Giáo trình Y học cổ truyền - Chương 12: Trường thọ. Sinh con theo ý muốn - Nguyễn Khắc Bảo

Tóm tắt Giáo trình Y học cổ truyền - Chương 12: Trường thọ. Sinh con theo ý muốn - Nguyễn Khắc Bảo: ...Nam đã xuất hiện các công bố về toa thuốc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử. Nhật báo Sống (Sài Gòn) số ra ngày 27.4.1968 đã đăng một toa thuốc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử với 25 vị thuốc bắc. Đến năm 1987, lương y Lê Văn Sơn, với sự trợ giúp của lương y Bùi Văn Nông, thuộc Tổ chẩn trị y học dân...u. Theo lương y Thích Tuệ Tâm, toa thuốc của vua Minh Mạng có hai bài là Nhất dạ ngũ giao sinh tứ tử, thích hợp cho lứa tuổi từ 30 đến 40 và bài Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử thích hợp cho người từ 40 tuổi trở lên. Kèm theo bài báo, lương y Thích Tuệ Tâm cũng đã công bố một bài thuốc Nhất dạ ...Đại hồi 4g 21- Nhục quế 4g 22- Cát tâm sâm 20g 23- Cúc hoa 12g 24- Đại táo 10 quả Cách ngâm: 24 vị thuốc trên ngâm với hai lít rưỡi rượu tốt trong vòng 7 ngày. Lấy 150 g đường phèn nấu với một xị nước sôi cho tan, để nguội rồi đổ vô keo rượu thuốc, trộn đều, đến ngày thứ 10 đem dùng dầ...

pdf27 trang | Chia sẻ: havih72 | Lượt xem: 254 | Lượt tải: 0download
Nội dung tài liệu Giáo trình Y học cổ truyền - Chương 12: Trường thọ. Sinh con theo ý muốn - Nguyễn Khắc Bảo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bệnh đậu mùa biến chứng dẫn đến “bất lực”, rất muốn có con để truyền ngôi. 
Còn vua Minh Mạng thì lại khác. Theo Nguyễn Phúc tộc thế phả (NXB Thuận Hóa, 
1995), nhà vua chính thức có 43 phi, tần. Tuy vậy, cho đến nay, chưa ai biết vua Minh 
Mạng có bao nhiêu cung nữ, vì sử sách không ghi rõ. Bộ Minh Mạng chính yếu của 
Quốc Sử quán triều Nguyễn chỉ tiết lộ, vào tháng giêng năm Minh Mạng thứ 6 (tháng 
2.1825) trong kinh kỳ ít mưa, nhà vua thấy hạn làm lo, chỉ dụ cho quan Thượng Bảo 
khanh là ông Hoàng Quýnh rằng: “Hai ba năm trở lại đây, hạn hán liên tiếp. Trẫm nghĩ 
xem vì đâu mà thế, nhưng chưa tìm ra nguyên nhân, có lẽ trong thâm cung, cung nữ 
nhiều nên âm khí uất tắc mà nên vậy ư? Nay bớt đi, cho ra một trăm người, ngõ hầu có 
thể trừ thiên tai vậy”. Con số bớt đi mà đã tới 100 cung nữ, vậy số còn lại trong cung 
chắc hẳn phải là vài trăm trở lên. 
Trong cuốn Kể chuyện các đời vua nhà Nguyễn do Nguyễn Viết Kế sưu soạn (NXB Đà 
Nẵng, 1996) viết: “Bình nhật, khi nghỉ ngơi, vua có 5 bà vợ hầu hạ: một bà vấn thuốc 
têm trầu, một bà quạt, một bà đấm bóp, một bà ru và một bà để sai vặt. Mỗi đêm, vua 
cho thái giám gọi 5 bà vào hầu. Mỗi bà một canh. Hết 5 canh thì danh sách các bà được 
chuyển giao cho Tôn Nhơn phủ giữ để tiện theo dõi việc khai hoa nở nhụy của các bà sau 
này”. 
Từ những so sánh ấy mà người ta đã suy diễn ra rằng “nhà vua cần tăng lực để thỏa mãn 
thú vui xác thịt với hàng trăm bà vợ trong cung”. 
