Giải pháp phát triển bền vững làng nghề truyền thống ở Việt Nam phục vụ du lịch

Tóm tắt Giải pháp phát triển bền vững làng nghề truyền thống ở Việt Nam phục vụ du lịch: ...ng Xâm (Kiến Xương, Thái Bình), làng dát vàng Kiêu Kị (Gia Lâm, Hà Nội). Sản phẩm nổi tiếng từ nghề kim hoàn được sử dụng trong các đình, chùa, lăng tẩm, là những nơi trang trọng, linh thiêng. Ngoài ra, các sản phẩm này còn được dùng làm đồ trang trí và trang sức. - Làng nghề gốm, sà... lịch là: Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Hà Nội). - Làng nghề mây tre đan: Sản phẩm mây tre đan như: bàn, ghế, túi xách, khay đựng hoa quả, lọ và lẵng cắm hoa, giày dép đi trong khách sạn ngày càng xuất hiện nhiều và được khách du lịch ưa chuộng Các làng nghề mây tre đan không c... lượng tốt phù hợp với đối tượng tiêu thụ là công việc quan trọng phải được thực hiện đồng bộ; - Phát triển loại hình du lịch làng nghề và làng nghề du lịch là nhằm mục tiêu khai thác tối đa tiềm năng truyền thống của địa phương. 4.2. Giải pháp phát triển Xây dựng chiến lược quy hoạc...

pdf8 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 282 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giải pháp phát triển bền vững làng nghề truyền thống ở Việt Nam phục vụ du lịch, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c dân tộc, làm tăng 
khả năng lựa chọn của du khách với 
những sản phẩm độc đáo, hợp sở thích và 
nhu cầu (đặc biệt là khách quốc tế). 
Phát triển làng nghề có vai trò quan 
trọng đối với các ngành tiểu thủ công 
nghiệp, hoàn thiện cơ cấu kinh tế công - 
nông nghiệp, góp phần làm tăng tỉ trọng 
giá trị hàng xuất khẩu, tăng thu nhập, giải 
quyết việc làm cho người lao động (lao 
động nông nghiệp nông thôn), quảng bá 
hình ảnh đất nước và con người Việt 
Nam - quảng bá du lịch. 
Nhờ gắn bó chặt chẽ với tập quán, 
phong tục và truyền thống văn hóa, đời 
sống sinh hoạt hàng ngày của người dân 
các địa phương, các loại làng nghề có thể 
phát triển rất đa dạng về số loại và nhiều 
về số lượng, có giá trị sử dụng cao. Đặc 
biệt, khá nhiều sản phẩm từ làng nghề đã 
có thương hiệu trên thị trường trong nước 
và quốc tế, như: tranh Đông Hồ, lụa Vạn 
Phúc, đá mĩ nghệ Non Nước, cây cảnh 
Cái Mơn, gốm sứ Biên Hòa, Bát Tràng 
Hiện nay, cả nước có hơn 2000 làng 
nghề truyền thống đã và đang được đầu 
tư phát triển, gồm có: Vùng đồng bằng 
sông Hồng (hơn 886 làng nghề), Đông 
Bắc Bắc Bộ (khoảng 164), Tây Bắc Bắc 
Bộ (247), Bắc Trung Bộ (342), Nam 
Trung Bộ (87), Đông Nam Bộ (101), 
Đồng bằng sông Cửu Long (khoảng 211). 
Sản phẩm từ làng nghề đã mang lại 
nguồn thu nhập khá lớn cho địa phương 
và cả nước. Riêng Tây Nguyên là vùng 
có nhiều tiềm năng, nhưng đến nay các 
làng nghề chưa thực sự được đầu tư phát 
triển đúng với tiềm năng. Vì vậy, sự đóng 
góp lợi ích kinh tế cho phát triển địa 
phương còn hạn chế. 
Về cơ cấu làng nghề, trên cả nước 
hiện có: nghề sản xuất các sản phẩm từ 
cói (khoảng 281 làng), sơn mài (31), mây 
tre (713), gốm sứ (61), thêu ren (341), dệt 
(432), gỗ (342), đá (45), giấy (8), in 
khuôn gỗ (4), kim khí (204), các sản 
phẩm khác (509). 
