Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin

Tóm tắt Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin: ...quan hệ sản xuất, từ đó xuất hiện nhu cầu khách quan phải thiết lập mối quan hệ thống nhất giữa chúng theo nguyên tắc quan hệ sản xuất phải phù hợp với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất. Khi phân tích sự vận động của mâu thuẫn biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, M... số tiền chẳng hạn: 5000 đơn vị tư bản; với c v = 4 1 và m’ = 100% Năm thứ nhất: 4000c + 1000v + 1000m Nhà tư bản không tiêu dùng hết 1000m mà trích 500m để tích lũy mở rộng SX với cấu tạo hữu cơ không thay đổi: Năm thứ hai: 4400c + 1100v + 1100m - Thực chất của tích luỹ tư bản...h nghiệp, ở mỗi quốc gia Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin 113 mà ngày càng phải có sự gắn bó giữa phong trào công nhân các nước. Có như vậy, phong trào công nhân mới có thể giành được thắng lợi. Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng: “cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại gia...

pdf154 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 225 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. 
Sự phát triển như vũ bão của ba dòng thác cách mạng trong suốt mấy thập kỷ đã gắn liền với sự 
tồn tại và phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực, với hệ thống xã hội chủ nghĩa. 
II. SỰ KHỦNG HOẢNG, SỤP ĐỔ 
CỦA MÔ HÌNH CHỦ NGHĨA XÃ HỘI XÔ VIẾT 
VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NÓ 
1. Sự khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết 
 Lịch sử xã hội loài người không đi theo con đường thẳng và phong trào cách mạng cũng 
không tránh khỏi sai lầm và thất bại hay những thời kỳ thoái trào.Khi chủ nghĩa xã hội còn là lý 
thuyết, vào những năm 70 của thế kỷ XIX, sau thất bại của công xã Paris, cuộc khủng hoảng đầu 
 Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin 
150 
tiên đã xảy ra. quốc tế I tan rã (năm 1876 ). Nhưng từ trong khủng hoảng, sự phát triển của lý luận 
của thời kỳ này đã phá vỡ sự bế tắc trong phong trào công nhân đưa đến sự thành lập quốc tế II 
(năm 1889). 
Đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, đặc 
biệt là từ sau khi Ăngghen qua đời, phong trào xã hội chủ nghĩa lại lâm vào khủng hoảng lần thứ 
hai. Quốc tế II phân rã thành phái hữu, phái tả và phái giữa. Từ sau cách mạng Tháng Mười Nga 
thành công, dưới sự lãnh đạo của Lênin, Quốc tế III - quốc tế cộng sản được thành lập, chấm dứt sự 
khủng hoảng lần thứ hai. 
Bắt đầu từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu 
đi vào thời kỳ khủng hoảng. Từ tháng tư năm 1989 trở đi, sự đổ vỡ diễn ra liên tiếp ở các nước 
Đông Âu. Chỉ trong vòng 2 năm, đến tháng 9 năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và sáu 
nước Đông Âu dẫ sụp đổ hoàn toàn. Sự sụp đổ cũng diễn ra ở Mông Cổ, Anbani, Nam Tư. 
2. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ 
a. Nguyên nhân sâu xa là những sai lầm về mô hình phát triển của chủ nghĩa xã hội Xô viết 
Sau khi Lênin qua đời, ở Liên Xô, chính sách kinh tế mới không được tiếp tục thực hiện mà 
chuyển sang kế hạch hóa tập trung cao độ. Thời gian đầu, kế họach hóa tập trung đã phát huy tác 
dụng mạnh mẽ, song đã biến dạng thành kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Sau chiến tranh 
thế giới thứ hai, Liên Xô vẫn tiếp tục duy trì mô hình này. Trong mô hình này đã tuyệt đối hóa cơ 
chế kế hoạch hóa tập trung cao, từ bỏ hay gần như từ bỏ một cách chủ quan duy ý chí nền kinh tế 
hàng hóa, cơ chế thị trường, thực hiện chế độ bao cấp tràn lan, triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo của 
người lao động. 
Do chậm đổi mới cơ chế kinh tế, hệ thống quản lý, nói chung là chậm đổi mới mô hình của chủ 
nghĩa xã hội, nên hậu quả là Liên Xô đang rút ngắn dần khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế 
so với các nước tư bản phát triển thì từ giữa những năm 70 của thế kỷ XX tình hình diễn ra theo xu 
hướng ngược lại. Sự thua kém rõ rệt của Liên Xô thể hiện trong lĩnh vực công nghệ và năng suất lao 
động. Mà đây lại là yếu tố như Lênin nói, xét đến cùng quyết định thắng lợi hoàn toàn của chế độ 
mới. 
