Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam - Lê Mậu Hãn

Tóm tắt Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam - Lê Mậu Hãn: .... Bộ phận Cứu quốc quân còn lại đã phân tán lực lượng hoạt động tại chỗ, tích cực mở rộng địa bàn, vận động quần chúng, phát triển cơ sở chính trị. Đồng thời với việc xây dựng lực lượng chính trị và từng bước xây dựng lực lượng vũ trang, thành lập căn cứ địa cách mạng, Đảng tích cực chăm lo ...g tuyển cử tự do để thống nhất đất nước. Giải pháp ký kết Hiệp định Giơnevơ, lập lại hòa bình ở Đông Dương lúc bấy giờ, biểu hiện cụ thể Việt Nam là một nước nhỏ, lại phải đương đầu với các đế quốc xâm lược lớn trong bối cảnh các quan hệ quốc tế vô cùng phức tạp nên cuộc đấu tranh giành độc ...n văn hóa mới. 1. Sđd, tr. 523 - 524. 134 + Tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát huy vai trò của các đoàn thể, làm tốt công tác quần chúng. + Nhiệm vụ quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng. + Nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đại hội quyết định bổ sung Điề...

pdf193 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 336 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam - Lê Mậu Hãn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 với sự kiên định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt 
Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, giải phóng dân tộc gắn liền với 
giải phóng giai cấp, giải phóng con người, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho 
nhân dân, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Đảng đã củng cố và tăng 
cường được một bước quan trọng khối đại đoàn kết toàn dân. Việc Đảng và Nhà nước 
ban hành nhiều chính sách mới như kinh tế hộ gia đình, giao quyền sử dụng đất lâu dài 
cho nông dân, chính sách khoa học và công nghệ, nhiều đạo luật quan trọng về dân tộc, 
tôn giáo, về xóa đói giảm nghèo,... đã đáp ứng được lợi ích của các giai cấp, các tầng 
lớp trong xã hội, kể cả với đồng bào Việt Nam định cư ở nước ngoài, làm cho khối đoàn 
kết toàn dân tộc được tăng cường. Nhờ vậy, nước ta không những vượt qua được những 
khó khăn bên trong, đối phó được những tác động bất lợi của tình hình quốc tế, mà còn 
đạt được nhiều thành tựu mới, to lớn trong công cuộc đổi mới, tiềm lực của đất nước 
được tăng cường, vị thế quốc tế được nâng cao. 
4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong 
nước với sức mạnh quốc tế 
Cơ sở lý luận của bài học này là mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và 
vấn đề quốc tế trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản 
nói riêng, cũng như trong vấn đề mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố bên trong và 
nhân tố bên ngoài, chủ quan và khách quan trong sự phát triển của sự vật, hiện tượng 
 185
nói chung. 
C.Mác đã nghiên cứu chủ nghĩa tư bản khi chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn tự do 
cạnh tranh. Ông cho rằng, đến một giai đoạn nào đó, phương thức sản xuất tư bản chủ 
nghĩa sẽ chín muồi trên phạm vi toàn thế giới và lúc đó cách mạng vô sản sẽ đồng loạt 
xảy ra, chủ nghĩa cộng sản sẽ được thiết lập trên toàn thế giới như một quá trình lịch sử, 
tự nhiên. Kế tục tư tưởng đó, nhưng nghiên cứu chủ nghĩa tư bản ở giai đoạn đế quốc 
chủ nghĩa, V.I. Lênin nhấn mạnh tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa cách mạng vô 
sản thế giới có hai bộ phận là cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng 
dân tộc ở thuộc địa. Với quan niệm chủ nghĩa đế quốc là con đỉa hai vòi, một vòi bám 
vào giai cấp vô sản chính quốc, một vòi bám vào các dân tộc thuộc địa, Hồ Chí Minh 
cho rằng muốn giết con vật đó người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi, nếu cắt một vòi, 
con vật vẫn sống và cái vòi kia lại mọc ra. Đó là những luận điểm khoa học của V.I. 