3. Phát triển làng nghề truyền thống 
phục vụ du lịch 
3.1. Đẩy mạnh phát triển các nhóm 
làng nghề 
Từ lâu, làng nghề truyền thống là 
nơi cung cấp cho khách những sản phẩm 
độc đáo với nhiều ý nghĩa (làm vật kỉ 
niệm, phục vụ vui chơi giải trí, ăn uống 
sinh hoạt, truyền bá nghề nghiệp). Đặc 
biệt, từ khi du lịch phát triển mạnh, làng 
nghề trở nên có vị trí quan trọng, tăng 
nhanh tốc độ phát triển, đa dạng hóa, 
nâng cao chất lượng sản phẩm. Hầu hết 
các làng nghề đã trở thành các điểm tham 
quan hấp dẫn đối với du khách, đặc biệt 
là du khách quốc tế. 
Các làng nghề truyền thống của các 
địa phương ở nước ta có thể khai thác 
phục vụ du lịch theo các nhóm như sau: 
- Làng nghề đúc đồng: Nghề đúc 
đồng hình thành và phát triển từ nhu cầu 
ban đầu là chế tác công cụ lao động sản 
xuất, sinh hoạt, binh khí bảo vệ cuộc 
sống. Càng về sau, nhiều sản phẩm được 
tạo ra với những đường nét tinh xảo phục 
vụ nhu cầu kinh tế, tín ngưỡng, tôn 
giáo. Tiêu biểu là các làng nghề: Ngũ 
Xá (bên hồ Trúc Bạch, Hà Nội), Đại Bái 
(Bắc Ninh), Dương Xuân (Huế), Cầu 
Nôm (Hưng Yên), Phước Kiều (Quảng 
 11
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 35 năm 2012 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
Nam), Tân Hòa Đông, Hòa Hưng (TP Hồ 
Chí Minh). 
Những sản phẩm nổi tiếng từ nghề 
đúc đồng còn lưu truyền đến ngày nay 
phải kể đến như: tượng phật chúa Quỳnh 
Lâm (Đông Triều - Quảng Ninh), tháp 
Bảo Thiên (Thăng Long, Hà Nội), 
chuông Quy Điền ở chùa Diên Hựu (chùa 
Một Cột, Hà Nội), vạc Phổ Minh (Thiên 
Trường, Nam Định). Trong số những sản 
phẩm này, có những sản phẩm đã không 
còn nguyên vẹn (chuông Quy Điền và 
vạc Phổ Minh) nhưng vẫn còn giá trị. 
- Làng nghề kim hoàn (chạm vàng, 
bạc): Nghề kim hoàn xuất hiện rất sớm ở 
nước ta, những sản phẩm chạm vàng bạc 
được ưa chuộng không chỉ ở thị trường 
trong nước mà còn trên phạm vi thế giới, 
vì sản phẩm đã đạt được trình độ tinh xảo 
làm hấp dẫn khách du lịch. 
Các làng nghề kim hoàn điển hình 
như: làng nghề vàng bạc Châu Khê (Bình 
Giang, Hải Dương), làng nghề chạm bạc 
Đồng Xâm (Kiến Xương, Thái Bình), 
làng dát vàng Kiêu Kị (Gia Lâm, Hà 
Nội). 
Sản phẩm nổi tiếng từ nghề kim 
hoàn được sử dụng trong các đình, chùa, 
lăng tẩm, là những nơi trang trọng, linh 
thiêng. Ngoài ra, các sản phẩm này còn 
được dùng làm đồ trang trí và trang sức. 
- Làng nghề gốm, sành sứ: Là nghề 
có từ lâu và gắn bó mật thiết với đời sống 
của nhân dân, nghề gốm phát triển khá 
rộng trên phạm vi cả nước, gần như tỉnh 
nào cũng có. Tuy nhiên, để nghề này còn 
hưng thịnh đến ngày nay thì không phải 
địa phương nào cũng duy trì được. 