Những sai lầm chủ quan nghiêm trọng kéo dài đã nói ở trên cản trở sự đổi mới đúng đắn là 
nguyên nhân sâu xa làm chế độ xã hội chủ nghĩa suy yếu, rơi vào khủng hoảng. Đó không phải là 
những khuyết tật do bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, mà do quan niệm giáo điều về chủ nghĩa 
xã hội. Cương lĩnh năm 1991 của Đang ta chỉ rõ: “do duy trì quá lâu những khuyết tật của mô hình 
cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách mạng khoa học và công nghệ” nên gây ra tình trạng trì 
trệ kéo dài về kinh tế-xã hội rồi đi tới khủng hoảng. 
b. Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ 
Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu có hai nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp sau: 
. Trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liên Xô đã mắc sai lầm rất nghiêm trọng về đường lối chính trị, 
tư tưởng và tổ chức. Đó là đường lối hữu khuynh, cơ hội và xét lại, thể hiện trueóec hết ở những 
người lãnh đạo cao nhất. Cuộc cải tổ ở Liên Xô bắt đầu từ năm 1986 đã kết thúc trong sự đổ vỡ 
hoàn toàn năm 1991. Vì đường lối cải tổ thực chất là đường lối trượt dài từ cơ hội, hữu khunh đến 
xét lại, đến từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa Mác-Lênin. Những lời tuyên bố lúc ban đầu: “cải tổ để có 
nhiều dân chủ hơn, nhiều chủ nghĩa xã hội hơn”, “chúng ta sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội tốt đẹp hơn 
chư không đi ra ngoài nó, “chúng ra tìm trong khuôn khổ của chủ nghĩa xã hội chư không phải ở 
ngoài giố hạn của nó những câu trả lời cho các vấn đề do cuộc sống đặt ra”,.chỉ là những tuyên 
bố suông ngụy trang cho ý đồ phản bội. 
Những người lãnh đạo cải tổ lùi dần từng bước, từng bước; thậm chí ngày càng công khai tuyên 
bố từ bỏ những mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà họ đã từng hứa hẹn, từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ bỏ 
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. 
Chủ trương đưa ra lúc đầu là “tăng tốc về kinh tế” để chấm dứt sự trì trệ. Đẩy mạnh nhịp độ phát 
triển không có gì sai mà là tất yếu, bức bách. Vấn đề là tăng tốc bằng cách nào thì không có câu trả 
lời đúng đắn. Đổi mới công nghệ bằng cách nào cũng bế tắc. Người ta bèn qui cho cơ chế quản lý 
kinh tế, nhưng rồi cũng trầy trật; người ta chuyển nhanh sang cải tổ chính trị, coi đây là “cái chìa 
 Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin 
151 
khóa” cho mọi vấn đề. Hội nghị Đảng toàn quốc lần thứ 19 (năm 1988) chủ trương chuyển trọng 
tâm sang cải tổ hệ thống chính trị trên cơ sở cái gọi là “tư duy chính trị mới”. Thực chất đó là sự 
thỏa hiệp vô nguyên tắc, là sự đầu hàng, là từ bỏ lập trường giai cấp, là sự phản bội chủ nghĩa Mác-
Lênin, phản bội sự nghiệp xã hội chủ nghĩa. Cuộc cải cách chính trị đánh thẳng vào hệ thống chính 
trị của chủ nghĩa xã hội trước hết là vào tổ chức Đảng. Nhóm lãnh đạo cải tổ tìm cách loại bỏ khỏi 
Ủy ban Trung ương Đảng hàng loạt những người không tán thành đường lối sai lầm của cải tổ, kiên 
trì đường lối chủ nghĩa Mác-Lênin. Những người ngấm ngầm hoạc công khai thù địch với chủ 
nghĩa Mác-Lênin chiếm các vị trí chủ chốt trong bộ máy Đảng và nhà nước. 
Bằng phát súng lệnh “công khai”, “dân chủ”, “không có vùng cấm”, cải tổ đã nhanh chóng tạo ra 
làn sóng phê phán, công kích, bôi đen tất cả những gì gắn với 70 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội. 
