Giáo trình Sự hình thành của chủ nghĩa khu vực Asean (Phần 1)
Tóm tắt Giáo trình Sự hình thành của chủ nghĩa khu vực Asean (Phần 1): ... chống bất kỳ quốc gia thù địch nào theo quy định ở khoản 2 điều này hoặc những biện pháp quy định chiếu theo điều 107, hoặc trong những hiệp ước khu vực thi hành một lần nữa chính sách xâm lược cho đến khi Liên hiệp quốc có thể, theo lời yêu cầu của cá...anh giải phóng dân tộc, bước sang thế kỷ XX, nhất là sau chiến tranh thế giới thứ hai, ĐNÁ lại một lần nữa chứng kiến quá trình biến đổi lớn diễn ra trên toàn khu vực. Một loạt các quốc gia ĐNÁ giành độc lập, mở ra thời kỳ mới cho độc lập, tự do và... Quốc 30 năm qua, sđd, tr. 102. 2 Rajaratman S: ASEAN can not be alone. “The Ambassador”, May 1973, 108 Bắc Kinh và sau đó tới Mátxcơva (tháng 5/1972) cho thấy tình trạng phân chia thế giới thành hai phe đang dần biến mất. Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là sự ch...
ASEAN - Trung Quốc 16/12/98 tại Hà Nội, đã khẳng định lại lập trường giải quyết các tranh chấp bằng đường lối hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế, hành động theo tinh thần Tuyên bố chung Manila 1992 và Tuyên bố chung cấp cao ASEAN - Trung Quốc tháng 12/1997, nhằm duy trì sự ổn định trong vùng, không làm phức tạp thêm tình hình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa bằng vũ lực. - Ảnh hưởng của chiến tranh lạnh Chiến tranh lạnh là khái niệm chỉ tình trạng đối đầu giữa hai khối xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, do Liên Xô và Mỹ đứng đầu, bắt đầu từ sau chiến tranh thế giới thứ hai và kết thúc vào năm 1989. Trong giai đoạn này, phần đông các nước đang phát triển và một số tổ chức khu vực đã thi hành đường lối không liên kết. Mục tiêu của đường lối này là giữ vững độc lập dân tộc, tránh bị lôi kéo vào các liên minh quân sự của hai khối. Mặt khác, đường lối này cũng phản ánh tính “tư lợi” của chủ nghĩa quốc gia - dân tộc nhằm tranh thủ cả hai khối để củng cố vị trí chính trị của mình trên trường quốc tế, phát triển nhanh chóng nền kinh tế dân tộc. Ai Cập và Ấn Độ được coi là hai thành công điển hình trong việc tranh thủ sự ủng hộ về chính trị và nhận viện trợ kinh tế của cả hai khối Xô - Mỹ. Như đã trình bày ở các phần trước, không liên kết cũng là một đường lối chính trị khu vực của ASEAN. Vì là sản phẩm của chiến tranh lạnh nên đường lối này không thể tự nó bứt khỏi hoàn cảnh sinh ra nó. Theo tinh thần ấy, ảnh hưởng 143 của chiến tranh lạnh đối với chủ nghĩa khu vực an ninh (security regionalism) ở ĐNÁ là một lẽ tự nhiên. Thuyết Domino của cựu ngoại trưởng Mỹ Foster Dulles cho rằng, nếu một quốc gia ĐNÁ “lọt vào tay cộng sản” thì các nước khác trong khu vực lần lượt sụp đổ theo. Vì thế, Mỹ và các đồng minh của mình ký kết “Tổ chức hiệp ước ĐNÁ” (SEATO) nhằm chống lại “sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản”. Thái Lan, Philippines là thành viên của SEATO, cũng là những nước ĐNÁ đầu tiên tham gia hiệp ước và tổ chức quân sự với các nước ngoài khu vực. Họ mong muốn đón nhận an ninh khu vực từ bên ngoài. Lập trường này