Những làng nghề gốm sứ nổi tiếng 
đã và đang tạo được sự hấp dẫn với 
khách du lịch trong và ngoài nước phải 
kể đến là: Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội), 
Hương Canh (Vĩnh Phúc), Đông Thành 
(Đông Triều, Quảng Ninh), Bầu Trúc 
(Ninh Phước, Ninh Thuận), Biên Hòa 
(Đồng Nai), Lái Thiêu, Minh Long (Thủ 
Dầu Một, Bình Dương), Vân Sơn (Nhơn 
Hậu, Bình Định), Thái Đen (Mường 
Chanh, Sơn La), Chu Đậu (Nam Sách, 
Hải Dương) 
Sản phẩm của nghề gốm sứ là 
những dụng cụ gia đình và những tác 
phẩm nghệ thuật đặc sắc dùng trang trí 
nơi công cộng, chốn cung đình, đường 
phố, góp phần tạo nên những vẻ đẹp thu 
hút lòng người (con đường gốm sứ). 
- Làng nghề chạm khắc đá, gỗ, 
tranh sơn mài: Sản phẩm từ nghề chạm 
khắc đá rất đa dạng, là những vật dụng 
trong đời sống hàng ngày của người dân 
như cối, chày, bàn; những đồ trang sức 
như nhẫn, vòng hạt đeo cổ; những con 
vật tương trưng cho 12 con giáp và cả 
những bức tượng được coi là vật linh 
thiêng trong các chùa, nhà thờ Đối với 
khách du lịch bốn phương thì đó là những 
vật kỉ niệm quý, có sức thu hút mạnh mẽ. 
Các làng nghề chạm khắc đá tiêu 
biểu: Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng), Bửu 
Long (Biên Hòa, Đồng Nai), Nhồi (Đông 
Sơn, Thanh Hóa), Ninh Vân (Hoa Lư, 
Ninh Bình) 
Các làng chạm khắc gỗ nổi tiếng 
với chất lượng cao, mẫu mã độc đáo, giá 
trị sử dụng cao, thị trường tiêu thụ lớn là: 
Phú Khê, Đồng Kị (Từ Sơn, Bắc Ninh), 
Du Nam (TP Vũng Tàu, Bà Rịa - Vũng 
 12 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Xuân Hậu và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
Tàu), Nhân Hiền (Thường Tín, Hà Nội), 
Sơn Đồng (Hoài Đức, Hà Nội), Dư Dụ 
(Thanh Oai, Hà Nội), Đất Thủ (Bình 
Dương), Thanh Thủy (Quốc Oai, Hà 
Nội), Thiết Ứng, Cổ Châu (Đông Anh, 
Hà Nội), Phú Thọ (Bình Dương), Bảo Hà 
(Hải Phòng), La Xuyên (Ý Yên, Nam 
Định), Mỹ Xuyên (Phong Điền, Thừa 
Thiên - Huế), Hội An (Quảng Nam) 
Các làng tranh sơn mài nổi tiếng 
với những sản phẩm độc đáo là: Tương 
Bình Hiệp (Bình An, Bình Dương), Hạ 
Thái (Thường Tín, Hà Nội), Triều Sơn, 
Địa Linh (Tiên Nôn, TP Huế). 
- Làng nghề dệt lụa, thổ cẩm, thêu 
ren, dệt chiếu cói 
Trên cả nước hiện nay có nhiều 
làng nghề dệt lụa, thổ cẩm và thêu ren 
truyền thống có khả năng khai thác phục 
vụ du lịch, ngoài giá trị kinh tế cho địa 
phương, sản phẩm được tạo ra từ các dân 
tộc khác nhau của các làng nghề này đã 
tạo được sự cuốn hút khách du lịch bởi 
tính đa dạng, phong phú về chủng loại và 
màu sắc rực rỡ. 
Các làng nghề tiêu biểu là: các làng 
dệt lụa Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội), 
Tân Châu (Tân Châu, An Giang), Mã 
Châu (Duy Xuyên, Quảng Nam), Chăm 
(Phan Rang, Tháp Chàm, Ninh Thuận), 
Vân Phương (xã Liên Phương, TP Hưng 
Yên); các làng thêu ren Quất Động 
(Thường Tín, Hà Nội), Văn Lâm (Hoa 
Lư, Ninh Bình), Huế (Thừa Thiên - 
Huế) 
Các làng nghề dệt chiếu cói điển 
hình là: Hoài Nhơn (Bình Định), Tư 
Nghĩa (Quảng Ngãi), Bàn Thạch (Quảng 
Nam), Hới (Thái Bình), Cẩm Nê (Đà 
Nẵng), Mỹ Trạch (Ninh Hòa, Khánh 
Hòa), Lật Dương (Tiên Lãng, Hải 
Phòng), Thủy Tú (Nha Trang, Khánh 
Hòa), Kim Sơn (Ninh Bình), Phú Tân 
(Tuy An, Phú Yên). 