Lênin, Hồ Chí Minh về cách mạng vô sản trong điều kiện mới, bao gồm hai bộ phận là 
cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và mối 
quan hệ biện chứng giữa hai cuộc cách mạng đó. 
Trước khi đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã có niềm tin sâu 
sắc vào sức mạnh dân tộc là chủ nghĩa yêu nước, ý thức cố kết cộng đồng, anh dũng, sáng 
tạo... Tuy vậy, Người vẫn thấy chỉ riêng sức mạnh đó thì chưa đủ để đánh thắng kẻ thù 
mới của dân tộc. Đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, xét trên một khía cạnh khác, thực 
chất là Hồ Chí Minh đi tìm sức mạnh của thời đại để tranh thủ, để kết hợp với sức mạnh 
dân tộc tạo nên sức mạnh tổng hợp đủ khả năng đánh đuổi đế quốc, lật đổ phong kiến, 
cứu nước, cứu dân. Sức mạnh thời đại mà cuối cùng Hồ Chí Minh đã tìm được là tình 
đoàn kết, sự giúp đỡ của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, nhất là 
nước Nga xã hội chủ nghĩa, vô sản Pháp... 
Muốn giải phóng dân tộc mình cần thiết phải đoàn kết với các dân tộc khác cùng 
chung cảnh ngộ. Muốn đánh thắng đế quốc xâm lược phải thực hiện khối liên minh 
chiến đấu giữa lao động ở các thuộc địa với nhau và giữa lao động ở thuộc địa với vô 
sản ở chính quốc; nếu tách riêng mỗi lực lượng thì không không thể nào thắng lợi được. 
Theo Hồ Chí Minh, do điều kiện lịch sử đã thay đổi, kẻ thù dân tộc không phải là 
thế lực phong kiến phương Đông mà là chủ nghĩa tư bản phương Tây, nên cuộc đấu 
tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta muốn giành thắng lợi triệt để phải đi theo con 
đường cách mạng vô sản. Vì vậy, cuộc đấu tranh của nhân dân ta vì độc lập dân tộc và 
chủ nghĩa xã hội không tách rời cuộc đấu tranh chung của nhân dân các nước vì hòa 
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự đồng 
tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế trở thành một nhân tố thắng lợi của sự nghiệp dựng 
nước và giữ nước của nhân dân ta. 
Hồ Chí Minh đã xây dựng nên một hệ thống quan điểm về vấn đề kết hợp sức 
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đó là phải đặt cách mạng giải phóng dân tộc Việt 
Nam trong sự gắn bó với cách mạng vô sản thế giới; Kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu 
nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng; Dựa vào sức mình là chính, tranh thủ 
sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, sự ủng hộ của nhân loại tiến bộ, đồng thời 
không quên nghĩa vụ quốc tế cao cả của mình; Có quan hệ hữu nghị, hợp tác, sẵn sàng 
 186
“làm bạn với mọi nước dân chủ”... 
Dựa vào những luận điểm đó, Đảng ta xác định cách mạng Việt Nam là bộ phận 
của cách mạng thế giới để phát huy sức mạnh dân tộc, tranh thủ sức mạnh thời đại, 
giành độc lập thống nhất cho đất nước. Khi cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, 
trong bối cảnh toàn cầu hóa, quốc tế hóa, Đảng cho rằng sức mạnh dân tộc là ý chí vươn 
lên thoát khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, hướng tới xã hội dân giàu, nước 
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, là chính trị xã hội ổn định, nguồn nhân lực dồi 
dào, sáng tạo, là lợi thế về vị trí địa lý của đất nước, sức mạnh của thời đại, là khoa học 
công nghệ, vốn, thị trường. Do đó, Đảng chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa 
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở 
cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ đối 
ngoại, nhằm giải phóng mọi tiềm năng của đất nước, thu hút các nguồn lực bên ngoài, 
tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức để tiến lên. 
