Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam (Phần 1)
Tóm tắt Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam (Phần 1): ...uyệt tác- Trần Nguyên Ðán) Không chỉ đau thƣơng, phẫn uất, các nhà thơ còn bộc lộ niềm mong ƣớc, khát vọng cứu dân giúp đời của kẻ sĩ chân chính: Ví làm ống bễ lò rèn được Thổi thấu lòng người khắp chín châu (Nguyễn Phi Khanh) Hoặc: Liễu phố tam thu vũ Quân bồng bán dạ thanh Cô đăng ...Tường đào ngõ mận ngại thung thăng Yêu quê hƣơng, nhà thơ luôn trăn trở với khát vọng: làm gì cho quê hƣơng Gia sơn cách đường nghìn dặm Sự nghiệp buồn, đêm trống ba II. TẤM LÕNG ƢU QUỐC ÁI DÂN SÂU NẶNG Trong thơ Nguyễn Trãi, ta thƣờng bắt gặp những từ tiên ƣu, ƣu ái. Ðây là nét ngời sáng ... kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX thì sự suy yếu này không còn là dấu hiệu nữa. Có thể nói chế độ phong kiến Việt Nam đã bƣớc vào thời kỳ khủng hoảng, suy vong trầm trọng, chuẩn bị cho sự sụp đổ toàn diện của chế độ này vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Sự khủng hoảng này đƣợc bộc lộ trên nhiều ph...
hau cùng tồn tại trong một tác giả và trong một tác phẩm.Trong đó khuynh hƣớng phê phán hiện thực và nhân đạo chủ nghĩa là khuynh hƣớng chính của văn học giai đoạn này. 2.3.2.2.Hình thức. -Thể loại: Những thể loại truyền thống vẫn tiếp tục phát triển và hoàn thiện hơn. Sự nở rộ đáng chú ý là truyện thơ Nôm và khúc ngâm. Nó làm đậm thêm nét đặc sắc của bộ mặt văn học giai đoạn này. Hàng loạt truyện thơ Nôm đã ra đời mà đỉnh cao là Truyện Kiều. +Truyện và kí chữ Hán có khuynh hƣớng vƣơn lên tiểu thuyết. +Thơ Ðƣờng luật với Hồ Xuân Hƣơng, Nguyễn Công Trứ đã trở nên mềm mại. +Nghệ thuật sân khấu: *Ðàng Trong: Tuồng đạt đến mức mẫu mực. *Ðàng Ngoài: Chèo phát triển +Thể ca trù là một thể thơ trữ tình ngắn, so với thể thơ Ðƣờng luật thì nó có dung lƣợng lớn hơn và cách luật cũng thoải mái hơn. Thể này xuất hiện từ thế kỷ XVI với Lê Ðức Mao nhƣng sau đó không đƣợc dùng. Ðến đầu thế kỷ XIX nó đƣợc dùng lại với các nhà thơ Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Nguyễn Hàm Ninh. Ca trù của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát đạt đến trình độ mẫu mực. -Phƣơng pháp sáng tác: Văn học giai đoạn này vẫn chƣa thoát khỏi chủ nghĩa qui phạm là phƣơng pháp lấy những chuẩn mực, tiêu chuẩn có sẵn để sáng tác dẫn đến công thức, ƣớc lệ. Bên cạnh đó khuynh hƣớng hiện thực chủ nghĩa khá phát triển đặc biệt là ở hai tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí và Truyện Kiều. -Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thơ ca trong văn học Nôm có bƣớc phát triển so với giai đoạn trƣớc, xu hƣớng trở về với dân tộc, với đời sống ngày càng tăng , các xu hƣớng này đã có từ trƣớc nhƣng đến giai đoạn này phát triển mạnh hơn. 2.3.3.Ảnh hƣởng qua lại giữa văn học dân gian và văn học viết trở nên sâu rộng, đặc biệt là ảnh hƣởng của văn học dân gian vào văn học viết ở cả hai bộ phận Hán và Nôm rất rõ. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 47 III. KẾT LUẬN 1.