí mà bài viết nêu 
trên sẽ góp phần giúp giáo viên đánh giá 
được năng lực viết của học sinh theo 
Thông tư 30 và định hướng cho việc đánh 
giá trong Đề án. 
____________________ 
1 Tham khảo [5], [6], [7], [11]. 
2 Tham khảo [5], [6], [7], [11]. 
3 Tiêu chí đánh giá năng lực viết của học sinh cuối lớp 5 [1]: 1.Viết chính tả: - Viết bài chính tả nghe-viết; 
nhớ-viết, độ dài 100 chữ/20 phút, không mắc quá 5 lỗi. -Viết đúng một số từ ngữ cần phân biệt phụ âm đầu, 
vần, thanh điệu dễ lẫn do ảnh hưởng cách phát âm địa phương. - Biết tự phát hiện và sửa lỗi chính tả, lập sổ 
tay chính tả. 2.Viết đoạn văn, văn bản: - Biết tìm ý cho đoạn văn và viết đoạn văn; biết dùng một số biện 
pháp liên kết câu trong đoạn. - Biết lập dàn ý cho bài văn. - Biết viết bài văn kể chuyện hoặc miêu tả có độ 
dài khoảng 200 chữ. - Biết viết một số văn bản thông thường: đơn, biên bản, báo cáo ngắn, chương trình 
hành động. 
4 Điều này có thể nhận thấy thông qua các nhận xét để đánh giá của giáo viên. 
5 Điều này được ghi nhận trong các tài liệu về Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học. VD: Dạy làm văn 
ở trường tiểu học, Nguyễn Trí, Nxb Giáo dục, 1999; Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, Lê 
Phương Nga, Đặng Kim Nga, Bộ Giáo dục Đào tạo, 2005; Lí luận dạy học Tiếng Việt ở tiểu học, Hoàng Thị 
Tuyết, Nxb Thời đại, 2012. 
6 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự án phát triển Giáo viên Tiểu học, Thực hành tổ chức các hoạt động giáo dục 
ngoài giờ lên lớp ở tiểu học, Nxb Giáo dục, 2005. 
7 Cách thức lập và sử dụng Hồ sơ cá nhân đã được Vụ Tiểu học triển khai trong Dự án Mô hình Trường Tiểu 
học Mới (VNEN). Hiện nay, nhiều tỉnh thành đã áp dụng đại trà mô hình này, riêng Thành phố Hồ Chí Minh 
chủ yếu áp dụng trong “Quản lí lớp học”. Có thể tham khảo cách thức lập và sử dụng Hồ sơ cá nhân trong 
các tài liệu của Dự án VNEN. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Lê Ngọc Tường Khanh 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
185 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Ngọc Bích (2000), Tâm lí học nhân cách, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Dự án phát triển Giáo viên Tiểu học, Đánh giá kết 
quả học tập ở tiểu học, Nxb Giáo dục. 
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Thông tư số 30/2014/TT-BGDĐT ngày 28/8/2014 
quy định về đánh giá học sinh tiểu học. 
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Tài liệu Hội thảo Tiêu chí đánh giá và quy trình xây 
dựng chương trình giáo dục phổ thông, TPHCM, tháng 12/2014. 
5. Vũ Thu Hương (2015), “Thông tư 30: Cần làm cho phụ huynh hiểu và đồng hành”, 
hieu-va-cung-dong-hanh-post155424.gd, truy cập ngày 10/2/2015. 
6. Lê Ngọc Tường Khanh (2014), “Thử thách của cách làm mới”, 
 truy cập ngày 05/11/2014. 
7. Minh Quân (2015), “Đánh giá học sinh tiểu học - Cần tăng tính hiệu quả và lâu bền”, 
 truy cập 11/3/2015 
8. Đỗ Ngọc Thống (2011), “Giáo dục phổ thông: Tiếp cận năng lực là thế nào?”, 
luc-la-the-nao 
9. Hoàng Thị Tuyết (2013), “Phát triển chương trình đại học theo cách tiếp cận năng 
lực: Xu thế và nhu cầu”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập, 9(19), tháng 3-4/2013. 
10. VLOS (2015), “Chương trình giáo dục định hướng phát triển năng lực”, 
 truy cập ngày 10/3/2015. 
11. VTC14 (2015), “Thông tư 30: Tinh thần đúng nhưng thực hiện chưa đúng”, 
t39075.html, truy cập ngày 03/02/2015. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 15-4-2015; ngày phản biện đánh giá: 18-5-2015; 
ngày chấp nhận đăng: 05-6-2015) 

File đính kèm:

  • pdfdinh_huong_danh_gia_nang_luc_viet_cua_hoc_sinh_tieu_hoc.pdf