Về thực tiễn, trong ba mươi năm đầu thế kỷ XX, Phan Bội Châu, Phan Châu 
Trinh, Nguyễn Thái Học... do những hạn chế chủ quan, khách quan, đã không tìm được 
sức mạnh thời đại, nên dù đã hết sức cố gắng, sự kết hợp sức mạnh trong nước với sức 
mạnh quốc tế không thể thành công. 
Từ năm 1930, khi Đảng ra đời, coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách 
mạng vô sản thế giới, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại mới từng bước được kết 
hợp một cách đúng đắn. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi là do Đảng đã 
dày công xây dựng lực lượng cách mạng trong nước, đồng thời tranh thủ được sức 
mạnh thời đại, trực tiếp là việc các nước Đồng Minh đánh thắng phátxít Nhật, làm cho 
quân Nhật ở Đông Dương tê liệt, bọn tay sai rệu rã để ta kết hợp sức mạnh bên trong 
với sức mạnh bên ngoài giành chính quyền nhanh gọn, ít đổ máu. Cách mạng Tháng 
Tám thành công là sự thể hiện sinh động bài học kết hợp sức mạnh to lớn của dân tộc 
Việt Nam với sức mạnh vĩ đại của thời đại. 
Trong thời kỳ 1945-1954, với chủ trương dựa vào sức mình là chính, đồng thời ra 
sức tranh thủ sự giúp đỡ của Trung Quốc, Liên Xô và sự đồng tình ủng hộ của nhân dân 
thế giới, kể cả Đảng Cộng sản và nhân dân lao động Pháp, Đảng đã tạo nên lực lượng to 
lớn cho kháng cuộc chiến, từng bước đi tới thắng lợi, nhất là ở chiến dịch lịch sử Điện 
Biên Phủ. Trong thời kỳ 1954-1975, kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức 
mạnh thời đại được Đảng nâng lên tầm cao mới bởi đường lối tiến hành đồng thời và 
kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng ở hai miền, nhằm mục tiêu chung là giải 
phóng miền Nam, hòa bình thống nhất đất nước. Đường lối đó đã phát huy cao độ sức 
mạnh dân tộc, tranh thủ tối đa sức mạnh thời đại, bao gồm sức mạnh của hệ thống xã 
hội chủ nghĩa, của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình dân chủ, sức 
mạnh của cả Liên Xô và Trung Quốc, của khối đoàn kết ba nước Đông Dương, tạo nên 
sức mạnh tổng hợp to lớn, đánh bại đế quốc Mỹ, thống nhất Tổ quốc. 
Từ 1975 đến nay, nhất là từ năm 1986, khi Đảng đề ra đường lối đổi mới, tôn 
trọng và hành động theo quy luật khách quan, từ bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, 
bao cấp, đã phát huy được tiềm năng của đất nước. Kết hợp với đổi mới trong nước, 
Đảng, Nhà nước ta cũng có sự đổi mới quan trọng về chính sách đối ngoại, thực hiện 
 187
hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, có quan hệ với hơn 170 nước và vùng lãnh thổ 
trên thế giới, do đó đã tranh thủ được nguồn lực to lớn từ bên ngoài, nhất là vốn, thị 
trường, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, nên đưa đất nước vượt qua khủng hoảng kinh 
tế- xã hội, chuyển mạnh sang thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 
5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm 
thắng lợi của cách mạng Việt Nam 
- Về khoa học, cơ sở lý luận của bài học này là quan điểm của chủ nghĩa Mác- 
Lênin về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về vai trò của Đảng Cộng sản, về mối 
quan hệ giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc trong cách mạng vô sản, là tư tưởng Hồ 
Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng 
Việt Nam. 