của họ kéo dài đến tận những năm 60, khi một số nước ĐNÁ muốn thành lập SEAFET. Lúc ấy, ngoài một số thành viên ĐNÁ, Philippines còn muốn cả Đài Loan, Nhật Bản, Đại Hàn (đều là những đồng minh tích cực của Mỹ) trở thành thành viên của tổ chức này1. Đến năm 1966, để tiếp tục leo thang chiến tranh ở Việt Nam và tăng cường ảnh hưởng ở châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ đã vận động một số đồng minh châu Á thành lập “Hội đồng châu Á - Thái Bình Dương” (the Asian and Pacific Council - ASPAC), gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Philippines, Australia, Đài Loan, New Zealand, Nam Việt Nam, Thái Lan. Đây là một tổ chức chính trị quốc tế, một hiệp ước an ninh theo ý thức hệ. Các nước ASEAN trong khi cố gắng thi hành đường lối không liên kết mà vẫn bấu víu vào các tổ chức quốc tế khác của các nước tư bản đế quốc, chính là một minh chứng rõ rệt nhất về tác động của chiến tranh lạnh trong khuôn khổ trật tự thế giới hai cực Yalta. Một lý do 1 V.V. Samoilenko: ASEAN chính trị và kinh tế, sđd, tr. 9. 144 khác không kém phần quan trọng là thế lực quân phiệt trong các chính phủ của họ rất lớn, có lợi ích kinh tế, chính trị gắn liền với các quốc gia đồng minh - tư tưởng ở ngoài khu vực1. Theo cách lý giải trên thì “Hiệp ước phòng thủ năm nước” (Anh, Singapore, Australia, Malaysia, New Zealand) hình thành từ năm 1971 cũng không phải là ngoại lệ. Hiệp ước này vẫn được duy trì thường xuyên với các cuộc diễn tập quân sự giữa Singapore, Malaysia và các nước thành viên2. Bên cạnh đó, những hiệp ước an ninh song phương Mỹ - Philippines (1951), Mỹ - Thái Lan (1954), đều có chung ý nghĩa là tìm kiếm một sự bảo đảm nào đó về an ninh từ bên ngoài. Tuy nhiên, vấn đề an ninh khu vực ĐNÁ không phải là một dòng chảy đơn thuần như thế. Trong khi bị chi phối bởi ảnh hưởng của chiến tranh lạnh thì phần lớn các quốc gia ở đây vẫn mong muốn vượt ra ngoài khuôn khổ đó để đi theo con đường không liên kết. Theo đánh giá của một số học giả, đề nghị của Liên Xô (cũ) về việc xây dựng một hệ thống an ninh tập thể châu Á (1969) là ý định nhằm hóa giải sự hiện diện của tổ chức quân sự SEATO. Đề nghị này phản ánh ý đồ của các nước lớn can thiệp ngày càng sâu vào khu vực. Cho nên, chẳng có gì khó hiểu khi ZOPFAN Concept của các nước ASEAN ra đời đúng vào thời điểm các cường quốc có sự điều chỉnh trong chính sách của họ đối với khu vực này. Nhờ theo đuổi đường lối hòa bình, tự do, trung lập, ASEAN đã trở thành một tổ chức khu vực có vị thế độc lập nào đó, dù là rất tương 1 Jeshurum. C: The Military and National security. “The ASEAN reader”, Institute of Sotheast Asian Studies, Singapore 1992, p. 118-124. 2 Nguyễn Phương Bình: Vai trò của ASEAN trong việc xây dựng cơ chế an ninh khu vực. Tạp chí số 4(6), tháng 12/1994, tr. 30-34. 