Cũng theo nhà nghiên cứu Phan Thuận An, tương truyền một số lương y hiện nay ở Huế 
có nghe các vị ngự y tiền bối kể lại rằng vua Minh Mạng đã xài phí sức lực vào việc giới 
tính từ rất sớm, ngay từ thời còn là hoàng tử. Một thời gian trước khi lên ngôi (năm 
1820, vua 29 tuổi), ông đã rất yếu về đường sinh dục. Cho nên sau khi đăng quang, vua 
đã ra lệnh cho các quan ngự y phải cố gắng giúp mình lấy lại sức khỏe. Do đó, các ngự y 
đã “đối chứng lập phương” làm ra thang thuốc bổ ngâm rượu để nhà vua dùng hằng ngày 
và thang thuốc này rất hiệu nghiệm. Và hiệu nghiệm đầu tiên rất cụ thể đó là về mặt sinh 
lý, nhà vua đã sinh được 78 hoàng tử và 64 hoàng nữ. Hiệu nghiệm thứ hai đó là về mặt 
tinh thần, trí tuệ. Lịch sử cho thấy 20 năm trị vì, vua Minh Mạng đã làm được rất nhiều 
việc tốt đẹp cho đất nước trên nhiều lĩnh vực hành chánh, kinh tế, văn hóa, xã hội... Có 
thể nói thời Minh Mạng là đỉnh cao của vương triều Nguyễn. 
Vì công hiệu của toa thuốc mà nhà vua đã dùng ấy, các quan lớn trong triều đã “phạm 
thượng” bí mật sao chép mang về để dùng, rồi sau đó lan truyền trong dân gian. 
 14 
Thêm một cứ liệu nữa khiến người ta quy kết những toa thuốc có tên Nhất dạ lục giao là 
toa thuốc của vua Minh mạng, bởi vì tương truyền, chính vua Minh Mạng đã từng có thơ 
nhắc đến việc Nhất dạ lục giao tam hữu dựng (một đêm 6 lần giao hợp, 3 lần có con). 
Câu thơ này được tác giả Phạm Khắc Hòe, Ngự tiền văn phòng Đổng lý thời vua Bảo 
Đại chép trong sách Kể chuyện vua quan triều Nguyễn (NXB Thuận Hóa xuất bản năm 
1990). 
Từ câu thơ này mà nhiều người cho rằng chính những bài thuốc lưu truyền trong dân 
gian với tên gọi như: Nhất dạ lục giao, Nhất dạ ngũ giao, Lục giao tam dựng, Ngũ giao 
tam dựng... là toa thuốc của vua Minh Mạng dùng. 
Những bài thuốc lưu truyền trong dân gian 
Sau bài viết của tác giả Phan Thuận An, các lương y trong và ngoài nước liên tục phát 
hiện và công bố thêm nhiều dị bản Minh Mạng thang lưu truyền trong dân gian. 
Nhiều dị bản 
Theo lương y Phan Tấn Tô, sau bài viết của nhà nghiên cứu Phan Thuận An, liên tục trên 
các báo và tạp chí y học dân tộc, các lương y ở Huế đã công bố phát hiện thêm nhiều bài 
thuốc Nhất dạ lục giao, Nhất dạ ngũ giao, Lục giao tam dựng... 
Báo Thừa Thiên-Huế số Tết năm 1993 có bài viết Nói thêm về toa thuốc bổ của vua 
Minh Mạng của tác giả lương y Thích Tuệ Tâm, phụ trách Tuệ Tĩnh đường Diệu Đế 
(trước đây ở địa chỉ 100 Bạch Đằng, nay ở chùa Liên Hoa, đường Lê Quý Đôn, TP.Huế). 
Bài viết nêu một số phân tích từ thực tiễn cắt thuốc cho bệnh nhân và đưa ra kết luận: 
thực ra đây là bài thuốc không chỉ dành cho các bậc vua chúa mà bất cứ ai có bệnh đều 
dùng được, cả nam lẫn nữ. Tuy vậy, theo từng thể bệnh nhân mà gia giảm cho phù hợp. 