Chủ nghĩa Mác- Lênin cho rằng trong mỗi thời đại, mỗi dân tộc, bao giờ cũng có 
một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm, mọi vấn đề của thời đại, của dân tộc, thành hay bại, 
đều tùy thuộc vào tư tưởng, đường lối của giai cấp trung tâm, giai cấp lãnh đạo, thông 
qua đội tiên phong của nó. Rằng, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, cuộc đấu tranh giữa giai 
cấp vô sản và giai cấp tư sản đến một giai đoạn nhất định sẽ xuất hiện chính đảng của 
các giai cấp, đó là đảng cộng sản và đảng tư sản. Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính 
trị của giai cấp công nhân, có vai trò lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp công 
nhân và những người lao động khỏi ách thống trị tư bản. Lý luận về xây dựng chính 
đảng của giai cấp công nhân của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gồm 
nhiều luận điểm, trong đó quan trọng nhất là luận điểm về vai trò lãnh đạo của Đảng 
Cộng sản. 
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với xã hội là vấn đề khách quan xuất phát 
từ địa vị lịch sử của giai cấp công nhân, tồn tại suốt thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ 
nhân dân, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong chủ nghĩa xã hội cho đến khi 
xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản. Sự lãnh đạo của Đảng có nội dung cơ bản 
trước tiên là nhận thức quy luật vận động khách quan của cách mạng, diễn đạt quy luật 
đó thành mục tiêu, phương hướng giải pháp đạt mục tiêu, thể hiện trong cương lĩnh, 
đường lối, chủ trương của Đảng. Sau đó, Đảng tiến hành tuyên truyền, phổ biến mục 
tiêu, phương hướng, con đường đi tới mục tiêu cho dân biết, để dân bàn, dân làm và qua 
thực tế dân kiểm tra sự đúng đắn của đường lối, chủ trương giúp Đảng hoàn thiện, sửa 
đổi cho đúng hơn, làm cho hành động của quần chúng phù hợp hơn với quy luật, đưa 
cách mạng đi tới thắng lợi. Vì lẽ đó, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản luôn luôn 
là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng. 
ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, 
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc, là lực lượng có vai 
trò đề ra đường lối, chủ trương cho cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng 
xã hội chủ nghĩa và tổ chức nhân dân tiến hành các cuộc cách mạng đó. Đường lối, chủ 
trương của Đảng đúng đắn, hợp quy luật, năng lực tổ chức xây dựng lực lượng, vận 
động quần chúng của Đảng cao, hiệu quả sẽ làm cho phong trào cách mạng của quần 
chúng phát triển, mau chóng đi tới thắng lợi, ngược lại, sẽ làm cho phong trào cách 
mạng gặp khó khăn, bị tổn thất, chậm đạt tới mục tiêu. 
 188
Đảng ta có sứ mệnh đó và có thể đảm đương được sự mệnh đó bởi Đảng có một 
số đặc tính riêng biệt mà các chính đảng khác không thể có: 
Thứ nhất: Khi đề ra đường lối, bao giờ các chính đảng cũng xuất phát từ lợi ích 
của giai cấp mình. Các giai cấp thống trị trước đây, lợi ích của họ chỉ trùng khớp với lợi 
ích của nhân dân, của dân tộc khi đất nước bị ngoại xâm, nên chỉ lúc đó họ mới được 
nhân dân ủng hộ. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là 
đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, nên khi đề ra đường lối phục vụ 
giai cấp mình cũng đồng thời Đảng cũng phục vụ nhân dân, phục vụ dân tộc. Bởi vậy, 
đường lối, chủ trương của Đảng luôn luôn phù hợp với lợi ích của nhân dân, của dân 
tộc, nên có tính đúng đắn cao, được nhân dân tin tưởng, ủng hộ, thực hiện. Đây là đặc 
điểm riêng có của Đảng ta, tạo nên nhân tố vừa chủ quan, vừa khách quan bảo đảm cho 
vai trò lãnh đạo của Đảng được vững chắc, lâu dài. 