Ngoài ra, còn khá nhiều làng nghề 
dệt thêu khác ở các địa phương thuộc Tây 
Nguyên, miền núi phía Bắc, đồng bằng 
sông Cửu Long, nhưng chưa được đầu tư 
phát triển đúng với thế mạnh vốn có của 
nó trong quá khứ và hiện tai. 
- Làng nghề sản xuất giấy dó, tranh 
dân gian: Sản xuất giấy dó phát triển 
sớm ở nhiều địa phương, song chỉ được 
duy trì ở một số nơi có kĩ thuật tốt như: 
Yên Thái (làng Bưởi, Hà Nội), Phong 
Khê (Yên Phong, Bắc Ninh), An Cốc 
(Phú Xuyên, Hà Nội), Nghĩa Đô (Từ 
Liêm, Hà Nội) 
Bên cạnh những làng nghề làm giấy 
dó là nghề làm tranh dân gian. Sản phẩm 
tranh dân gian được sử dụng trong những 
gia đình bình dân và trong các gia đình 
quyền quý ở kinh thành bởi tính độc đáo 
và dân dã của chúng. 
Các làng tranh điển hình tạo được 
ấn tượng và sức cuốn hút với khách du 
lịch là: Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống 
(Hà Nội). 
- Làng nghề mây tre đan: Sản phẩm 
mây tre đan như: bàn, ghế, túi xách, khay 
đựng hoa quả, lọ và lẵng cắm hoa, giày 
dép đi trong khách sạn ngày càng xuất 
hiện nhiều và được khách du lịch ưa 
chuộng 
Các làng nghề mây tre đan không 
chỉ là nơi sản xuất ra sản phẩm hàng hóa 
mà còn là nơi trình diễn kĩ thuật thủ công 
 13
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 35 năm 2012 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
và bàn tay khéo léo của người thợ với 
khách du lịch. 
Các làng nghề tiêu biểu là: Phú 
Vinh (Chương Mỹ, Hà Nội), Ninh Sở 
(Thường Tín, Hà Nội), Tăng Tiến (Việt 
Yên, Bắc Giang), Xuân Lai (Gia Bình, 
Bắc Ninh). 
Có thể nói, phát triển ngành nghề 
truyền thống có vai trò quan trọng trong 
quá trình phát triển kinh tế nông thôn, hộ 
gia đình, nó không chỉ tạo công ăn việc 
làm lúc nông nhàn, tăng thu nhập cho 
nông dân mà còn tạo dấu ấn bản sắc văn 
hóa riêng của dân tộc, phát triển nông 
thôn mới. 
Thực hiện đổi mới phát triển kinh tế 
thời kì hội nhập, Chính phủ đã ra Quyết 
định 132/2000/QĐ-TTg về chính sách 
khuyến khích phát triển ngành nghề nông 
thôn, nông nghiệp nước ta. Tiếp theo là 
Nghị định 90/CP ngày 23-11-2001 đã tạo 
cơ hội cho các doanh nghiệp trong các 
làng nghề vay vốn, cấp đất mở rộng cơ sở 
sản xuất và được phép xuất khẩu trực 
tiếp. Từ quyết định, nghị định này, nhiều 
nghề truyền thống được khôi phục. Cùng 
với phong trào “mỗi làng một sản phẩm”, 
nhiều làng nghề đã tạo được khối lượng 
sản phẩm lớn, thể loại đa dạng, chất 
lượng cao cung cấp cho thị trường trong 
và ngoài nước. Hiện nay đã có hơn 40% 
sản phẩm của làng nghề nông thôn được 
đưa đến thị trường của hơn 100 nước trên 
thế giới. 
3.2. Một số vấn đề đặt ra trong phát 
triển làng nghề ở nước ta 
Với số lượng hơn 2000 làng nghề 
truyền thống có từ 100 năm tuổi trở lên, 
các làng nghề đã sản xuất ra hàng ngàn 
loại sản phẩm có giá trị sử dụng trong 
nhiều lĩnh vực, đóng góp cho thị trường 
xuất khẩu, thu nguồn ngoại tệ đáng kể. 