Nó gây hoang mang, xáo động đến cực độ trong tư tưởng xã hội, phá vỡ niềm tin của quần chúng 
đối với những giá trị của chủ nghĩa xã hội. Người ta sử dụng toàn bộ phương tiện thông tin đại 
chúng để làm việc này và chiến dịch tuyên truyền, đào bới, phủ định quá khứ được các đài báo 
phương Tây tiếp sức mạnh mẽ và lái theo những ý đồ, mục đích đen tối của chúng. 
. Chủ nghĩa đế quốc đã can thiệp toàn diện, vừa tinh vi, vừa trắng trợn, thực hiện được “diễn biế 
hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu. 
Chủ nghĩa đế quốc thường xuyên tiến hành một cuộc chiến tranh khi bằng súng đạn, khi bằng 
“diễn biế hòa bình” chống chủ nghĩa xã hội, chống Liên Xô. Chủ nghĩa đế quốc đã gây ra cuộc 
chiến tranh lạnh từ sau thế chiến thứ hai. Các chiến lược gia phương Tây sớm nhận ra “cái gót chân 
Asin” của cải tổ: đó là đường lối xét lại, là hệ tư tưởng tư sản, là chính sách thỏa hiệp, nhân nhượng 
vô nguyên tắc với Mỹ và phương Tây thể hiện tập trung ở “tư duy chính trị mới”. Các thế lực chống 
chủ nghĩa xã hội ở bên ngoài theo sát quá trình cải tổ, tìm mọi cách để lái nó theo ý đồ của họ; tác 
động vào cải tổ cả về tư tưởng, chính trị và tổ chức. Hứa hẹn viện trợ kinh tế được dùng làm một 
thứ vũ khí rất lợi hại để lái cuộc cải tổ theo quĩ đạo mà phương Tây mong muốn. Chủ nghĩa đế quốc 
đã đẩy mạnh thực hiện “diễn biến hòa bình” trong nội bộ Liên Xô và các nước Đông Âu. Trong 
cuốn sách “Chiến thắng không cần chiến tranh”, Nixon cho rằng “mặt trận tư tưởng là mặt trận 
quyết định nhất”. Theo Nixon: “Toàn bộ vũ khí của chúng ta, các hiệp định mậu dịch, viện trợ kinh 
tế sẽ không đi đến đâu nếu chúng ta thất bại trên mặt trận tư tưởng”. Chiến lược của Mỹ trước sau 
như một là đưa chiến tranh vào bên trong “bức màn sắt” 
Tóm lại sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc cùng với sự phản bội từ bên trong và từ trên chóp bu 
của cơ quan lãnh đạo cao nhất là nguyên nhân trực tiếp làm cho Liên Xô sụp đổ. Hai nguyên nhân 
này quyện chặt vào nhau, tác động cùng chiều, tạo nên một lực cộng hưởng rất mạnh và nhanh như 
một cơn lốc chính trị trực tiếp phá sập ngôi nhà xã hội chủ nghĩa. Tất nhiên xét cho cùng, chính bọn 
cơ hội, xét lại và phản bội, sự mất cảnh giác cách mạng trong hàng ngũ những người cộng sản đã 
tạo cơ hội bằng vàng cho chủ nghĩa đế quốc “chiến thắng mà không cần chiến tranh” 
Trong tình hình chủ nghĩa xã hội trì trệ và khủng hoảng do những sai lầm của mô hình cũ thì cải 
tỏ, cải cách mở cửa, đổi mới là tất yếu. Vì chỉ có một cuộc cải tổ, cải cách, đổi mới sâu sắc, toàn 
diện mới đưa chủ nghĩa xã hội thoát khỏi khủng hoảng để bước vào thời kỳ phát triển mới. Cải tổ, 
cải cách, mở cửa, đổi mới là tất yếu nhưng sụp đổ thì không là tất yếu. Vấn đề ở chỗ: cải tổ, cải 
cách, mở cửa, đổi mới thế nào, nhăm mục đích gì, theo đường lối nào. 
III. TRIỂN VỌNG CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 
1. Chủ nghĩa tư bản – không phải là tương lai của xã hội loài người 
a. Bản chất của chủ nghĩa tư bản không thay đổi 
Chủ nghĩa tư bản có vai trò to lớn đối với lịch sử phát triển của xã hội loài người. Trong mấy 
thập kỷ qua, do biết “tự điều chỉnh và thích ứng” đồng thời sử dụng triệt để những thành tựu của 
cách mạng khoa học và công nghệ, các nước tư bản chủ nghĩa đã vượt qua một số cuộc khủng 
hoảng và vẫn còn khả năng phát triển. Nhưng đó không phải là chế độ tương lai của nhân loại bởi 
bản chất bóc lột, phản dân chủ, vô nhân đạo của chủ nghĩa tư bản không thay đổi. Chính phương 
thức sản xuất dừa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa gây ra những ung nhọt không thể 
chữa khỏi. 
 Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin 
152 
Trong cuốn sách “ Ngoài vòng kiểm soát” (xuất bản năm 1993)Bresinsky đã cay đắng thừa nhận 
20 khuyết tật của xã hội Mỹ vào thời điểm đó và dự báo Mỹ sẽ mất vai trò siêu cường vào thế kỷ 
XXI. Trong 20 khuyết tật ấy có những khuyết tật đã trở thành phổ biến ở các nước tư bản, như: 
chăm sóc y tế không đầy đủ, giáo dục trung học chất lượng kém, vấn đề phân biệt chủng tộc, nghèo 
đói, ngày càng sâu sắc, tội ác bạo lực tràn lan, cảm giác trống về tinh thầnlàm cho xã hội lâm vào 
khủng hoảng và vô phương cứu chữa. 
Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản, dù là chủ nghĩa tư bản hiện đại, trên thế giới hiện nay 
vẫn có đến 1,2 tỷ con người phải tiếp tục chịu nghèo đói, tật bệnh, mù chữ, chiến tranh, hưởng mức 
thu nhập dưới 1 USD/ngày; 2,5 tỷ người nghèo có tổng thu nhập chỉ bằng thu nhập của 250 tỷ phú, 
triệu phú lớn nhất thế giới gộp lại; 1/3 lực lượng lao động toàn thế giới, tức là khoảng 1 tỷ người bị 
thất nghiệp ở các mức khác nhau; tại hơn 100 nước đang hoặc kém phát triển, mức thu nhập bình 
quân đầu người giảm đi so với thập niên trước, hàng ngày có đến 30.000 trẻ em chết bệnh mà lẽ ra 
có thể được cứu sống, và số người mù chữ lên đến hơn 800 triệu người. 
Sự kiện giới cầm quyền Mỹ, Anh tấn công Iraq năm 2003 càng khẳng định bản chất hiếu chiến 
của chúng. 
Chủ nghĩa tư bản với những mâu thuẫn bên trong không thể khắc phục. Xã hội tư bản không dễ 
biến màu bản chất của mình chỉ bằng lối xưng danh mới “phi hệ tư tưởng hóa” như “xã hội tư bản”, 
“xã hội hậu công nghiệp”, “xã hội tin hóa”, “xã hội kinh tế tri thức hóa”. Nhiều học giả tư sản đã 
cho rằng, chủ nghĩa tư bản là không thể chấp nhận được. 
b. Các yếu tố xã hội chủ nghĩa đã xuất hiện trong lòng xã hội tư bản 
Chủ nghĩa tư bản hiện đại sẽ tiếp tục phát triển thông qua chính những cuộc khủng hoảng, những 
cuộc cải cách để thích ứng, và quá trình phát triển đó cũng chính là quá trình quá độ sang một xã 
hội mới. Trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản đã xuất hiện những yếu tố của xã hội mới, những 
yếu tố của nền văn minh hậu công nghiệp, kinh tế tri thức nảy sinh và phát triển; tính chất xã hội 
của sở hữu ngày càng gia tăng; sự điều tiết của nhà nước đối với thị trường ngày càng hữu hiệu; tính 
nhân dân và xã hội của nhà nước tăng lên; những vấn đề phúc lợi xã hội và môi trườngngày càng 
được giải quyết tốt hơn. Với những đặc điểm trên đây cũng có thể xem đó là những xã hội quá độ, 
vì nó chứa đựng trong nó cả các yếu tố của chủ nghĩa tư bản và xã hội tương lai. 
2. Chủ nghĩa xã hội – tương lai của xã hội loài người 
a. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ không có nghĩa là sự cáo chung của 
chủ nghĩa xã hội 
Kẻ thù đã và đang ra sức khai thác sự kiện Liên Xô và Đông Âu sụp đổ để rêu rao về “cái chết 
của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung” . Sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu là 
sự sụp đổ của một mô hình của chủ nghĩa xã hội trong quá trình đi tới mục tiêu xã hội chủ nghĩa. 