Ðây là giai đoạn thuần thục của nền văn học viết dƣới chế độ phong kiến, là giai đoạn đặt cơ s để nền văn học dân tộc bƣớc sang thời kỳ hiện đại. 2.Vấn đề trung tâm của văn học giai đoạn này là vấn đề số phận con ngƣời trong chế độ phong kiến suy tàn. Chƣơng 12: CHINH PHỤ NGÂM ( Ngâm là lời than). I.TÁC GIẢ VÀ DỊCH GIẢ 1.Tác giả: -Chinh phụ ngâm là tác phẩm Hán văn rất nổi tiếng của Ðặng Trần Côn. Tiểu sử của tác giả cho đến nay biết đƣợc còn rất ít. Kể cả năm sinh năm mất cũng không biết chính xác. Các nhà nghiên cứu ƣớc đoán ông sinh vào khoảng năm 1710-1720, mất khoảng 1745. -Quê hƣơng: Làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Ðông (nay là Hà Tây). Ông có làm quan nhƣng chức quan không lớn (ông từng làmhuấn đạo trƣờng phủ., làm tri huyện Thanh Oai, cuối cùng làm chức Ngự sử đài chiếu khám). -Về sáng tác: Chinh phụ ngâm là tác phẩm tiêu biểu nhất, ngoài ra ông có một số bài thơ, bài phú tả cảnh thiên nhiên. Khuynh hƣớng chung của thơ văn ông là đi sâu vào tình cảm, đi sâu vào nỗi lòng trắc ẩn, phức tạp, sâu kín của con ngƣời, nhất là đối với ngƣời phụ nữ. 2.Dịch giả: -Chinh phụ ngâm ra đời đã gây một tiếng vang lớn trong giới nho sĩ đƣơng thời. Ngƣời ta chú ý đến tác phẩm này không phải chỉ vì nghệ thuật điêu luyện của nó mà trƣớc hết là vì tác phẩm đã thể hiện một khuynh hƣớng mới của văn học-khuynh hƣớng hƣớng tới cuộc sống của con ngƣời. Tác phẩm viết bằng chữ Hán giữa thời đại văn học Nôm đang nở rộ cho nên nhiều ngƣời đã tìm cách dịch nó ra chữ Nôm. Có nhiều bản dịch và phỏng dịch của Ðoàn Thị Ðiểm, Nguyễn Khản, Bạch Liên Am Nguyễn, Phan Huy Ích. Trong số có những bản dịch đó, có một bản dịch thành công nhất đƣợc gọi là Bài hiện hành (bản đang đƣợc lƣu hành).Vấn đề đặt ra là ai là tác giả của bản dịch này? Hiện nay vẫn tồn tại hai khuynh hƣớng: -Khuynh hƣớng thứ nhất cho rằng tác giả của bản dịch này là nữ sĩ Ðoàn Thị Ðiểm. -Khuynh hƣớng thứ hai cho rằng tác giả của bản dịch này là Phan Huy Ích. -Hiện nay những ngƣời biên soạn sách giáo khoa PTTH vẫn theo khuynh hƣớng thứ nhất. II.ÐỀ TÀI VÀ NGUỒN CẢM HỨNG CỦA TÁC GIẢ, DỊCH GIẢ. 1.Ðề tài chiến tranh, chinh phu, chinh phụ là đề tài truyền thống và phổ quát của nhiều nền văn học. -Trong văn học Việt Nam, tiếng nói oán trách chiến tranh đã vang lên từ những câu ca dao trữ tình đầy oán hận. Từ thế kỷ XV, nhà thơ Thái Thuận cũng đã từng đặt bút Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 48 với đề tài này (Bài thơ Chinh phụ ngâm). Thế kỷ XVII, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã từng viết về đề tài này. -Trong văn học Trung Quốc, văn học đời Hán đã để lại những bài thơ nổi tiếng về thảm họa chiến tranh. Ðặc biệt đến đời Ðƣờng đã xuất hiện những nhà thơ chuyên khai thác đề tài này: Sầm Tham, Vƣơng Xƣơng Linh. 2.Cảm hứng của tác giả và dịch giả. -Tác giả và dịch giả Chinh phụ ngâm có phần đã tìm nguồn thi hứng từ những trang sách cổ. Nhƣng cái chính là nguồn cảm hứng của cả hai đều bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống . III.THỂ LOẠI, BÚT PHÁP, BỐ CỤC. 1.Thể loại: Tìm hiểu đặc trƣng thể loại để xacï định phƣơng pháp tiếp cận tác phẩm. Chinh phụ ngâm là tác phẩm trữ tình, tác phẩm chỉ có một nhân vật -ngƣời chinh phụ- hình tƣợng cảm nghĩ. Toàn bộ khúc ngâm chỉ là sự diễn tả tâm trạng của ngƣời chinh phụ. Do đó phƣơng pháp tiếp cận tác phẩm là phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật trữ tình. 2. Bút pháp Tác phẩm đƣợc viết với bút pháp tƣợng trƣng, ƣớc lệ là chủ yếu. Khi phân tích phải đặc biệt chú ý đặc điểm này. 3.Bố cục: Nguyên văn bằng chữ Hán gồm 477 câu. Bản dịch do nhà xuất bản Văn Hóa in có 408 câu. Bản in của nhà in Tân Việt có 412 câu. Có thể chia tác phẩm làm ba phần nhƣ sau: -Phần 1:Bốn câu đầu, phần này có giá trị nhƣ phần đặt vấn đề. -Phần 2: Tiếp đến câu 369 (Mọi bề trung hiếu thiếp xin vẹn tròn) đây là phần chính của khúc ngâm miêu tả tâm trạng của ngƣời chinh phụ với nhiều sắc thái khác nhau. -Phần3: Phần kết thúc tác phẩm với ƣớc mơ sum họp trong cảnh thanh bình. IV. NỘI DUNG 1.Diễn biến tâm trạng của ngƣời chinh phụ. Cần chú ý theo dõi hai vấn đề: -Những vấn đề chinh phụ suy nghĩ và đặt ra. -Sợi dây lôgic dẫn dắt quá trình tâm lí của chinh phụ. 4.1.1.Mở đầu khúc ngâm, ngƣời chinh phụ nhớ lại cảnh chia tay. -Mâu thuẫn cơ bản đạt ra trong suốt tác phẩm là mâu thuẫn giữa phép công và niềm tây (niềm tƣ), mở đầu tác phẩm mối mâu thuẫn này cũng đã xuất hiện. Ðôi vợ chồng trẻ này đang sống trong hạnh phúc, yên ổn thì chiến tranh xảy ra. Vì tình thế khẩn trƣơng, vì ý thức về nghĩa vụ, vì danh dự của trang Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 49 nam nhi hào kiệt và đây cũng là dịp lập công danh, đem vinh hiển về cho gia đình, ngƣời chinh phu đã "xếp bút nghiên theo việc đao cung". Ngƣời chinh phụ sẽ nói gì cho thực tế tàn nhẫn này. Bên cạnh nỗi buồn, nỗi lƣu luyến, sầu muộn chinh phụ cũng đã khẳng khái nói: "Phép công là trọng, niềm tây sá nào" Nàng đã ca ngợi chí khí, hành động của chinh phu: "Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt, Xếp bút nghiên theo việc đao cung Thành liền mong tiến bệ rồng Thước gươm thề quyết chẳng dung giặc trời. Chí làm trai dặm nghìn da ngựa Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao. Giã nhà đeo bức chiến bào Thét roi cầu Vị ào ào gió thu". Nàng thấy hình ảnh của ngƣời chồng rực rỡ, uy nghi nhƣ một trang dũng tƣớng giữa đoàn quân: "Aïo chàng đỏ tựa ráng pha Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in". Ðó là về lí trí còn về mặt tình cảm thì: "Ðưa chàng lòng dặc dặc buồn Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền". "Bóng cờ, tiếng trống xa xa Sầu lên ngọn ải, oán ra cửa phòng" 4.1.2.Sau hồi tiễn biệt ngƣời chinh phụ trở về chốn phòng khuê. -Bằng đôi cánh của trí tƣởng tƣợng nàng đã phóng tầm mắt ra chiến trƣờng để theo dõi cuộc sống, vận mệnh của chinh phu nơi chiến địa. +Cảnh chiến trƣờng hiện lên trƣớc mắt nàng thật đen tối. Ở đây không hề có tiếng ngựa hí, tiếng quân reo, hay tiếng va chạm của vũ khí mà chỉ có