Tuy nhiên, nhìn nhận khách quan thì việc 
phát triển làng nghề truyền thống ở nước 
ta còn bộc lộ nhiều vấn đề cần phải được 
quan tâm, để có thể phát triển đúng với 
tiềm năng hiện có, cụ thể là: 
- Phát triển ngành nghề trong các 
làng nghề nông thôn còn mang tính tự 
phát, công nghệ lạc hậu, máy móc thiết bị 
chưa hiện đại, vốn đầu tư ít (80% cơ sở 
không đủ điều kiện đầu tư vốn cải tiến 
trang thiết bị công nghệ hiện đại). 
- Sản xuất thiếu ổn định, nguồn 
nguyên liệu cho sản xuất còn thụ động, 
chất lượng nguyên liệu bảo quản chưa 
đáp ứng yêu cầu. 
- Các doanh nghiệp tham gia vào các 
khâu sản xuất nâng cao chất lượng, đưa 
sản phẩm trở thành thương hiệu có khả 
năng thu lợi ích kinh tế lớn, nhưng vẫn 
chưa thực sự chủ động được nguồn vốn 
vay làm ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất 
và cung cấp sản phẩm. 
- Sự liên kết giữa các làng nghề, 
nghệ nhân, thợ thủ công và các doanh 
nghiệp trong việc cung cấp thông tin thị 
trường, tiêu thụ sản phẩm, truyền nghề, 
chưa thường xuyên và chưa chặt chẽ. 
- Chất lượng nhiều sản phẩm chưa 
cao, việc cải tiến mẫu mã, kiểu dáng, 
đăng kí thương hiệu còn rất hạn chế, 
chưa khai thác hiệu quả thị trường trong 
nước, xuất khẩu và tiềm năng du lịch 
chưa được khai thác tốt. 
- Công tác đào tạo nâng cao tay nghề 
và truyền nghề chưa được chú ý. Việc 
giữ gìn, tôn vinh và tuyên truyền bản sắc 
 14 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Xuân Hậu và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
văn hóa dân tộc trên các sản phẩm truyền 
thống chưa được coi trọng. 
- Cơ sở hạ tầng và dịch vụ không 
đồng bộ; môi trường sản xuất và sinh 
hoạt ô nhiễm nặng làm ảnh hưởng đến 
môi trường sống của dân cư và khách du 
lịch. 
4. Giải pháp phát triển làng nghề 
truyền thống phục vụ du lịch 
4.1. Quan điểm 
Để chấn hưng và phát triển làng 
nghề, trước hết cần phải có quy hoạch 
thống nhất về sự phát triển làng nghề trên 
cả nước và từng địa phương, làm nền 
tảng cho các cơ sở chủ động đầu tư lâu 
dài, mở rộng quy mô, trang bị kĩ thuật 
hiện đại để nâng cao chất lượng sản 
phẩm. Bên cạnh đó, cần có nhận thức 
đúng như : 
- Chấn hưng làng nghề là bảo tồn văn 
hóa, là chuyển đổi cơ cấu sản xuất ở nông 
thôn, là tham gia xóa đói giảm nghèo; 
- Việc cải tiến mẫu mã, kiểu dáng, 
đăng kí và quảng bá thương hiệu, sản 
xuất số lượng nhiều, giá thành và giá bán 
thấp, chất lượng tốt phù hợp với đối 
tượng tiêu thụ là công việc quan trọng 
phải được thực hiện đồng bộ; 
- Phát triển loại hình du lịch làng 
nghề và làng nghề du lịch là nhằm mục 
tiêu khai thác tối đa tiềm năng truyền 
thống của địa phương. 
4.2. Giải pháp phát triển 
Xây dựng chiến lược quy hoạch, 
chính sách và định hướng phát triển 
ngành nghề, làng nghề nông thôn 
- Chú trọng quy hoạch phát triển các 
làng nghề gắn với các cụm công nghiệp, 
tiểu thủ công nghiệp, chiến lược thị 
trường, phát triển nguồn nhân lực, kế 
hoạch bảo tồn trước mắt và lâu dài. 