Bài viết cũng phân tích công dụng của thuốc với các loại đối tượng khác nhau. Theo 
lương y Thích Tuệ Tâm, toa thuốc của vua Minh Mạng có hai bài là Nhất dạ ngũ giao 
sinh tứ tử, thích hợp cho lứa tuổi từ 30 đến 40 và bài Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử thích 
hợp cho người từ 40 tuổi trở lên. Kèm theo bài báo, lương y Thích Tuệ Tâm cũng đã 
công bố một bài thuốc Nhất dạ ngũ giao sinh tứ tử, với 20 vị. 
Sau đó, cuốn Nguyễn Triều cố sự huyền thoại về danh lam xứ Huế của tác giả Bửu Kế 
(NXB Đà Nẵng tái bản năm 1996) phần phụ lục có đăng hai bài thuốc Minh Mạng thang, 
ghi là của lương y Thích Tuệ Tâm, trong đó một bài là Nhất dạ ngũ giao (20 vị) và Nhất 
dạ lục giao (24 vị). Năm 1997, trong cuốn Sổ tay Võ thuật phần Sức khỏe cho mọi người 
cũng công bố một bài thuốc gọi là Minh Mạng thang với 25 vị, do Nguyễn Thị Thanh 
Xuân sưu tầm. 
Ngoài ra, các lương y còn sưu tầm thêm được 2 phái thuốc gọi là Phái thuốc bổ của vua 
Minh Mạng, tại nhà ông Nghi ở đường Đào Duy Từ (TP.Huế), nguyên là cán bộ Tòa án 
tỉnh Thừa Thiên chế độ cũ. Theo gia đình ông Nghi, hai phái thuốc này do gia đình quan 
Ngự y triều Nguyễn là Lê Quốc Chước cung cấp (đã dịch ra quốc ngữ). Theo đó, 2 phái 
 15 
thuốc gồm phái chính (13 vị) và phái phụ (18 vị), có ghi chú công dụng: thuốc này bổ 
thận, tráng dương, cường lực, sung khí huyết, đen râu tóc, do quan Ngự y Lê Quốc 
Chước dâng vua Minh Mạng sau ngày lễ đăng quang. Tuy nhiên, theo ông Phan Tấn Tô, 
trong Mục lục Châu bản triều Nguyễn chưa thấy tên của quan Ngự y Lê Quốc Chước nên 
chưa thể kiểm chứng chắc chắn. 
Toa thuốc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử của gia đình quan Ngự y Phạm Đạt, 
ảnh chụp từ tài liệu của lương y Phan Tấn Tô 
 16 
Một trong những bài Minh Mạng thang chép tay bằng chữ Hán 
Trong quá trình sưu tầm, các lương y còn tìm thấy ở gia đình hậu duệ của lương y Đoàn 
Cảnh (làng Khuôn Phò, xã Quảng Phước, H.Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế) một bài 
thuốc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử, với 19 vị. Đông y sĩ Đoàn Cảnh vừa là Chánh tổng 
vừa là thầy thuốc nổi tiếng tại làng Khuôn Phò. Trước năm 1940, lương y Đoàn Cảnh 
từng mở trường dạy nghề thuốc bắc tại địa phương và ông Nguyễn Sinh Khiêm, anh của 
Bác Hồ, đã nhiều lần vào ở lại nhà này. Cháu nội của lương y Đoàn Cảnh là đông y sĩ 
Đoàn Ngọc Phách (1910-1983), một danh y tại Huế, từng làm Tổng thư ký Hội Y dược 
Việt Nam Trung Việt (1950-1958). Từ bài thuốc của gia đình họ Đoàn, đạo sĩ Thích 
Thiên Đăng cũng có bài thuốc Trường Sinh. Theo đó, bài thuốc Trường Sinh hơi khác do 
có thêm hai vị là Khương hoạt và Ngưu tất, đồng thời bỏ bớt Đỗ trọng của bài thuốc họ 
Đoàn. 
Trong tập thức ăn chữa bệnh của người Trung Hoa (NXB Trẻ ấn hành năm 1995), lương 
y Lương Tú Vân và cộng sự cũng đã công bố 2 bài Tráng dương lục giao thang (23 vị) 
và Yêu cốt thống dược tửu (12 vị), với ghi chú do các Ngự y triều Nguyễn chế cho vua 
Minh Mạng dùng. 