145 đối và mong manh với trật tự thế giới hai cực. Họ đã lợi dụng trật tự này như một phương tiện để đảm bảo an ninh và phát triển kinh tế đất nước mình. Như vậy, qua việc trình bày các yếu tố bản địa của an ninh ĐNÁ, chúng ta thấy an ninh của khu vực này là vấn đề cực kỳ phức tạp. Chỉ có thể đứng trên lập trường an ninh toàn khu vực mới có thể giải quyết thỏa đáng mối liên hệ hữu cơ giữa các yếu tố của an ninh bản địa. Các nước ASEAN đã thành công trong việc kiểm soát được các mâu thuẫn bên trong và bên ngoài tổ chức, tạo dựng được một cộng đồng an ninh khu vực, thích ứng với những điều kiện lịch sử cụ thể. 2. ASEAN với việc củng cố, phát triển an ninh khu vực Trên tinh thần một cộng đồng an ninh, các nước ASEAN đã dần xóa bỏ được những nghi kị, đối đầu, từng bước xây dựng lòng tin. Nhờ vậy, họ đã xây dựng được một cơ cấu quan hệ ổn định, nhằm trước tiên, giải quyết các vấn đề an ninh nội bộ bao gồm các tranh chấp lãnh thổ, xung đột sắc tộc hoặc các vụ bạo loạn trong nước. Họ đã thành lập các ủy ban phối hợp hành động dọc biên giới, tiến hành các cuộc tập trận không quân chung. Giữa các nước còn trao đổi về việc xây dựng lực lượng vũ trang, phối hợp tin tức tình báo, sự di chuyển quân đội1. Sự hợp tác an ninh quân sự của các nước ASEAN mặc dù được tiến hành dưới danh nghĩa “song phương” và “ngoài khuôn khổ ASEAN” đã đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định an ninh khu vực. 1 Chung Heng Chee: Intra-ASEAN Political Security and Economic Cooperation. “The ASEAN reader”, Institute of Sotheast Asian Studies, Singapore 1992, p. 101-105. 146 Do nhu cầu an ninh quốc phòng ngày một tăng, hầu hết các nước ASEAN đều đã tiến hành việc hiện đại hóa quân đội của mình. Nhưng quá trình hiện đại hóa quân đội của họ không gây ra sự xáo trộn trong khu vực. Theo thống kê của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI), giai đoạn từ 1977 đến 1986 Indonesia đầu tư cho việc mua vũ khí hạng nặng, trung bình mỗi năm là 325 triệu USD, Malaysia - 207 triệu USD, Singapore - 144 triệu USD, Thái Lan - 224 triệu USD (tính theo thời giá USD năm 1985). Cũng theo SIPRI, chi phí quân sự của mỗi nước ASEAN đã tăng gấp hai lần trong một thập kỷ (từ 1972- 1981), cụ thể từ 2,72 tỉ USD lên 5,3 tỉ USD1. Riêng năm 1992 các nước ASEAN đã chi phí hơn 3,3 tỉ USD để nâng cấp các lực lượng không quân2. Rõ ràng, nếu thiếu đi sự hiểu biết chừng mực thì quá trình hiện đại hóa quân đội của các nước ASEAN có thể trở thành mục tiêu của một cuộc chạy đua vũ trang và gây ra tình tình đối đầu mới. Đối với môi trường an ninh bên ngoài, ASEAN nổi lên như một sức mạnh tập thể, tạo được một tâm lý “che chở” nào đó cho các nước thành viên. Tổ chức này tỏ ra đặc biệt nhạy cảm đối với các biến đổi trong an ninh toàn cầu. Từ nửa sau của thập niên 70, ASEAN đã có xu hướng đối thoại với các 1 Mark J.N: ASEAN defence reorientation 1975-1992. ANV, Canberra, Australia 1993, p.28. 2 - Sheldom S.W, Donaldk E: Regional issues in Southeast Asian security- Scenarious and Region. The National Bureau of Asian Research, USA 1993; - Sheldon W.S: The Regionalization of Defence in Southeast Asia. Pacific Review, Vol 5, No2, 1992, p.112-123. 