một luồng tử khí lạnh lẽo bao trùm. Hồn tử sĩ gió ù ù thổi Mặt chinh phu trăng dõi dõi theo Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 50 +Trong cảnh chiến trƣờng đen tối ấy, chinh phụ cũng đã hình dung ra cuộc sống và vận mệnh của chinh phu. Cuộc sống của chàng thật gian lao, vất vả: Ôm yên gối trống đã chồn Nằm vùng cát trắng, ngủ cồn rêu xanh Rồi hành quân di chuyển tƣởng nhƣ không bao giờ chấm dứt: Nay Hán xuống, Bạch Thành đóng lại Mai Hồ vào, Thanh Hải dòm qua +Giữa hoàn cảnh hiểm nghèo, gian lao ấy chinh phu không còn giữ đƣợc khí thế hào hùng của buổi đầu xuất quân. Chàng trở nên mệt mỏi, bạc nhƣợc trƣớc cuộc sống chiến tranh: Hơi gió lạnh người rầu mặt dạn Dòng nước sâu ngựa nản chân bon Não người áo giáp bấy lâu Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây +Nàng nhƣ đã nhìn thấy kết cục bi thảm của chồng mình ở chốn đạn lạc, tên rơi: Chinh phu tử sĩ mấy người Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn? hoặc Phận trai già ruổi chiến trường Chàng Siêu mái tóc điểm sương mới về +Những trang thơ này của tác phẩm đã đƣa đến cho ngƣời đọc một nhận thức: Chiến tranh phong kiến không có chỗ nào dung hợp với con ngƣời, chiến tranh phong kiến là đối lập với cuộc sống con ngƣời. Trong quan niệm của nhà thơ những con ngƣời tham gia vào cuộc chiến tranh là những con ngƣời đi vào cõi chết. Quan niệm này thực chất là một cách phản đối chiến tranh. -Sau khi trải qua những giây phút lo âu cho cuộc sống và vận mệnh của chồng nơi chiến địa chinh phụ trở lại với thực tại của mình. Giờ đây cuộc sống đơn chiếc, lẻ loi gợi lên trong tâm trí nàng bao nhiêu câu hỏi về nguyên nhân của sự xa cách: Trong cửa này đã đành phận thiếp Ngoài mây kia há kiếp chàng vay, Những mong cá nước sum vầy. Bao ngờ đôi ngả nước mây cách vời Thiếp chẳng tưởng ra người chinh phụ, Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 51 Chàng há từng học lũ vương tôn Cớ sao cách trở nước non Khiến người thôi sớm thôi hôm những sầu Khách phong lưu đương chừng niên thiếu Sánh cùng nhau dan díu chữ duyên Nỡ nào đôi lứa thiếu niên Quan sơn để cách, hàn huyên bao đành Ở đây cái nhận thức đầu tiên rõ rệt nhất của chinh phụ là cuộc sống hạnh phúc của vợ chồng nàng bị phá vỡ, hai ngƣời phải chia lìa đôi ngả là hết sức vô lí, là không thể chấp nhận đƣợc. 4.1.3.Tiếp theo, ngƣời chinh phụ sống trong hoàn cảnh vắng biệt tin chồng. -Chinh phụ nhiều lần nhớ lại những lời hẹn của chồng nhƣng Ngƣời sao mƣời hẹn chín thường đơn sai, rồi tiếp theo có lúc nàng được tin chồng, dần dần rồi vắng biệt. Vì vậy nàng đã phải sống trong một tâm trạng chờ đợi, hi vọng rồi thất vọng đến chua xót. Ðau khổ vì biệt li, vì chờ đợi, vì thất vọng đã làm cho nàng nhƣ khô héo thêm. Chiến tranh đã laòm tàn phai nhan sắc, làm héo hon tấm lòng ngƣời vợ trẻ trông chồng.Sự đối lập giữa con ngƣời và chiến tranh càng trở nên mạnh mẽ. Trâm cài, xiêm giắt thẹn thùng Lệch vòng tóc rối, lỏng vòng lưng eo. Nỗi sầu muộn nhƣ ngày càng chồng chất thêm trong lòng chinh phụ, nó nhƣ một