Lưu truyền trong gia đình quan lại 
 17 
Đáng chú ý nhất là bài thuốc Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử của gia đình quan Ngự y Phạm 
Đạt, có tới 36 vị. Cụ Phạm Đạt là quan Ngự y cuối cùng của triều Nguyễn. Bài thuốc có 
trong tập Dược phẩm vựng yếu của Hải Thượng Lãn Ông, được cụ Phạm Đạt cho ông 
Vĩnh Thiều, được ông Vĩnh Cao giao lại cho lương y Lê Quý Ngưu. 
Năm 1996, tiến sĩ Võ Quang Yến thuộc Trung tâm nghiên cứu khoa học quốc gia Pháp 
(CNRS) cũng sưu tầm được bài thuốc bổ Minh Mạng, với 25 vị, nguyên văn chữ Hán, 
riêng phần hướng dẫn pha chế bằng tiếng Việt và công bố trên tạp chí Tiếng Sông 
Hương, ở Mỹ. 
Ngoài ra, tại gia đình ông Phạm Kim Âu (nguyên giáo sư giảng dạy tại Đại học Khoa 
học Huế) cũng lưu giữ bài thuốc Ngũ giao tam dựng (25 vị). Theo gia đình ông Âu, bài 
thuốc này do thân sinh của ông chép lại ở một gia đình ngự y, lưu giữ để dùng trong gia 
đình; Gia đình cụ cử nhân Phan Ngọc Hoàng (người đỗ cử nhân cuối cùng của triều 
Nguyễn) ở đường Huỳnh Thúc Kháng (TP.Huế) cũng lưu giữ bài thuốc Lục giao tam 
dựng (23 vị); Gia đình ông Nguyễn Khoa Thông, thuộc dòng họ danh gia thế tộc nhiều 
đời (ở Vỹ Dạ, TP.Huế) cũng lưu giữ bài Ngũ giao tam dựng; Gia đình cụ Trần Thước 
(trước đây làm Đốc học, là một trong những người biên soạn lại Mục lục Châu bản triều 
Nguyễn) thuộc dòng dõi của Quan phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành, cũng lưu giữ bài 
thuốc Minh mạng dược tửu với 15 vị. Bài thuốc nằm trong tập bản thảo chưa xuất bản 
Hư tự huyết giải của cụ Trần Thước, được gia đình lưu giữ. 
Cho tới nay, theo lương y Phan Tấn Tô, đã có ít nhất là 25 dị bản Minh Mạng thang khác 
nhau được sưu tầm, phát hiện và công bố. 
Bùi Ngọc Long 
Theo: thanhnien 
Một tài liệu khác 
Ngự tửu Minh Mạng thang 
Rượu này trở thành một đặc sản của Việt Nam kể từ ngày Việt Nam mở cửa cho du lịch 
và kinh tế thị trường để góp nhặt ngoại tệ. Cái gì thuộc về vua chúa nhà Nguyễn trước bị 
chửi là phong kiến, áp bức thì nay được xưng tụng là di sản văn hóa, trong đó có toa 
thuốc của Vua Minh Mạng. Toa thuốc này truyền tụng từ lâu ở Huế, được đồn là do vài 
vị ngự y chép được. Trong sách Nguyễn triều cố sự ; Huyền thoại về Danh lam xứ Huế ( 
1996), tác giả Bửu Kế chép ra hai bài thuốc vua Minh Mạng như sau theo tài liệu của 
Lương Y Tuệ Tâm: 
I - Nhất dạ ngũ giao 
 18 
Thành phần: 
1- Nhục thung dung 12g 
2- Táo nhân 8g 
3- Xuyên Qui 20g 
4- Cốt toái bổ 8g 
5- Cam cúc hoa 12 g 
6- Xuyên ngưu tất 8g 
7- Nhị Hồng sâm 20g 
8- Chích kỳ 8g 
9- Sanh địa 12g 
10 -Thạch hộc 12g 
11- Xuyên khung 12g 
12- Xuyêntục đoạn 8g 
13- Xuyên Đỗ trọng 8g 
14- Quảng bì 8g 
15- Cam Kỷ tử 20g 
16- Đảng sâm 10g 
17- Thục địa 20g 
18 - Đan sâm 12 g 
19- Đại táo 10 quả 
20- Đường phèn 300 g 
 19 
Cách ngâm: Đường phèn để riêng, 19 vị thuốc trên đem ngâm với 3 lít rượu nếp ngon 
trong 5 ngày đêm. ngày thứ sáu, nấu nửa lít nước sôi với 300 g đường phèn cho tan ra, để 
nguội, rồi đổ vô thẩu, trộn đều đến ngày thứ 10 thì đem ra dùng. Ngày 3 lần sáng, trưa , 
tối, mỗi lần 1 ly trà. Dùng liên tục. 