Nó không đồng nghĩa với sự cáo chung của chủ nghĩa xã hội với tư cách là một hình thái kinh tế-xã 
hội mà loài người đang vươn tới. Tương lai của xã hội loài người vẫn là chủ nghĩa xã hội, đó là qui 
luật khách quan của sự phát triển lịch sử. Tính chất của thời đại hoàn toàn không thay đổi; loài 
người vẫn trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới 
mở đầu bằng cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại. Các mâu thuẫn của thời đại vẫn tồn tại, chỉ thay 
đổi hình thức biểu hiện và đặt ra yêu cầu mới phải giải quyết. 
b. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách, mở cửa, đổi mới và ngày càng đạt 
được những thành tựu to lớn 
Trong các nước xã hội chủ nghĩa còn lại tiến hành cải cách, mở cửa và không chỉ đứng vững mà 
còn tiếp tục phát triển. Trong đó, Trung Quốc và Việt Nam là hai nước đã tiến hành công cuộc cải 
cách, mở cửa và đổi mới tương đối thành công nhất. Trên cơ sở vận dụng sáng tạo, phát triển chủ 
nghĩa mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước đã tìm ra con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. 
Tuy Trung Quốc và Việt Nam khác biệt nhau về qui mô đất nước, tầm quan trọng trên trường quốc 
tế, về văn hóa dân tộc, nhưng công cuộc cải cách, mở cửa ở Trung Quốc và Việt Nam có những nét 
tương đồng sau đây: 
. Đã từ bỏ mô hình kinh tế kế hoạch tập trung chuyển sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa 
(Trung Quốc) hoặc theo định hướng xã hội chủ nghĩa (Việt Nam). Với những đặc trưng: đa dạng 
 Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin 
153 
hóa hình thức sở hữu, trong đó quốc hữu giữ vai trò chủ thể (Trung Quốc), hoặc công hữu là nền 
tảng (Việt Nam), kinh tế nhà nước là chủ đạo; sở hữu cổ phần được xem là hình thức chủ yếu của 
chế độ công hữu (Trung Quốc), hoặc doanh nghiệp cổ phần trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ 
biến (Việt Nam); đa dạng hóa hình thức phân phối, xem trọng phân phối theo lao động, đảm bảo 
quyền kinh doanh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp không phân biệt đối xử; giá cả, tỷ giá, 
lãi suất do thị trường xác định có sự điều tiết của nhà nước; phát triển đồng bộ các loại thị trường từ 
hàng hóa đến dịch vụ, thị trường chứng khoán; thực hiện các chương trình phúc lợi xã hội rộng lớn, 
xóa đói giảm nghèo, giữ gìn môi trường 
. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo hướng xây dựng hệ thống luật pháp ngày 
càng tương đồng với hệ thống luật pháp hiện đại, đặc biệt là phù hợp với những cam kết quốc tế; 
giảm dần sự can thiệp vi mô, sự can thiệp vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, gia tăng 
quản lý vĩ mô, gia tăng sự phân quyền cho các địa phương; thực hiện chế độ dân chủ nói chung, đặc 
biệt là ở các cơ sở theo hướng công khai, minh bạch, gia tăng sự giám sát của các cấp, của công 
luận, của quốc hội, của hội đồng nhân dân các cấp, của các tổ chức xã hội, tinh giảm bộ máy và 
biên chế, 
. Xây dựng các tổ chức xã hội phi chính phủ đa dạng gồm các hội nghề nghiệp, văn hóa, tôn 
giáo, xã hội,các tổ chức này ngày càng có vai trò to lớn trong các lĩnh vực mà nhà nước không 
với tay tới, như từ thiện, cứu trợ người nghèo, 
. Hội nhập quốc tế sâu rộng, tham gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế; Liên hợp quốc, các tổ 
chức khu vực, đặc biệt là đã gia nhập WTO, trở thành những quốc giai tích cực trong hội nhập khu 
vực ASEAN, Đông Á. 
. Đảm bảo sự cầm quyền và lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với công cuộc xây dựng và phát 
triển đất nước trên tất cả các mặt. Sự lãnh đạo và cầm quyền của Đảng đã và đang được đổi mới 
theo hướng khoa học, dân chủ và hiệu quả hơn, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng nước. 