- Mỗi địa phương, làng nghề cần 
thực hiện quy hoạch chi tiết phát triển cơ 
sở hạ tầng (giao thông, công trình điện 
nước, mặt bằng xây dựng), đặc biệt 
chú ý đến bảo vệ môi trường sản xuất và 
sinh hoạt. 
- Điều tra, khảo sát toàn bộ hệ thống 
làng nghề truyền thống, đánh giá toàn 
diện, phân tích chi tiết tiềm năng của 
từng ngành nghề truyền thống ở từng địa 
phương (nếu nhiều địa phương cùng có 
thì phải so sánh và tìm ra những nổi trội 
riêng biệt) để có kế hoạch phát triển phù 
hợp, hiệu quả cao. 
Điều chỉnh cơ chế, chính sách 
khuyến khích phát triển làng nghề 
- Bổ sung, điều chỉnh kịp thời chính 
sách khuyến khích phát triển làng nghề 
trong các lĩnh vực: cơ chế quản lí đầu tư 
vốn, đào tạo nhân lực, quyền sử dụng đất, 
xuất nhập khẩu, công bằng lợi ích. 
- Tăng cường hỗ trợ các doanh 
nghiệp nhỏ, doanh nghiệp ngoài quốc 
doanh và hộ gia đình về chính sách đầu 
tư, xúc tiến quảng bá sản phẩm, cung cấp 
thông tin thị trường, thiết kế mẫu mã phù 
hợp nhu cầu thị trường. 
- Đãi ngộ xứng đáng về vật chất với 
các nghệ nhân, nhà nghiên cứu văn hóa - 
lịch sử tham gia nghiên cứu, đánh giá và 
phổ biến giá trị văn hóa của sản phẩm, 
xây dựng kế hoạch bảo tồn sản phẩm. 
Tăng cường áp dụng khoa học công 
nghệ, cải tiến mẫu mã, nâng cao chất 
lượng sản phẩm 
- Chủ động đầu tư và đầu tư lớn cho 
các cơ sở nghiên cứu khoa học - công 
 15
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 35 năm 2012 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
nghệ; sử dụng vật liệu mới, tạo ra sản 
phẩm mới nhằm nâng cao chất lượng, 
tính thẩm mĩ, độ bền và khả năng sử 
dụng lâu dài của sản phẩm. 
- Đẩy mạnh liên kết, hợp tác giữa các 
làng nghề với các tổ chức, chuyên gia 
trong và ngoài nước để trao đổi, học hỏi 
kinh nghiệm cải tiến mẫu mã, kiểu dáng 
sản phẩm, quảng bá sản phẩm, tìm kiếm 
thị trường tiêu thụ sản phẩm. 
Củng cố chặt chẽ thường xuyên mối 
quan hệ giữa“các nhà” 
- Tăng cường mối quan hệ giữa các 
nhà như: “nhà nước”, “nhà sản xuất”, 
“nhà khoa học”, “nhà kinh doanh”, “nhà 
văn hóa”, “nhà thiết kế”, “nhà du lịch” 
nhằm phát triển toàn diện làng nghề 
truyền thống. 
Phát triển mạng lưới liên kết các 
làng nghề 
- Liên kết các làng nghề để hỗ trợ lẫn 
nhau trong các lĩnh vực: sản xuất, nhân 
lực trình độ cao, cơ sở hạ tầng, tạo dòng 
sản phẩm, xúc tiến quảng bá sản phẩm 
tạo sức cạnh tranh trên thị trường thế 
giới. 
- Đẩy mạnh hơn nữa việc liên kết 
phát triển du lịch làng nghề nhằm giới 
thiệu, tôn vinh văn hóa dân tộc, thông 
qua những thao tác, kĩ năng thể hiện của 
các nghệ nhân trên sản phẩm. 
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng 
cao 
- Cần kết hợp đồng thời và duy trì 
thường xuyên việc truyền nghề với việc 
nâng cao trình độ lực lượng lao động 
- Đào tạo kịp thời đội ngũ lao động 
trẻ kế cận có khả năng tiếp thu nhanh, 
vận dụng hiệu quả tay nghề trong sản 
xuất. 
- Chú ý đào tạo bồi dưỡng đội ngũ 
cán bộ quản lí chung và chuyên sâu cho 
các bộ phận thiết kế mẫu và xúc tiến 
thương mại. 
Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến 
thương mại 
- Khuyến khích cá nhân, cơ sở, hiệp 
hội ngành nghề, các tổ chức kết hợp với 
nhau mở các website và xuất bản những 
ấn phẩm (sách, sổ tay, tờ rơi) tạo thành 
mạng lưới thông tin; tăng cường sử dụng 
các phương tiện thông tin đại chúng để 
quảng bá giới thiệu sản phẩm làng nghề, 
giá cả, thị trường tiêu thụ... 
- Tổ chức thường xuyên các hội chợ 
triển lãm nhằm tôn vinh các làng nghề, 
giới thiệu nhãn hiệu hàng hóa các làng 
nghề, các sản phẩm đặc sắc mang đậm 
nét văn hóa của các dân tộc. 
Xây dựng, triển khai các dự án phát 
triển làng nghề 
- Kế hoạch phát triển cần thực hiện 
theo chiến lược lâu dài gắn chặt với các 
hoạt động du lịch, phù hợp với chiến lược 
phát triển tổng thể kinh tế địa phương. 
- Đặc biệt chú ý thiết lập hệ thống xử 
lí, bảo vệ môi trường trong các cơ sở sản 
xuất và toàn thể làng nghề, vận dụng tốt 
kinh nghiệm “mỗi làng, một sản phẩm” 
nhằm khai thác tối đa tiềm năng địa 
phương. 
5. Kết luận 
Làng nghề truyền thống là “tài 
nguyên” nổi bật của thị trường du lịch 
nước ta. Nó đã và đang có những đóng 
góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế 
đất nước, đặc biệt là du lịch. Trong nhiều 
 16 
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Phạm Xuân Hậu và tgk 
_____________________________________________________________________________________________________________ 
năm qua, mỗi làng nghề đều “tự thân vận 
động” là chủ yếu. Sự thành công của một 
số làng nghề như Bát Tràng (Hà Nội), 
Phú Vinh, Vạn Phúc (Hà Nội), Non Nước 
(Đà Nẵng), Minh Long (Bình Dương) và 
hàng trăm làng nghề khác trên cả nước, 
đã thật sự sự cuốn hút du khách trong và 
ngoài nước. Chính những làng nghề 
truyền thống này đã trở thành địa điểm 
du lịch thường xuyên. 
Sự phát triển các làng nghề truyền 
thống ở nông thôn đã và đang nhận được 
sự quan tâm của Chính phủ, song sự phát 
triển còn chậm, hiệu quả chưa cao, môi 
trường sản xuất và tiêu thụ chưa đảm bảo 
ổn định, chưa tương xứng với tiềm năng 
vốn có của các địa phương nước ta. 
Vì vậy, việc xây dựng các giải pháp 
nhằm phát triển nhanh, mạnh, bền vững 
các làng nghề truyền thống phục vụ cho 
hoạt động du lịch là hết sức cần thiết. 
Những giải pháp nêu ra trên đây nếu 
được thực hiện nghiêm túc, kịp thời sẽ 
góp phần làm thay đổi hoàn thiện cơ cấu 
sản xuất nông thôn, bảo tồn nét văn hóa 
truyền thống của các dân tộc, giải quyết 
tốt việc làm cho người lao động nông 
thôn và nâng cao chất lượng cuộc sống. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), “Áp dụng kinh nghiệm “mỗi làng một sản phẩm” 
trong phát triển ngành nghề nông thôn ở Việt Nam”, Tuần tin Kinh tế - Xã hội, (9). 
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2008), “Du lịch làng nghề Việt Nam thực trạng và tiềm 
năng phát triển”, Tuần tin Kinh tế - Xã hội, (14). 
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2009), Kinh nghiệm quốc tế về phát triển làng nghề nông 
nghiệp và nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, Đặc san số 55. 
4. Nguyễn Đình Hòe (2001), Du lịch bền vững, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
5. Nguyễn Minh Tuệ (chủ biên) & nnk (2010), Địa lí Du lịch Việt Nam, Nxb Giáo dục 
Việt Nam. 
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 19-9-2011; ngày chấp nhận đăng: 06-4-2012) 
 17

File đính kèm:

  • pdfgiai_phap_phat_trien_ben_vung_lang_nghe_truyen_thong_o_viet.pdf