II- Nhất dạ lục giao 
Thành phần: 
1-Thục địa 40g 
2- Đào nhân 20g 
3-Sa sâm 20g 
4- Bạch truật 12g 
5 Vân qui 12g 
6- Phòng phong 12g 
7- Bạch thược 12g 
8- Trần bì 12g 
9-Xuyên khung 12g 
10- Cam thảo 12g 
11- Thục linh 12g 
12- Nhục thung dung 12g 
13- Tần giao 8g 
14-Tục đoạn 8g 
15- Mộc qua 8g 
16- Kỷ tử 20g 
17-Thường truật 8g 
 20 
18-Độc hoạt 8g 
19- Đỗ trọng 8g 
20- Đại hồi 4g 
21- Nhục quế 4g 
22- Cát tâm sâm 20g 
23- Cúc hoa 12g 
24- Đại táo 10 quả 
Cách ngâm: 24 vị thuốc trên ngâm với hai lít rưỡi rượu tốt trong vòng 7 ngày. Lấy 150 g 
đường phèn nấu với một xị nước sôi cho tan, để nguội rồi đổ vô keo rượu thuốc, trộn 
đều, đến ngày thứ 10 đem dùng dần. Ngày 3 lần, mỗi lần 1 ly nhỏ, sáng, trưa , chiều 
trước bữa ăn. Bã thuốc còn lại ngâm nước hai với một lít rưỡi rượu ngon- một tháng sau 
dùng tiếp. 
Chủ trị: Cả hai bài trên có tác dụng đại bổ thận, bồi bổ thần kinh, gia tăng khí huyết, tăng 
cường sinh lực, mạnh gân cốt, bán thân bất toại, dương sự kém, tăng tuổi thọ. 
(BS Lê Văn Lân 
E-Mail: bslevanlan@khoahoc.net) 
(Bắt đầu từ đoạn này do BS Nguyễn Văn Dương viết) 
*Hiện nay thành phần toa thuốc Minh Mạng theo chính bản đã bị thất truyền. 
Theo Bác sĩ Nguyễn Văn Dương, chuyên gia y học cổ truyền thì có nhiều bài Minh 
Mạng thang như bài “Nhất dạ ngũ giao đại bổ tạng thận” dùng lâu ngày tai mắt sáng tỏ, 
bài “Yếu cốt thống dược tửu” tạo xương cốt chắc khoẻ. 
Tuy nhiên nổi tiếng nhất vẫn là bài “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử”: bổ thận, bổ thần kinh, 
khí huyết lưu thông, tăng cường sinh lực, chống phong thấp, mạnh gân cốt, tăng tuổi thọ 
cho người cao tuổi, chống lão hóa, yếu thận, bán thân bất toại. 
Thành phần 
Thục địa 40g 
Đào nhân 40g 
Sa sâm 30g 
Bạch truật 24g 
Đương qui 24g 
Phòng phong 24g 
 21 
Bạch thược 24g 
Trần bì 24g 
Xuyên khung 24g 
Cam thảo 24g 
Phục linh 24g 
Tần giao 16g 
Tục đoạn 16g 
Mộc hoa 16g 
Kỳ tử 16g 
Thương truật 16g 
Độc hoạt 16g 
Khương hoạt 16g 
Bắc đỗ trọng 16g 
Đại hồi 12g 
Nhục quế 12g 
Đại táo 30g 
Đường phèn 3 lạng 
Sử dụng: 
Tất cả được ngâm trong rượu nếp ngon 450ml dùng uống mỗi ngày 4 lần, mỗi lần một ly 
nhỏ (30ml), tối trước khi đi ngủ uống thêm một ly nhỏ nữa. 