147 nước Đông Dương mặc dù chưa có dấu hiệu kết thúc của chiến tranh lạnh. Nhưng vì xảy ra “vấn đề Campuchia” nên tiến trình hợp nhất khu vực bị chặn lại. Suốt thời gian từ 1979 đến 1991, “vấn đề Campuchia” trở thành trọng đề trong quan hệ quốc tế ở ĐNÁ. ASEAN lo ngại “vấn đề Campuchia” trước hết là vì trong nhận thức của họ, việc Việt Nam đưa quân sang Campuchia đã phá vỡ những mục tiêu và nguyên tắc của Hiệp ước Bali và Tuyên bố Kuala Lumpur (ZOPFAN concept). Thông qua khủng hoảng Campuchia, các cường quốc có thể can thiệp vào khu vực dưới những hình thức mới. Tình trạng an ninh của ASEAN có thể bị đe dọa. Quá trình dàn xếp, giải quyết tình trạng đối đầu ASEAN và ba nước Đông Dương là do thiện chí và nỗ lực của hai phía. Ngay từ tháng 1/1980 Việt Nam đã chủ động đề nghị các nước ASEAN ký hiệp ước không xâm lược lẫn nhau giữa các nước ĐNÁ, ngỏ ý sẵn sàng thảo luận việc thiết lập một khu vực ĐNÁ hòa bình, độc lập, tự do, trung lập và ổn định. Tháng 9/1981, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào thay mặt ba nước Đông Dương đưa ra bảy nguyên tắc chỉ đạo quan hệ giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN “vì ĐNÁ hòa bình, hữu nghị và hợp tác”1. Tháng 7/1982 Việt Nam tuyên bố bắt đầu quá trình rút quân đội của mình khỏi Campuchia đồng thời đề nghị tổ chức hội nghị quốc tế về ĐNÁ. Những nỗ lực của ba nước Đông Dương dần dần đã được ASEAN đáp lại. Tháng 12/1987, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần III, Tổng thống Philippines, Aquino tuyên bố không còn coi Việt Nam là một mối đe dọa đối với an ninh nước này. Tháng 1 Nguyễn Văn Lịch: Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), sđd, tr.103. 148 8/1988, thủ tướng Thái Lan, Chatichai Choonhavan đưa ra luận điểm nổi tiếng “biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường”1. Chuyến viếng thăm Việt Nam của tổng thống Indonesia Suharto tháng 11/1990 đã trở thành một sự kiện quan trọng, kéo theo các cuộc viếng thăm quan trọng khác của thủ tướng Thái Lan Panyarachun (tháng 1/1992), thủ tướng Malaysia Mahathir Mohammad (tháng 4/1992) đến Hà Nội. Việt Nam sau đó đã tham gia Hiệp ước Bali (tháng 7/1992) và trở thành quan sát viên của ASEAN. Tháng 7/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN. Cuối cùng, “cuộc chiến tranh lạnh lần II” ở ĐNÁ (theo cách nói của một số học giả phương Tây) cũng đã chấm dứt. Hố sâu ngăn cách giữa hai nhóm nước đã căn bản được khắc phục. Tình trạng đối đầu về ý thức hệ trong khu vực đến đây đã mất hết lý do tồn tại. Bên cạnh việc giải quyết thành công hậu quả của chiến tranh lạnh ở khu vực, ASEAN còn phấn đấu xây dựng những cơ chế hợp tác an ninh đa phương rộng lớn. Nhạy cảm với sự suy giảm đáng kể vai trò quân sự của Nga, Mỹ ở ĐNÁ, các nước ASEAN đã lo ngại về một “khoảng trống quyền lực” (a power vacuum) trong khu vực và một số cường quốc khác sẽ nhảy vào lấp khoảng trống đó. Do vậy, họ cho rằng cần phải xây dựng một số cơ chế an ninh được thể chế hóa và có sự tham gia của tất cả các nước lớn. Sự tùy thuộc của thế giới ngày nay khiến chính phủ các nước ASEAN phải tính đến một nền an ninh lâu dài và cơ chế an ninh rộng lớn, vượt ra ngoài 1 Buszinski. L: New Aspirations and Old constrains in Thailand policy. Asian Survey, vol 29, no11, Nov 1989, p. 1057-1107. 