Công cuộc cải cách của Trung Quốc và Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn được quốc 
tế thừa nhận. Những định hướng phát triển của Trung Quốc và Việt Nam cho thấy là cả Trung Quốc 
và Việt Nam đều tôn trọng những giá trị tiến bộ của nhân loại cả ở phương Tây và phương Đông, 
nghiên cứu, ứng dụng chúng phù hợp với điều kiện cụ thể trên cơ sở những giá trị nhân đạo cơ bản 
của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời sự tiến triển thực tế của những cuộc cải cách trên đây sẽ ngày 
càng làm sáng tỏ hơn con đường đổi mới chủ nghĩa xã hội. 
c. Đã xuất hiện xu hướng đi lên chủ nghĩa xã hội 
Trong tình hình chủ nghĩa xã hội tạm thời lâm vào thoái trào, ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt 
là ở Mỹ Latinh, từ những năm 1990 đã xuất hiện xu thế thiên tả và ngày càng phát triển mạnh lên 
thành một trào lưu vào đầu thế kỷ XXI. Từ 1998 đến nay, thông qua bầu cử dân chủ, các chính phủ 
cánh tả, tiến bộ đã lên cầm quyền ở 11 nước Mỹ Latinh. 
Trong số các nước Mỹ latinh do cánh tả cầm quyền hiện nay, nhiều nước tuyên bố đi lên chủ 
nghĩa xã hội. 
Từ năm 2005, tổng thống Venezuela - Hugo Chavez - nhiều lần công khai tuyên bố mục tiêu của 
cuộc cách mạng nước mình là đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong bài phát biểu ngày 3 
tháng 12 năm 2006, ngay sau khi tái đắc cử, Chavez một lần nưa khẳng định: “Venezuela sẽ tiếp tục 
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở thế kỷ XXI với các nội dung cơ bản sau đây: 
. Về tư tưởng: Lấy chủ nghía Mác, tư tưởng cách mạng và tiến bộ của Simon Bolivia, tư tưởng 
nhân đạo thiên chúa giáo làm nền tảng. 
. Về chính trị: Nhấn mạnh tư tưởng “dân chủ cách mạng” và “chính quyền nhân dân”, theo đó 
nhân dân có trách nhiệm cùng tham gia quyết định vận mệnh của đất nước, tham gia vào công việc 
xây dựng một nhà nước pháp quyền, thực hiện công bắng xã hội; xây dựng một mô hình xã hội mới, 
nơi mà mọi người dân đều có chỗ đứng cho dù đó là một thổ dân. 
. Về kinh tế: Chủ trương thực hiện kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước và hợp 
tác xã nắm vai trò chủ đạo; nhấn mạnh việc giành lại chủ quyền quốc gia dân tộc đối với tài nguyên 
thiên nhiên, đặc biệt là dầu mỏ, nước sạch và môi sinh 
 Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mac-Lênin 
154 
. Về xã hội: Chủ trương thực hiện phân phối công bằng của xã hội để giải quyết vấn đề bất bình 
đẳng và phân hóa xã hội 
. Về đối ngoại: Thúc đẩy khối đoàn kết Mỹ Latinh và quan hệ hữu nghị với tất cả các nước, lấy 
hợp tác thay thế cạnh tranh; lấy hội nhập thay cho bóc lột; đấu tranh cho một thế giới đa cực, dân 
chủ. 
. Về cách làm, bước đi: Kế thừa những mặt tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô, Đông Âu 
trước đây; không rập khuôn, sao chép mà phải thường xuyên đổi mới và sáng tạo; bên cạnh phát 
triển kinh tế, coi trọng các giá trị đạo đức, tinh thần; đoàn kết dân tộc; chú trọng kinh nghiệm quốc 
tế của các nước xã hội chủ nghĩa như Cuba, Việt Nam, Trung Quốc, 
Sự xuất hiện của “chủ nghĩa xã hội Mỹ Latinh” còn điểm này, điểm khác phải tiếp tục nghiên 
cứu và theo dõi, nhưng rõ ràng những biểu hiện đó đã và đang thể hiện sự tác động sâu xa và sức 
sống mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội hiện thực đối với các dân tộc Mỹ Latinh, thể hiện bước tiến 
mới của chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Đó là một thực tế lịch sử chứng minh cho sức sống và khả 
năng phát triển của chủ nghĩa xã hội, củng cố niềm tin vào lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. 
Tóm lại, từ diễn biến của tình hình thế giới từ cách mạng Tháng Mười Nga đến nay có thể khẳng 
định rằng: chủ nghĩa xã hội trên thế giới, từ những bài học thành công và thất bại và sự thức tỉnh 
của các dân tộc, nhất định sẽ có bước phát triển mới; theo qui luật khách quan của lịch sử, loài 
người nhất định sẽ tiến tới xã hội chủ nghĩa. 
----@---- 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_nhung_nguyen_ly_co_ban_cua_chu_nghia_mac_lenin.pdf
Ebook liên quan