Rượu thuốc Minh Mạng có tên là Đại bổ Dược tửu dùng cho người bị liệt dương, dương 
sự bất động, uống liên tục đều đặn hàng tháng mới có tác dụng. 
có thể gia thêm thục địa 3 lạng, cam kỷ tử 1 lạng, nhân sâm 5 chỉ./. 
 22 
CHƯƠNG 12 
VẤN ĐỀ 3 : BÀI THUỐC 
TRƯỜNG THỌ QUÝ CHÂU 
Tại Quý Châu, phía nam Trung quốc có một làng mười mấy hộ nông 
dân mấy đời trường thọ. Cô ký giả họ Bành đến Quý Châu công tác đã 
phỏng vấn một hộ có người cha 130 tuổi, người mẹ 120 tuổi, trưởng 
nam 90, thứ nam 80 tuổi. 
 Cô Bành hỏi ông cụ có bí quyết gì mà dân làng lại có tuổi thọ cao 
thế. Ông cụ nói rằng : "Tôi đã già rồi, không biết còn sống bao lâu nữa. 
Nay tôi để lại bài thuốc là bí quyết trường thọ của tôi cho mọi người sau 
này cùng hưởng thọ". 
 Cô Bành gửi bài thuốc về Hồng Kông cho mẹ. sau khi uống theo 
bài thuốc hai tháng, mẹ cô Bành đã hết bệnh suyễn, răng chắc lại. Cô 
Bành phát nguyện đem bài thuốc phổ biến cho mọi người cùng uống. 
 Bài thuốc trị các chứng bệnh : Di tinh, mộng tinh, hoạt tinh, mất 
ngủ, đau lưng, đau khớp xương, kinh nguyệt không đều, điều trị sau 
bệnh, tóc bạc chuyển đen, biếng ăn, người có bệnh trị bệnh, người khoẻ 
mạnh uống tăng tuổi thọ, nam nữ già trẻ gì đều uống được (nhưng phụ 
nữ có thai không nên dùng) 
 BÀI THUỐC GỒM : 
 1. Đỗ trọng (3 chỉ) 2. Thục địa (3 chỉ) 
 3. Xuyên khung (1 chỉ) 4. Tiền hồ (3 chỉ) 
 5. Khương hoạt (2 chỉ) 6. Phục Linh (3 chỉ) 
 7. Trần bì (2 chỉ) 8. Sa sâm (5 chỉ) 
 23 
 9. Đại cáo (6 viên) 10. Ngọc trúc (2 chỉ) 
 11. Mộc qua (2 chỉ) 12. Cam thảo (2 chỉ) 
 13. Ngưu tất (3 chỉ) 14. Phòng phong (2 chỉ) 
 15. Bạch thượt (2 chỉ) 16. Táo nhân (5 chỉ) 
 17. Linh tiên (5 chỉ) 18. Thục đoan (2 chỉ) 
 19. Nhục quế (3 chỉ) 20. Cầu kỳ tử (5 chỉ) 
 21. Đại hồi (3 chỉ) 22. Tân giao (2 chỉ) 
 23. đường phèn. 
 Tất cả có 23 vị thuốc ngâm trong 3 lít rượu đế 60 độ trong thời gian 
hai tháng. Sau đó có thể đem dùng hàng ngày, mỗi ngày uống một lần, 
mỗi lần 5 c.c (1 chung) sau bữa ăn. 
 24 
CHƯƠNG 12 
VẤN ĐỀ 4 : BÀI THUỐC BÁT TIÊN TRƯỜNG THỌ 
Bài thuốc tuy chỉ có 8 vị, mà các danh y xưa đã có sự chọn lựa, phối hợp 
hoàn thiện để tăng cường tối đa tác dụng bổ thận âm nhằm kéo dài tuổi thọ cho cơ 
thể. 