149 khu vực. Kế thừa những kinh nghiệm của “Hội nghị an ninh và hợp tác ở châu Âu” (Conference on Security and Cooperation in Europe - CSCE), các nước ASEAN đã nêu ra sáng kiến về Diễn đàn khu vực của ASEAN (ASEAN Regional Forum- ARF). ARF ra đời như một phương tiện nhằm thúc đẩy hợp tác chính và an ninh cho cả khu vực châu Á - Thái Bình Dương1. Sáng kiến thành lập ARF trong chừng mực nhất định là sự đoạn tuyệt dần với tư duy chiến tranh lạnh. Bởi lẽ, đường lối ZOPFAN sinh ra từ chiến tranh lạnh, tỏ ra không còn phù hợp với tình hình toàn cầu hóa mọi phương diện của đời sống nhân loại. Ngoại trưởng Indonesia, Ali Alatas cho rằng cần phải đặt ZOPFAN concept trong một khung cảnh thay đổi nhanh chóng có tính toàn cầu và môi trường khu vực mà thanh lọc và điều chỉnh. Ông gọi ZOPFAN là “một bức họa màu xanh (blueprint) trong một khuôn mới vì hòa bình và hợp tác hòa bình, vì sự ổn định bền vững hơn và một nền an ninh rộng lớn hơn, bao trùm cả vùng Viễn Đông và Thái Bình Dương”2. ARF bắt đầu với 18 thành viên (1994) nay đã lên tới 21 thành viên (1997). Hơn mười nước khác đang chờ được kết nạp. Chiều hướng này phản ánh uy tín và sức hấp dẫn của nó. Nội dung đối thoại an ninh của các bên tham gia ARF gồm ba bước: thứ nhất, xây dựng lòng tin (confidence - building); thứ hai, tiến hành ngoại giao phòng ngừa (preventive diplomacy); thứ ba, xây dựng khung cơ chế an ninh khu vực (regional 1 ASEAN standing committee, Annual report 1993-1994, p.7. 2 Ho Peter: The ASEAN regional Forum: the way forward? “ASEAN-VN Cooperation in preventive diplomacy”, edited by Sarasin Viraphon, Werner Pfennig, Bangkok 1995, p.251-257. 150 security framwork). Như vậy, việc thành lập ARF đã tạo ra những tình huống cho các cường quốc cam kết chia sẻ trách nhiệm an ninh khu vực. Mặt khác, nó còn dựng lên thế cân bằng lực lượng giữa các cường quốc tại châu Á - Thái Bình Dương. ASEAN đã đứng vững ở vị trí cầm lái trong suốt các hoạt động của ARF, tiến hành các đối thoại đa phương có lợi cho an ninh ở ĐNÁ. Tóm lại: do các yếu tố lịch sử, văn hóa và vị trí địa - chính trị quan trọng, an ninh ĐNÁ là một nền an ninh cực kỳ phức tạp. Tình trạng tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, xung đột sắc tộc, những thách thức an ninh từ phía Trung Quốc và nguy cơ can thiệp từ bên ngoài của các cường quốc là những dòng chảy đan xéo, tạo nên “ba động” cho nền an ninh khu vực. Nhưng ASEAN đã sớm xác định được đường lối chính trị - an ninh của mình. Đó là đường lối hòa bình, tự do, trung lập, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc của tất cả các dân tộc, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, giải quyết tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình, không đe dọa hoặc dùng vũ lực, hợp tác với nhau có hiệu quả. Trong quá trình thực hiện đường lối an ninh khu vực, ASEAN đã tạo ra “một cộng đồng an ninh” và đã giải quyết khá thành công các vấn đề an ninh nội bộ. Đồng thời ASEAN cũng đảm bảo không để một cường quốc hay nhóm nước nào độc quyền gây ảnh hưởng hoặc thống trị khu vực. Trong xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa sau chiến tranh lạnh, và sự sụp đổ của trật tự thế giới hai cực, ASEAN đã kịp đưa ra sáng kiến thành lập ARF, tạo ra các đối thoại an ninh đa phương, mở rộng không gian ổn định và phát triển cho mình. Cho nên có thể nói rằng, cộng đồng ASEAN là ngọn 151 nguồn của chính sách an ninh khu vực, là một biểu hiện đặc biệt nổi bật của chủ nghĩa khu vực của ASEAN. * * * Như vậy, trong chương này chúng tôi đã trình bày một cách có hệ thống sự hình thành chủ nghĩa khu vực của ASEAN trên các bình diện địa – chính trị, địa – kinh tế và an ninh khu vực ở ĐNÁ. Thực chất của quá trình hình thành chủ nghĩa khu vực ASEAN là sự tìm kiếm, xây dựng đường lối, nguyên tắc hợp tác, hình thức hợp tác khu vực nhằm đảm bảo cho một ĐNÁ hòa bình, trung lập, ổn định và phát triển. Việc khảo sát sự hình thành chủ nghĩa khu vực của ASEAN hiển nhiên dẫn đến một hệ quả tất yếu là hiểu về nội dung bản chất chủ nghĩa khu vực của ASEAN như thế nào. Sự trình bày của chúng tôi trong chương này cho thấy bản chất chủ nghĩa khu vực của ASEAN - nói một cách cô đọng - là sự chấp nhận một thứ quyền lực siêu quốc gia ở ĐNÁ để có thể hợp tác, liên kết khu vực trên cơ sở các nguyên tắc, tiêu chí xác định: - Về chính trị: đó là việc xây dựng và thực hiện đường lối đoàn kết, hợp tác, liên kết khu vực không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, sự khác biệt tôn giáo tín ngưỡng, phấn đấu cho một ĐNÁ hòa bình, tự do, trung lập, ổn định phát triển, phi vũ khí hạt nhân. - Về kinh tế: đó là cơ chế xây dựng một thị trường khu vực thống nhất để vừa tạo ra sức mạnh cạnh tranh với các khối kinh tế khác, vừa đảm bảo tình trạng độc lập về kinh tế của mỗi quốc gia thành viên. - Về an ninh: đó là cơ chế hoặc nguyên tắc giải quyết 152 các vấn đề an ninh khu vực (như những biểu hiện của xung đột sắc tộc tôn giáo, vấn đề liên quan đến chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải); nguyên tắc không liên minh với bất kỳ khối quân sự nào, tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng, toàn vẹn lãnh thổ và bản sắc dân tộc của tất cả các quốc gia; nguyên tắc giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng biện pháp hoà bình, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, từ bỏ việc đe dọa và sử dụng vũ lực Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, chủ nghĩa khu vực ASEAN đã thực hiện nhiều chức năng, thông qua các hoạt động của Hiệp hội. Các chức năng chủ yếu đó là: - Thứ nhất, giải quyết các vấn đề toàn khu vực như vấn đề Biển Đông, vấn đề khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997. - Thứ hai, giải quyết những vấn đề chính trị, kinh tế, an ninh không chỉ của toàn khu vực, mà còn của riêng từng nước nhưng có thể liên quan đến khu vực (chẳng hạn vấn đề Campuchia, vấn đề Mỹ ngăn cản Myanmar gia nhập ASEAN vì “nhân quyền”). - Thứ ba, giải quyết, xử lý các mối quan hệ với bên ngoài khu vực (với các nước lớn, các bên đối thoại, các tổ chức quốc tế ).
File đính kèm:
- giao_trinh_su_hinh_thanh_cua_chu_nghia_khu_vuc_asean_phan_1.pdf