Hồ Chí Minh cho rằng, ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, Đảng 
không có lợi ích nào khác và bản thân Người, với tư cách là người thành lập, lãnh tụ tối 
cao của Đảng cũng xác định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước 
ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo 
mặc, ai cũng được học hành”. 
Thứ hai: Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam, do 
đó số lượng đảng viên không thể nhiều, tổ chức Đảng phải tinh gọn, điều đó khiến cho 
Đảng chỉ là một bộ phận nhỏ của giai cấp, của dân, tự mình, Đảng không thể đưa mục 
tiêu cách mạng thành hiện thực mà phải thông qua phong trào cách mạng của quần 
chúng nhân dân. V.I. Lênin nói: “Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ không phải là việc 
riêng của Đảng Cộng sản - Đảng chỉ là một giọt nước trong đại dương - mà là việc của 
tất cả quần chúng lao động”1. Đó là lý do Đảng phải luôn luôn quán triệt trong mọi hoạt 
động của mình quan điểm sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, 
phải “lấy dân làm gốc”. Việc phải “lấy dân làm gốc” quy định Đảng phải thường xuyên thắt 
chặt mối liên hệ mật thiết với nhân dân, với dân tộc, làm cho Đảng được nhân dân che chở, 
giúp đỡ, tạo điều kiện để Đảng nắm bắt đúng, kịp thời tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, 
đề ra được đường lối, chủ trương đúng với dân, để đưa đường lối, chủ trương của Đảng 
vào cuộc sống. Vì vậy, tuy số lượng đảng viên không nhiều, song Đảng có chỗ dựa 
vững chắc, địa bàn rộng lớn, lực lượng hùng hậu, sức mạnh to lớn. 
Thứ ba: Do Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với 
phong trào công nhân và phong trào yêu nước do Hồ Chí Minh sáng lập, xây dựng, rèn 
luyện, nên Đảng có nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí 
Minh. Đó là hệ thống lý luận khoa học, tinh hoa trí tuệ của nhân loại và của dân tộc Việt 
Nam giúp Đảng có khả năng đề ra được đường lối, chủ trương cách mạng đúng đắn, 
phản ánh đúng quy luật phát triển của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa cũng 
như của cách mạng xã hội chủ nghĩa, vừa có tính nguyên tắc, không chệch hướng, vừa 
linh hoạt phù hợp với tình hình quốc tế và trong nước... 
- Về thực tiễn, bài học này cũng đã được lịch sử của Đảng và cách mạng Việt Nam 
1. V.I Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, t.45, tr. 110-111. 
 189
chứng minh trên thực tế. 
Trước năm 1930, khi cuộc đấu tranh của dân tộc ta do các tổ chức, cá nhân đại 
biểu cho giai cấp phong kiến địa chủ, nông dân, tư sản, tiểu tư sản lãnh đạo, dù đã diễn 
ra liên tục, anh dũng, song kết cục đều bị thất bại. Từ 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng, 
phong trào dân tộc, dân chủ của nhân dân ta mới từng bước đi tới thắng lợi. 
Trong những năm 1930-1945, với đường lối đúng đắn được đề ra trong Cương 
lĩnh đầu tiên của Đảng, lực lượng cách mạng nước ta từng bước được xây dựng với 
nòng cốt là khối liên minh công nông, quần chúng cách mạng được rèn luyện qua nhiều 
cuộc tổng diễn tập, mặt trận dân tộc thống nhất được xây dựng, lực lượng chính trị, vũ 
trang, căn cứ địa hình thành, do đó khi có thời cơ, Đảng đã phát động, tổ chức cuộc khởi 
nghĩa giành chính quyền thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. 