Lịch sử y học cả đông và Tây y từ ngàn xưa đều cố tìm những bài thuốc 
uống vào để con người được trường sinh bất tử. Tuy nhiên, chẳng có ai tìm ra 
được bài thuốc đó cả, và khoa học ngày nay đã chứng minh ước muốn đó là viễn 
tưởng. Trong quá trình tìm kiếm ấy, nền y học cổ truyền (YHCT) đã phát hiện ra 
một bài thuốc có tác dụng thần diệu như thuốc tiên để kéo dài tuổi thọ. Bài thuốc 
này được các danh y Trung Quốc tìm ra cách đây gần 1.900 năm và được đặt tên 
là “Bát tiên trường thọ”. 
Tương truyền, vua Vũ Đế thời nhà Hán (Trung Quốc) muốn bất tử nên đã sai các 
bậc lương y nổi tiếng thời ấy chế ra các thuốc đan sa để uống. Do uống nhiều 
thuốc quá, chẳng những không thành tiên để hưởng sự bất tử, mà nhà vua còn mắc 
thêm chứng bệnh bị sốt, khát nước, đi tiểu nhiều lần làm sức khỏe suy sụp. 
Trương Trọng Cảnh (tên hiệu là Tràng Sa), là một lương y nổi tiếng của Trung 
Quốc thời bấy giờ, đã chế ra phương thuốc “Bát vị” sắc cho nhà vua uống mà sức 
khỏe của vua hồi phục. Về sau qua ứng dụng trên lâm sàng, các ông như Trương 
Trọng Cảnh, Tiền Ất và các bậc lương y nổi tiếng khác tiếp tục gia giảm, biến hóa 
thành “Bát tiên trường thọ” và được lưu giữ, ứng dụng cho đến ngày nay. 
Đối với cuộc đời của từng con người, do lao động nặng nhọc, bệnh tật, do kinh 
nguyệt, thai, sản ở nữ giới, nên phần tinh, huyết bị hao tán quá mức. Hậu quả là 
phần âm, huyết bị giảm sút làm cho âm dương bị thiên lệch mà sinh ra bệnh tật, 
tuổi thọ bị giảm sút. 
Các bậc danh y xưa đều khẳng định muốn không bị bệnh tật, muốn kéo dài tuổi 
thọ thì cần phải thường xuyên bổ phần âm. Mà bổ phần âm chính là bổ dưỡng cho 
thận âm, bởi vì thận âm đại diện cho phần âm trong cơ thể. 
Cũng theo lý luận YHCT, vì lục phủ, ngũ tạng của con người có quan hệ mật thiết 
với nhau, nên để bổ thận âm, ngoài việc sử dụng các vị thuốc tác dụng trực tiếp 
vào tạng thận, còn phải tác động vào các tạng phủ khác nữa. Cụ thể là để bổ thận 
âm, thì cũng phải bổ phế âm (vì theo quy luật ngũ hành: phế kim sinh thận thủy), 
phải kiện tỳ (vì tỳ vị có chức năng vận hóa chất dinh dưỡng từ thức ăn, uống thành 
tinh, huyết để nuôi dưỡng cơ thể và tàng trữ về thận), phải thanh hỏa ở tạng tâm, 
 25 
tạng can (vì hỏa ở hai tạng này nếu mạnh quá sẽ thiêu đốt phần âm, làm cho âm, 
huyết càng giảm sút thêm), phải trừ nhiệt ở hạ tiêu vì nhiệt tích ở đó sẽ ảnh hưởng 
trực tiếp đến thận thủy. 
Vậy bài thuốc “Bát tiên trường thọ” tác dụng đến các tạng phủ của cơ thể như thế 
nào mà có tác dụng kéo dài tuổi thọ thần diệu như vậy? 
1- Thục địa 16g, tác dụng trực tiếp vào thận để bổ thận âm, bổ tinh, sinh huyết. 
2-Sơn thù 8g, tác dụng bổ liễn âm, giữ tinh, ích khí, đuổi phong tà, phối hợp để 
làm tăng tác dụng bổ thận âm của vị thục địa. 