sức mạnh vật chất đè nặng lên cuộc sống của nàng: Sầu ôm nặng hãy chồng làm gối Muộn chứa đầy hãy thổi làm cơm Chinh phụ đã tìm mọi cách để giải sầu nhƣ xem hoa, đánh đàn thậm chí dùng cả biện pháp mạnh nhất là uống rƣợu, nhƣng Sầu làm rƣợu nhạt, muộn làm hoa ôi.Nỗi sầu muộn vẫn lấn át tất cả, nỗi sầu muộn đã làm cho nàng mất hết mọi cảm giác trƣớc cuộc sống. -Mặt khác sự xa cách nhƣ một luồng gió mạnh thổi cháy bùng thêm khát vọng hạnh phúc ở chinh phụ. Vì thế nàng đã nghĩ đến việc đƣợc gần chồng và cuối cùng nàng đã tìm đến giấc mộng, trong mộng nàng đã đƣợc gặp lại ngƣời chồng thân yêu: Duy còn hồn mộng được gần Ðêm đêm thường đếïn Giang Tân tìm người Tìm chàng thưở Dương đài lối cũ Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 52 Nhƣng mộng quá ngắn ngủi, vả lại mộng vẫn là mộng, thực vẫn là thực không sao thay thế cho nhau đƣợc. Trái lại cái đẹp đẽ của hồn mộng càng làm cho cuộc sống của nàng thêm chua xót hơn mà thôi: Sum vầy mấy lúc tình cờ Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân Giận thiếp thân lại không bằng mộng Ðược gần chàng bến Lũng thành quan Khi mơ những tiếc khi tàn Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không Ngƣời chinh phụ nhận ra rằng cái hạnh phúc đáng quí nhất đối với nàng vẫn là hạnh phúc trần tục. -Rồi chinh phụ lại tìm cách lên cao để ngóng trông chồng, nhƣng lên cao nhìn khắp bốn bề Ðông, Tây, Nam, Bắc phía nào nàng cũng bắt gặp những cảnh buồn hiu hắt, tiêu điều. Chƣa hết ngƣời chinh phụ lại ao ƣớc có đƣợc phép tiên để đi gặp chồng nhƣng rồi nàng phải thú nhận với lòng mình là điều đó không bao giờ có đƣợc. Ngƣời chinh phụ đã khai thác hết mọi khả năng, mong làm cho mình bớt sầu, bớt khổ, mong đƣợc gặp lại chồng nhƣng đằng nào cũng thấy dựng lên những bức tƣờng cao ngất. Bế tắc đến tuyệt vọng, chinh phụ đã phải thốt lên thật cay đắng: Lòng này hóa đá cũng nên E không lệ ngọc mà lên trông lầu Chinh phụ tƣởng chừng nhƣ không còn đủ sức chịu nổi nỗi đau đớn phải lên lầu một lần nữa. Cơn khủng hoảng tinh thần đã lên tới đỉnh điểm, con ngƣời thật trong chinh phụ đã bắt đầu cất tiếng nói, nàng hối hận vì giấc mộng công hầu mà để chồng ra đi chinh chiến để rồi hạnh phúc tuổi xuân bị dang dở: Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu, Thà khuyên chàng đừng chịu sắc phong Trong con ngƣời chinh phụ giờ đây niềm tây đã chiến thắng phép công. Nàng đã dám phủ nhận lí tƣởng công danh, nàng đã hiểu hạnh phúc lứa đôi có ý nghĩa hơn chiếc ấn phong hầu. Ðây cũng là một nét tâm lí phổ biến của con ngƣời thời đại lúc bấy giờ, chàng trai trong Chinh phu ngâm khúc cũng đã thú nhận: Lòng ta không muốn mặc áo giáp Bụng nàng há muốn giữ chinh y -Ý nghĩ Thà khuyên chàng đừng chịu tƣớc phong đặt vào hoàn cảnh lúc bấy giờ nó có ý nghĩa lúc bấy giờ vì nó coi trọng hạnh phúc, coi trọng sinh mệnh của con ngƣời. Nó có ý nghĩa phản chiến vì nó đối lập với âm mƣu của giai cấp thống trị muốn dùng cái bả công danh để thúc đẩy binh sĩ, tƣớng tá ra trận để bảo vệ ngai vàng cho chúng, làm bia đỡ đạn cho chúng. Nhƣng do điểm xuất phát của chinh phụ chỉ là hạnh phúc cá nhân, cho nên phản ứng của nàng chỉ có thể dừng lại ở mức độ đó. 4.1.4.Ngƣời chinh phụ tìm cách giải quyết mối mâu thuẫn giữa niềm tây và phép công bằng sự cầu nguyện. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 53 -Nàng cầu mong cho ông trời phù hộ cho chồng mình trăm trận nên công và trở về trong ánh hào quang của chiến thắng với mọi vinh dự mà chế độ phong kiến có thể đƣa lại cho những kẻ đã tận tâm phục vụ nó. 2.Giá trị phản chiến và giá trị nhân đạo của tác phẩm. 4.2.1.Giá trị phản chiến. -Theo dõi quá trình diễn biến tâm trạng của chinh phụ ta thấy có quá trình vận động, phát triển tuy rất chậm chạp khó thấy. Ðôi với cuộc chiến tranh mà chồng nàng tham gia, chinh phụ có một thái độ mâu thuẫn- vừa tán thành, vừa oán trách. Nhƣng xét trong toàn bộ khúc ngâm, chúng ta thấy phần chủ yếu của tác phẩm không dành cho việc miêu tả thái độ tán thành mà chủ yếu tập trung vào miêu tả thái độ chán ghét chiến tranh. -Về chất lƣợng, phần tả cảnh tƣơi sáng của cuộc chiến không phải không thành công nhƣng phần có sức rung cảm ngƣời đọc mạnh mẽ nhất vần là phần miêu tả nỗi sầu muộn của ngƣời chinh phụ. Phần tả cảnh chiến trƣờng đen tối đã thật sự gây một ấn tƣợng bi thảm rất nặng nề trong lòng ngƣời đọc. Vì thế, mặc dù khúc ngâm kết thúc trong cảnh tƣng bừng của chiến thắng thì âm hƣởng của toàn bộ khúc ngâm vẫn là âm hƣởng bi ai, sầu oán. Khuynh hƣớng chính toát ra từ hình tƣợng của tác phẩm vẫn là khuynh hƣớng oán ghét chiến tranh phi nghĩa phong kiến. -Tuy nhiên tiếng nói phản chiến ở đây sẽ có những hạn chế nhất định.. -Tuy tiếng nói phản chiến trong chinh phụ ngâm còn có những hạn chế, nhƣng tác phẩm đã thể hiện đƣợc tấm lòng, tƣ tƣởng, tình cảm của nhân dân ta trong một thời đại. Vì vậy về cơ bản tác phẩm vẫn chứa đựng một giá trị tiến bộ. 4.2.2.Giá trị nhân đạo. Theo dõi quá trình diễn biến tâm trạng của chinh phụ chúng ta thấy sự thắng thế của niềm tây đối với phép công là tất yếu vì nó có quá trình chuẩn bị và những diễn biến phù hợp với tâm lí nhân vật. Vậy những nhân tố nào đã thúc đẩy sự thắng thế đó? -Trƣớc hết đó là lòng yêu thƣơng chồng của chinh phụ, một tình yêu chân thành, đằm thắm có tính chất vị tha tuy có mang màu sắc quí tộc nhƣng nó cũng nằm trong truyền thống tốt đẹp yêu chồng, thƣơng con của ngƣời phụ nữ Việt Nam. Ðây chính là cơ sở để nỗi lòng cuả nhân dân lao động đồng cảm với nỗi lòng của chinh phụ. Trong tác phẩm ta thấy ngƣời chinh phụ muốn bù đắp cho những khổ sở của chồng nơi chiến trƣờng và có khi nàng trách chồng bằng những lời đầy yêu thƣơng. -Tình yêu của nàng có tính chất vị tha nhƣng không khắc kỷ, yêu thƣơng chồng tha thiết nhƣng đồng thời nàng cũng có ý thức khá sâu sắc về quyền sống, quyền hƣởng hạnh phúc của mình. Ðây chính là nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy niềm tây chiến thắng phép công. Nói tóm lại chinh phụ vì yêu thƣơng chồng mà oán ghét chiến tranh, thái độ oán ghét đó đƣợc tăng lên