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhưng các thế lực đế quốc thực dân 
và tay sai câu kết với nhau, tái xâm lược Việt Nam lần nữa. Trước tình hình đó, Đảng 
xác định độc lập dân tộc vẫn là mục tiêu trực tiếp, chủ nghĩa xã hội là phương hướng 
tiến lên, kịp thời đưa ra bản chỉ thị kháng chiến kiến quốc, kết hợp dựng nước với giữ 
nước, thực hiện đoàn kết dân tộc, tiến hành thắng lợi cuộc đấu tranh chống giặc đói, 
giặc dốt, giặc ngoại xâm, bảo vệ được chính quyền cách mạng trong hoàn cảnh “ngàn 
cân treo sợi tóc”. 
Từ cuối năm 1946, khi thực dân Pháp dùng vũ lực để đặt lại ách thống trị của 
chúng lên toàn cõi nước ta, Đảng đã kịp thời phát động nhân dân toàn quốc nhất tề đứng 
lên kháng chiến, đề ra đường lối kháng chiến đúng đắn là thực hiện chiến tranh nhân 
dân, kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Nhờ đó, Đảng 
đã từng bước lãnh đạo, tổ chức cuộc kháng chiến tiến lên, đi tới thắng lợi vẻ vang sau 
cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954. 
Trong những năm 1954-1975, trước kẻ thù hùng mạnh, có âm mưu bá chủ thế giới 
và trước bối cảnh các nước xã hội chủ nghĩa có những bất đồng, Đảng đã suy nghĩ tìm 
tòi và cuối cùng tại Đại hội lần thứ III (1960) đã đề ra được đường lối chiến lược chung 
sáng suốt là tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ hai chiến lược cách mạng khác 
nhau ở hai miền, nhằm thực hiện một mục tiêu chung của cả nước là giải phóng miền 
Nam, hòa bình thống nhất Tổ quốc, nên đã tạo ra được sức mạnh tổng hợp đưa cuộc 
kháng chiến vĩ đại của dân tộc đi tới thắng lợi vẻ vang sau đại thắng mùa Xuân 1975. 
Trong những năm 1975-1985, do đường lối của Đảng mang tính chủ quan, nóng 
vội nên kinh tế- xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng. Từ năm 1986, với đường lối đổi 
mới được đề ra tại Đại hội lần thứ VI, công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước có những 
bước chuyển rõ rệt, đạt được những thành tựu mới, đưa nước ta vượt qua khó khăn, 
chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thế và lực được tăng 
cường, vị thế quốc tế được nâng cao. 
Hiện nay, để bảo đảm cho sự lãnh đạo Đảng được đúng đắn, tiếp tục là nhân tố 
hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Đảng chủ trương phải hết sức 
chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then 
chốt, bảo đảm cho Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức... Đại hội lần thứ 
 190
X của Đảng nhấn mạnh: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công 
nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại 
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc”1; 
phải “Tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân 
và tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; Xây dựng 
Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính 
trị vững vàng, có đạo đức cách mạng trong sáng, có tầm trí tuệ cao, có phương thức 
lãnh đạo khoa học, luôn gắn bó với nhân dân"2, coi đó là "đòi hỏi có ý nghĩa sống còn 
đối với Đảng và nhân dân ta". 
Những bài học lịch sử quan trọng nói trên có quan hệ mật thiết với nhau. Với cơ 
sở khoa học đúng đắn, đã được lịch sử cách mạng Việt Nam, lịch sử của Đảng kiểm 
nghiệm, những bài học đó có ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn hết sức sâu sắc đối 
với Đảng và nhân dân ta, nhất là trong thời điểm hiện nay. 
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 
2006, tr. 130. 
2. Sđd, tr. 279. 
 191
Mục lục 
Bài mở đầu. Nhập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam 
Chương I. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam 
Chương II. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930-1945) 
Chương III. Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 
 và can thiệp Mỹ (1945 - 1954) 
Chương IV. Đảng lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc 
 và kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) 
Chương V. Đảng lãnh đạo cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội và 
 bảo vệ Tổ quốc (1975-2006) 
Chương VI. Tổng kết lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng, thắng lợi 
 và bài học 
 192

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_lich_su_dang_cong_san_viet_nam_le_mau_han.pdf
Ebook liên quan