3-Hoài sơn 8g, tác dụng vừa bổ thận vừa kiện tỳ, phối hợp với phục linh giúp cho 
tỳ vị tăng cường khả năng vận hóa chất dinh dưỡng từ thức ăn, uống để nuôi cơ 
thể và biến thành tinh, huyết đưa về tàng trữ tại thận. 
4-Phục linh 6g vừa phối hợp với hoài sơn để kiện tỳ vị, vừa thanh trừ thấp nhiệt ở 
hạ tiêu làm cho thận âm khỏi bị hao tán. 
5-Đơn bì 6g tác dụng thanh trừ nhiệt ở tạng can, tạng tâm, vì hai tạng này là nguồn 
gốc phát sinh ra hỏa nhiệt làm tổn thương phần âm của tạng thận. 
6-Trạch tả 6g tác dụng lợi tiểu để trừ thấp nhiệt ở hạ tiêu, nhằm đưa dương khí bốc 
lên làm thính tai, mắt. 
7-Mạch môn 8g tác dụng bổ phế âm, tức là gián tiếp để bổ thận âm, vừa có tác 
dụng thanh nhiệt ở tạng tâm. 
8-Ngũ vị tử 4g tác dụng bổ thận, dưỡng tâm huyết, sinh tân dịch. 
Cách dùng: Sắc uống dạng thuốc thang: Mỗi ngày sắc uống 1 thang. Cách sắc: Lần 
đầu đổ 3 chén nước sắc còn 1 chén. Lần hai đổ 2 chén nước sắc còn 8/10 chén. Bỏ 
bã, cô nước đầu và nước 2 thành 1 chén, để nguội, chia 2 lần uống trước khi ăn 
cơm khoảng 30 phút. 
Có thể dùng bài thuốc trên chế thành tễ hoặc hoàn (nhưng phải bảo đảm tỷ lệ giữa 
các vị thuốc) để sử dụng. Mỗi ngày uống từ 30-50g. 
Tuy nhiên, một cơ thể khi đã lão suy, đều có những triệu chứng riêng rất khác 
nhau. Ví dụ có người thì bị tai điếc, mờ mắt, người thì đau lưng, đi tiểu nhiều lần, 
người thì ăn kém, sôi bụng, phù thũng... Vì vậy, tùy triệu chứng của mỗi người mà 
gia giảm bài “Bát tiên trường thọ” cho thích hợp, thì hiệu quả mang lại càng lớn. 
 26 
Sau đây là một số trường hợp gia giảm bài thuốc theo các chứng trạng của mỗi 
bệnh nhân. 
- Nếu người cao tuổi có da trắng, hay sợ lạnh, đại tiện lỏng, đi tiểu nhiều lần, mạch 
hữu xích trầm nhược (do thận âm, dương lưỡng hư) thêm phụ tử chế 2g, nhục quế 
2g, phá cố chỉ 6g, ích trí nhân 6g. 
- Nếu người gầy đen, sốt từng cơn, sốt về chiều (do thận hư kèm cảm nhiễm ngoại 
tà) thêm sài hồ 6g, bạch thược 6g, sinh địa 10g, đương quy 10g. 
- Người già đau lưng, mỏi gối, ù tai gia đỗ trọng 12g, ngưu tất 10g, cốt toái bổ 
12g. 
- Phụ nữ người gầy đen, trong người nóng bức, kinh ít hoặc mất kinh nguyệt, hay 
bị lở miệng, khô cổ gia quy thân 12g, bạch thược 10g, nhục quế 2g. 
- Người già tiểu tiện ít thông, chân tay phù thũng, bụng trướng, thở khó, có nhiều 
đàm (do thận dương, tỳ dương hư) gia phụ tử chế 3g, nhục quế 3g, sa tiền tử 12g, 
ngưu tất 12g, bội phục linh, hoài sơn lên 12-18g. 
- Người già cơ thể gầy gò, bị táo bón, mạch tả xích trầm nhược (do thận âm hư, 
tinh huyết ở đại trường khô kiệt) bội thục địa lên 24g, gia thêm ngưu tât 12g, nhục 
thung dung 12g. 
 27 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_y_hoc_co_truyen_chuong_12_truong_tho_sinh_con_the.pdf