bởi lòng khao khát hạnh phúc, bởi ý thức về quyền sống cá nhân. Ghi nhận đƣợc điều này là một đóng góp độc đáo của Ðặng Trần Côn vào kho tàng văn học cổ Việt Nam trong quá khứ khi viết về đề tài chinh phu, chinh phụ. Ðây cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. V.MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGHỆ THUẬT 1.Tập cổ và sáng tạo. - Hoàng Xuân Hãn cho rằng: Cả khúc ngâm này gần nhƣ một bài tập cổ. Giáo trình Văn học Trung đại Việt Nam Thandieu2 _ Sƣu tầm 54 -Tóm lại từ những tài liệu vay mƣợn, tác giả đã tạo ra một tác phẩm có quy mô lớn hơn bất cứ tác phẩm nào mà ông đã vay mƣợn. 2.Bút pháp tƣợng trƣng và khả năng phản ánh chân thực cuộc sống. -Trong Chinh phụ ngâm nghệ thuật ƣớc lệ đƣợc sử dụng một cách phổ biến. Ở đây tất cả các chi tiết không nên hiểu theo ý nghĩa xác thực của nó mà phải hiểu trong tính chất ƣớc lệ, tƣợng trƣng. - Sáng tác với bút pháp tƣợng trƣng, ƣớc lệ nhƣng Chinh phụ ngâm vẫn phản ánh chân thực cuộc sống bởi vì tác phẩm đã nói đƣợc vấn đề cơ bản của thời đại, tâm lí của con ngƣời thời đại. 3.Nghệ thuật biểu hiện tâm trạng. -Tác giả đã xây dựng đƣợc một kết cấu chặt chẽ, miêu tả đƣợc sự diễn biến phong phú, tinh vi trong tâm tình chinh phụ theo một trình tự lôgic tâm lí chặt chẽ bảo đảm sự thống nhất. Tác giả đã gắn tâm lí với hoàn cảnh, tôn trọng quy luật tâm lí. Ðau khổ tăng dần, nhận thức về chiến tranh cũng diễn biến. Ðây là kết quả của một quá trình suy ngẫm và thể hiện. -Tác giả đã chú ý tả cảnh để tả tình, tình cảnh có khi thống nhất hoặc mâu thuẫn. -Tác giả đã sử dụng thủ pháp trùng điệp (láy lại), liên hoàn (nối tiếp), chiếu ứng (so sánh) để tạo ra những đợt sóng cảm xúc. -Tác giả đã chú ý khai thác nhiều yếu tố tâm lí nhƣ liên tƣởng, hồi tƣởng, tƣởng tƣợng. -Ngôn ngữ điêu luyện: Chinh phụ ngâm có cả một kho từ vựng diễn tả tình cảm u sầu với những sắc thái khác nhau. *Tóm lại tác giả đã miêu tả tâm trạng của chinh phụ khá sâu sắc và tâm trạng ấy phản ánh con ngƣời Việt Nam- con ngƣời thiết tha với hạnh phúc. Vì thế tác phẩm giúp chúng ta hiểu con ngƣời Việt Nam trong hiện tại. 4.Thành công của bản dịch. Bản dịch đƣợc coi nhƣ là một sáng tác phẩm có giá trị độc lập tƣơng đối với nguyên văn. VI. KẾT LUẬN -Tuy có những hạn chế nhất định, nhƣng Chinh phụ ngâm là tiếng nói khao khát hạnh phúc, khao khát hòa bình của dân tộc ta trong một thời đại nhất định. Tiếng nói ấy càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết vì nó là tiếng nói của một ngƣời phụ nữ- nạn nhân đau khổ nhất của chế độ cũ. Ðƣơng thời tác phẩm đã góp phần vào cuộc đấu tranh cho quyền sống, quyền hƣởng hạnh phúc của con ngƣời, đấu tranh chống áp bức của giai cấp thống trị. -Ngày nay, tiếng nói thiết tha với hạnh phúc tình yêu của tác phẩm còn rất có ích trong việc xây dựng tâm hồn cho thế hệ trẻ, đó cũng là lí do khiến cho tác phẩm đƣợc đƣa vào chƣơng trình của phổ thông trung học. Chƣơng 13: HỒ XUÂN HƢƠNG I. CON NGƢỜI VÀ THƠ
File đính kèm:
- giao_trinh_van_hoc_trung_dai_viet_nam_phan_1.pdf